How to teach your baby math
I. Dụng cụ |
Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013
Phương pháp Giáo dục sớm của Glenn Doman
Tài liệu bồi dưỡng kết nạp Đảng viên mới
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Hơn tám thập kỷ qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các
cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách
mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới
trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
như Chủ tịch 000.Hồ Chí Minh đã khẳng định, là cả một pho lịch sử bằng vàng.
Kho tàng lịch sử quý giá đó không chỉ gồm những sự kiện lịch sử oanh liệt, hào
hùng của Đảng và dân tộc mà điều có ý nghĩa lớn lao là những kinh nghiệm, những
bài học lịch sử, những vấn đề lý luận cách mạng Việt Nam được tổng kết từ hiện
thực lịch sử với những sự kiện oanh liệt hào hùng đó. Vì vậy, học tập, nghiên
cứu lịch sử Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi chúng ta.
Ngày 3-2-19 30, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của
sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại.
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt
đầu tiến hành xâm lược Việt Nam, rồi từng bước thiết lập chế độ thống trị của
chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, người Pháp trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong
bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận giai
cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến Việt Nam thành tay sai đắc lực. Sự cấu
kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai là đặc trưng của chế độ thuộc
địa. Chính quyền thuộc địa không chỉ tước hết quyền độc lập, quyền tự do dân
chủ của nhân dân ta mà còn tiến hành đàn áp một cách dã man mọi phong trào yêu
nước, ngăn chặn ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào nước ta.
Về kinh tế, thực dân Pháp triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích
của giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc
quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng
trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân
ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế
Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hoá - xã hội, Pháp thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá
nô dịch, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu,
phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp
đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn; hai giai cấp mới ra đời: giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế
độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai,
chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu
thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với
thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân
Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau.
Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh,
dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra
đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài,
gian khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần
đấu tranh anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân
dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930,
hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh
hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào
Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi
nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc
khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp
đàn áp tàn bạo và cuối cùng đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào
đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa
tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt
Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
3. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng
về đường lối cứu nước, ngày 5-6-19 11, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm đường cứu nước.
Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý
luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực
tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng
lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó,
kính phục V. I. Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng
Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú
đó đã giúp Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn
con đường cách mạng của mình.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Luận
cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây,
Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: "Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[1]; xác định những
vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai
cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng
nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với
Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng
sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc
tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường đúng đắn
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành
chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên cứu
và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân
và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời
gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng
11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn
bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn
luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của
Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu
nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở
thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có
tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được
thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập
ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở
Nam Kỳ.
- Ngày 1-1-19 30, Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có
ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của
phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để
lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi
lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng
yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-19 30, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản
họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm
vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành
lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong
những năm đầu thế kỷ XX, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước, là kết quả của quá trình lựa chọn,
sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị,
tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí
Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh,
đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên
tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện
Đảng ta.
II. NHỮNG
THÀNH TỰU VĨ ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa
giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám 1945
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước
đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các
tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu
tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc.
Qua 15 năm
đầu tiên lãnh đạo cách mạng (1930-1945), trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ hy
sinh, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945), khi thời
cơ đến Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công.
Nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và lật nhào
chế độ phong kiến tay sai thối nát.
Ngày 2-9-19 45, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập nên nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là
lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo
cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"1.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền
cách mạng và tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975)
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu
tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã phải đối mặt với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói
hoành hành đầu năm 1945 đã làm chết hơn hai triệu người ở miền Bắc. Trên 95%
dân Việt Nam mù chữ. Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào với mưu đồ
"diệt cộng, cầm Hồ". Ở miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp với sự giúp đỡ
của liên quân Anh - Ấn lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt
của Nhà nước ta còn rất non yếu; vận mệnh của đất nước trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách
đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta đã thực hiện sách lược mềm
dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hoá chúng, dành thời gian củng cố lực lượng,
chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên
tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn
dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ
vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt
cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
b) Đảng
lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hoà bình của Chính phủ và
nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân
nhượng nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp nước ta một lần
nữa.
Lịch sử đã
đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của
dân tộc. Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh dấu bằng chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ.
Đánh giá ý
nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội
chủ nghĩa trên thế giới”1.
Thắng lợi đó
làm sáng tỏ một chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là
nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh
đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực
lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ
có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường
lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho
nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”2.
c) Đảng lãnh
đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954 - 1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm thời chia
làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con
đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây
dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách
mạng Việt Nam, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan
trọng, có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này,
đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến
tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Trải qua 21 năm
chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ
trên thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ
ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi oanh liệt mùa
Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân
cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước;
bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ
độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đánh giá tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng viết: “Năm tháng sẽ
trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói
lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại
của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại
sâu sắc”1.
3. Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi, song cũng không ít khó
khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp,
hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực phản động bên ngoài tìm mọi cách phá hoại, bao vây, cấm vận, gây
khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Trên thế giới, phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp: chủ nghĩa xã hội gặp những khó
khăn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985),
cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những thành
tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về
mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, nhân dân ta đã có
những cố gắng to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh
tế - xã hội đạt được còn thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền
kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước
lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại hội VI của Đảng (tháng
12-1986), Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phân
tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí
trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991 -
1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VII
của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Đại hội VIII
của Đảng (từ ngày 22-6 đến ngày 1-7-1996) đã nhận định: “Công cuộc đổi mới
trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng.
Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho
5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn
chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: "Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội"1 và đề ra nhiệm vụ
kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến năm 2000 là: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu
quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế
kỷ XXI 2.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng
4-2001) đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định,
trong 5 năm 1996-2000, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua những khó
khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới,
Đại hội đã khẳng định: Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15
năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận
thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là thế
kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là
thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước
phát triển trên thế giới.
Đánh giá kết
quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IX trong 5 năm (2001-2005), Nghị quyết Đại hội
X của Đảng đã khẳng định: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đạt những
thành tựu rất quan trọng:
Một là, nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ
tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện.
- Tốc độ
tăng trưởng GDP năm sau cao hơn
năm trước. Bình quân trong 5 năm 2001-2005 đạt 7,51%, đạt mức kế hoạch đề ra.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát
triển, chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình, đóng góp
một cách có hiệu quả vào sự phát triển chung của đất nước. Hoạt động kinh tế
đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng.
- Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu. Một số
loại thị trường mới hình thành, phát triển phù hợp với cơ chế mới.
Hai là, văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời
sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa học - công
nghệ có bước phát triển khá; công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm
thu được nhiều kết quả; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt được kết quả
tốt, đã khống chế và đẩy lùi được một số bệnh dịch nguy hiểm; tuổi thọ trung
bình của người Việt Nam tăng.
Ba là, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được
tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới.
Bốn là, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có
tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.
Năm là, công tác
xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Đại hội cũng
chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém:
Một là, tăng trưởng
kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Hai là, cơ chế,
chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa
được giải quyết tốt, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, tội
phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng.
Ba là, các lĩnh
vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế.
Bốn là, tổ chức và
hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm
đổi mới, bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém; tình
trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức chậm
được khắc phục; hoạt động của Quốc hội còn lúng túng; dân chủ trong xã hội còn
bị vi phạm; kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm.
Năm là, công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ
chức cơ sở đảng sức chiến đấu yếu.
Những khuyết điểm, yếu kém trên là do nhiều nguyên nhân.
Đại hội X của Đảng đã phân tích và chỉ ra nguyên nhân chủ quan là chính. Đó là,
tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện
chưa tốt; một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm
chất và năng lực. Đây là những vấn đề cần sớm được khắc phục.
Nhìn lại 20
năm đổi mới, Đại hội X khẳng định: Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm chủ yếu của quá
trình đổi mới ở nước ta.
Những thành tựu và bài học đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Qua 20 năm, hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản, ngày càng
sáng tỏ hơn.
Thực hiện chủ trương Đại hội X, Đại hội XI của Đảng đã tiến hành tổng kết
20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001-2010 và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006-2011.
Đại hội
khẳng định, nhìn tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và
trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ
lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng; ứng phó có kết quả với
những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước; cơ bản giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô; duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều
có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục
được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt
động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước
ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc
tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số
kết quả tích cực.
Kết quả đạt
được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp phần quan trọng vào việc
thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010
và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Mười năm
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai
đoạn đất nước ta thực sự đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã đạt được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng; kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt
tốc độ bình quân 7,26%/năm; tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 so với năm
2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu gấp 5
lần; tuổi thọ bình quân tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi.
Những thành
tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều
thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục
phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Đại hội đã khẳng định Nguyên nhân của những thành tựu đạt được 5 năm qua
là do sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
X, giải quyết kịp thời, có kết quả những vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; sự điều hành năng
động của Chính phủ, chính quyền các cấp; sự nỗ lực của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các
doanh nghiệp. Bối cảnh hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển đất nước.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt; kinh
tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên. Những
hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn
hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết
cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao
chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến
chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh;
những yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực thù địch; nhưng
trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế,
thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một
số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không
nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập.
Ban Chấp
hành Trung ương khóa X đã tự phê bình trước Đại hội và trước nhân dân về những
khuyết điểm, yếu kém đã làm hạn chế những thành tựu lẽ ra có thể đạt được nhiều
hơn.
Từ thực tiễn
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI đã rút ra một
số kinh nghiệm sau đây:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên
trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với
những bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn
với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và
bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát
triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng
thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng
cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản
xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và
tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã
hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người
nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó
khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc
phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ
cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức,
lối sống, có sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết,
sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo,
kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác
tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, của toàn xã hội.
Trên cơ sở
dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước trong thời gian tới, Đại hội XI đã đề ra
nhiệm vụ tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đại hội khẳng định, thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm
đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách
quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước
phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Qua tổng kết
20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội đánh giá ý nghĩa lịch sử và giá
trị định hướng, chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh đối với công cuộc đổi mới theo
con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề
mới đặt ra cần tiếp tục được giải đáp. Đại hội đã quyết định bổ sung, phát
triển Cương lĩnh năm 1991 để làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội; phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; và đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đại
hội đề ra nhiệm vụ tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu
quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hoà các vấn đề
xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm
nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc
gia; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng mặt
trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức. Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan
hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Đặc biệt, Đại hội XI, đề ra 7 nhiệm vụ trọng
tâm trong nhiệm kỳ là:
- Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Cải cách
hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
- Nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước.
- Xây dựng
đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông, yếu tố
đang gây ách tắc, cản trở sự phát triển kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân.
- Đổi mới
quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của
quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
- Tập trung
giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã
hội, trật tự, kỷ cương xã hội).
- Đẩy mạnh,
nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự
ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã
xây dựng nên những truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng. Đó
là:
- Bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần
độc lập, tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với
nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Giữ gìn
đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế...
Những truyền thống quý báu của Đảng
là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công
nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh
đạo của Đảng. Đó là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy
sinh, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng. Những truyền
thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng
triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta.
Khái quát lịch sử Đảng có thể khẳng định rằng: ngay từ
khi vừa mới ra đời, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nắm
bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập
trường của giai cấp công nhân. Vì vậy, trên con đường phát triển của cách mạng
Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử
thách, dù hiểm nghèo, tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết
sách sáng suốt, đúng đắn, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con
thuyền cách mạng vượt lên.
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở
chỗ: Đảng đứng vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn vận dụng sáng tạo và phát triển trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh của Đảng còn ở chỗ Đảng
đã không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những
tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Học tập, nghiên cứu lịch sử và truyền thống của Đảng để
tự hào về Đảng và góp phần giữ vững, kế thừa, phát huy những truyền thống đó,
làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng ngang tầm thời đại mới.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích hoàn cảnh ra đời
và vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2. Từ khi ra đời tới nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại. Khái
quát các thắng lợi vĩ đại trong 80 năm qua.
3. Phân tích những truyền thống
quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bài 2
CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG
ĐẤT NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(Bổ
sung, phát triển năm 2011)
A. VỀ CƯƠNG LĨNH VÀ CÁC CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG
I. VỀ CƯƠNG LĨNH
Trong xã hội có
mâu thuẫn giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp mang tính tự phát với mục tiêu
kinh tế sẽ phát triển dần đến đấu tranh mang tính tự giác - đấu tranh chính
trị, liên quan đến vấn đề giành hoặc giữ chính quyền. Đấu tranh chính trị đòi
hỏi giai cấp phải có mục tiêu chính trị rõ ràng, tổ chức chặt chẽ, tập hợp, huy
động đông đảo lực lượng của giai cấp và các lực lượng liên minh với mình. Đó là
yêu cầu và điều kiện ra đời của đảng chính trị - đội tiên phong, bộ tham mưu
chiến đấu, tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp. Để
hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, đảng chính trị phải có Cương lĩnh chính trị
(cũng gọi là Chính cương; Luận cương chính trị...)
Cương lĩnh chính
trị là văn kiện cơ bản, chỉ rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ, phương pháp cách
mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định của một chính đảng hoặc một tổ chức
chính trị.
2. Tính chất của Cương lĩnh
Bất kỳ bản Cương
lĩnh chính trị nào cũng có các tính chất cơ bản sau:
- Cương lĩnh là
bản tuyên ngôn
Cương lĩnh là
bản tuyên ngôn chính trị, là sự tuyên bố của Đảng về tôn chỉ, mục đích của
Đảng; mục tiêu, lý tưởng mà Đảng phấn đấu để đạt được trước thế giới, trước
công chúng, quần chúng nhân dân... V.I.Lênin viết: "Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác
nói lên tất cả
những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh"1.
- Cương lĩnh là lời hiệu triệu.
Thông qua Cương lĩnh, chính đảng tập hợp lực lượng gia nhập đảng và
nhận được sự ủng hộ, tự nguyện đi theo đảng của các tầng lớp nhân dân, bạn bè
quốc tế. Với Đảng ta,
Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là
ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của
Đảng.
- Cương lĩnh là văn bản "pháp lý" cao nhất của Đảng
Cương lĩnh là
văn bản quan trọng nhất của Đảng, là cơ
sở lý luận và đường lối cơ bản của Đảng, định hướng cho đường lối trong các
lĩnh vực. Mọi văn bản, nghị quyết khác của Đảng đều phải tuân thủ, phù hợp,
không được trái với Cương lĩnh, kể cả Điều lệ Đảng.
Cương lĩnh do
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông qua và ban hành. Mọi tổ chức đảng và
đảng viên đều phải chấp hành Cương lĩnh.
- Cương lĩnh là
văn bản có tính chiến lược lâu dài.
Cương lĩnh là
văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và
phương pháp cách mạng trong một giai đoạn dài. Nếu nội dung cơ bản của Báo cáo
chính trị của Đảng là nhiệm vụ cho 5 năm, của Chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội là 10 năm thì Cương lĩnh định hướng sự phát triển của đất nước trong thời
gian dài, thậm chí cả thời kỳ quá độ...
- Cương lĩnh là
cơ sở của công tác xây dựng và phát triển Đảng.
Mọi Đảng viên
trước khi gia nhập Đảng đều phải biết về Cương lĩnh, trên cơ sở đó, tự nguyện
gia nhập Đảng và thực hiện theo quy định của Điều lệ Đảng.
II. CÁC CƯƠNG
LĨNH CỦA ĐẢNG
1. Những Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Ngay từ khi
thành lập, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh chính trị để tập hợp và lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Hội nghị thành
lập Đảng đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đến tháng
10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Luận cương cách mạng tư sản
dân quyền do đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư của Đảng soạn thảo. Nội dung cơ bản
của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Luận cương
cách mạng tư sản dân quyền đã được thông qua là tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Dưới ánh sáng
của các Cương lĩnh đầu tiên đó, nhân dân ta đã thực hiện thành công cuộc Cách
mạng Tháng Tám (1945) vĩ đại, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc
lập, tự do.
2. Chính cương Đảng lao động Việt Nam
Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951), Đảng ta đổi tên thành Đảng Lao động
Việt Nam và thông qua
"Chính cương Đảng Lao động Việt Nam ".
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam có tư
tưởng nổi bật là chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện cách mạng dân tộc
dân chủ để tiến lên làm cách mạng XHCN, là ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng của
dân tộc ta, của Đảng ta. Thực hiện Chính cương Đảng lao động Việt Nam, nhân dân
ta tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc hết sức vẻ
vang; giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa
vụ quốc tế, thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước,
đưa cả nước đi lên CNXH và bắt đầu công cuộc đổi mới.
3.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
Vào
cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, bối cảnh thế giới đã có nhiều
biến đổi sâu sắc; chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Chủ
nghĩa Mác-Lênin, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội...trải qua thử thách gay
gắt, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đã thu
được những thành tựu nhất định nhưng đời sống nhân dân còn khó khăn, khủng
hoảng kinh tế-xã hội chưa được khắc phục...
Trước
tình hình đó, tại Đại hội VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gọi tắt là Cương
lĩnh năm 1991.
Trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam trình
bày thái độ của mình về quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo từ khi
thành lập; đánh giá của Đảng về thời đại, về tình hình quốc tế và trong nước,
về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội; đề ra mục
tiêu và phương hướng phát triển đất nước trong suốt thời kỳ quá độ. Cương lĩnh
năm 1991 trở thành vũ khí tư tưởng, lý luận, định hướng về tư tưởng và lý luận
cho toàn Đảng, toàn dân tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện thế giới đầy khó khăn và phức tạp.Thực hiện Cương lĩnh năm 1991, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua những khó khăn, thử
thách, giành được thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã có sự
thay đổi toàn diện, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài, vượt
qua tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển
có thu nhập trung bình, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng
lên rõ rệt; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng, tạo tiền đề
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
4. Sự bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đại hội XI
Sau 20 năm kể từ
khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời, tình hình trong nước và thế giới đã có những
biến đổi sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, quá trình toàn cầu hóa
tiếp tục diễn ra mạnh mẽ; Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới và
khu vực và ngày càng được nhiều nước công nhận là nền kinh tế thị trường; giao
lưu văn hóa, xã hội diễn ra mạnh mẽ...Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng phải bày
tỏ rõ quan điểm, thái độ của mình và định hướng con đường đi lên của đất nước
trong thời kỳ từ nay đến giữa thế kỷ XXI. Do đó, sau Đại hội X, Đảng ta đã tiến
hành sửa đổi, bổ sung Cương lĩnh năm 1991 cho phù hợp với điều kiện mới. Đại
hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), thay thế
Cương lĩnh năm 1991.
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển
năm 2011), kế thừa những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991
như:
- Ba thắng lợi vĩ đại mà Đảng và nhân dân ta đã giành
được kể từ khi thành lập Đảng...Bên cạnh đó, Đảng cũng phạm một số sai lầm,
khuyết điểm; năm bài học kinh nghiệm lớn mà Cương lĩnh năm 1991 rút ra từ 60
năm cách mạng Việt Nam.
- Về
thời đại ngày nay (thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
khẳng định loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, những mâu thuẫn
cơ bản của thời đại...); về những đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của
thời đại (cách mạng khoa học, công nghệ, kinh tế tri thức; quá trình toàn cầu
hóa; về các vấn đề toàn cầu...); về những thành tựu mà chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu đã đạt được cùng những tổn thất do sự đổ vỡ của nó mang lại; sự
thoái trào và khó khăn của chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế; nhận định về bản chất, về tiềm năng phát triển của chủ nghĩa tư bản;
đặc điểm của khu vực châu Á-Thái bình dương...
- Mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, về
đặc điểm cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , những
phương hướng cơ bản chúng ta cần thực hiện để đạt được mục tiêu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nội
dung cơ bản trong các định hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Vị
trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, về bản chất
của Đảng, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của
Đảng, phương hướng củng cố, xây dựng Đảng...
Về cơ
bản kế thừa các quan điểm, tư tưởng của Cương lĩnh năm 1991, nhưng Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng có
nhiều điểm mới (bổ sung và phát triển) so với Cương lĩnh năm 1991 như:
- Bổ
sung vào ba thắng lợi vĩ đại thành tựu của công cuộc đổi mới sau 20 năm kể từ
khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời.
- Bổ
sung một số nội dung vào năm bài học kinh nghiệm lớn.
- Bổ
sung, phát triển đánh giá về thời đại ngày nay, về đặc điểm của giai đoạn hiện
nay của thời đại (sự cùng tồn tại hòa bình, vừa hợp tác, vừa đấu tranh của các
nước có chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau; về xu thế lớn của thế
giới ngày nay là hòa bình, độc lập dân tộc,
hợp tác và phát triển bên cạnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp
đất đai, tài nguyên...); thành tựu của công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại; phong trào cộng sản, công nhân phục hồi nhưng còn khó
khăn; châu Á-Thái bình dương là khu vực phát triển năng động nhưng tiềm ẩn nguy
cơ bất ổn...
- Bổ
sung vào mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng hai đặc
trưng (đặc trưng bao trùm và đặc trưng về Nhà nước; đồng thời điều chỉnh đặc
trưng về kinh tế và một số đặc trưng khác.
- Bổ
sung, phát triển, cụ thể hóa một số nội dung về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, một số nội dung trong các phương hướng cơ bản đi lên chủ nghĩa xã hội; bổ
sung những mối quan hệ cần nắm vững và xử lý tốt trong thực hiện các phương
hướng cơ bản.
- Điều
chỉnh, bổ sung mục tiêu phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
- Điều
chỉnh, bổ sung nhiều điểm mới trong định hướng phát triển các lĩnh vực kinh
tế-xã hội cụ thể.
- Phát
triển cách diễn đạt về bản chất của Đảng cho phù hợp hơn với nhiệm vụ đoàn kết
toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay...
Ngoài ra, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng
trình bày những quan điểm, tư tưởng gọn hơn, rõ hơn, phù hợp với nhận thức và
ngôn ngữ hiện nay.
B. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
CƯƠNG LĨNH
(Bổ sung, phát triển năm 2011)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được kết cấu thành 4 mục lớn:
Mục I: Quá trình cách mạng Việt Nam .
Trong
mục này, trên cơ sở nhìn lại 80 năm cách mạng Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đến nay, 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đảng
ta khẳng định những thắng lợi vĩ đại mà Đảng và nhân dân ta đạt được; đồng thời
cũng thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong 80 năm ấy. Từ kinh
nghiệm 80 năm cách mạng, Đảng rút ra năm bài học kinh nghiệm lớn. Những bài học
này có ý nghĩa quan trọng chỉ đạo cách mạng nước ta tiếp tục tiến lên giành
những thắng lợi mới.
Mục II: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam .
Trong
mục này, Cương lĩnh trình bày về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
Đây là nội dung quan trọng nhất của Cương lĩnh, gồm các vấn đề:
- Bối
cảnh quốc tế và trong nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam .
- Mô
hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng.
- Các
mục tiêu và những phương hướng cần thực hiện để đạt các mục tiêu đó.
Mục III: Định hướng phát triển các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Mục IV: Hệ thống chính trị và vai trò
lãnh đạo của Đảng.
Trên cơ
sở các phương hướng chung nêu ở Mục II, Cương lĩnh cụ thể hóa thành các định
hướng phát triển trên các lĩnh vực cụ thể. Mục III nêu các định hướng phát
triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mục IV thực
chất là nêu các định hướng xây dựng hệ thống chính trị; xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Đây là nhân tố quyết định thành công của quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
I. QUÁ TRÌNH CÁCH
MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Những thắng lợi vĩ đại
Trên cơ sở tổng
kết 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, kế thừa Cương lĩnh
năm 1991, Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định những thắng lợi vĩ đại của cách mạng
Việt Nam là:
- Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc
lập, tự do;
- Thắng lợi của
các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế;
- Thắng lợi của
công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế,
tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư
duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với
những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy
nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.
Đảng
cũng thừa nhận trong Cương lĩnh: "...có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết
điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, vi phạm quy luật khách quan". Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa
chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn.
2. Những bài học kinh nghiệm lớn
Từ thực tiễn phong
phú của cách mạng, Đảng đã rút ra năm bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại
cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.
Chính nhân dân
là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở
sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế.
Đó là truyền
thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành
công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp
tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu
tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy
cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán
bộ, đảng viên.
II. QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
a) Bối cảnh quốc tế
- Thời đại ngày
nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, thể hiện qua
khẳng định của Đảng trong Cương lĩnh: "Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến
hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".
Mâu thuẫn cơ bản của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội luôn là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chủ
nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Xu thế chung nhất của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là xu thế tiến bộ, phát triển đi lên, ngày càng thắng thế của chủ
nghĩa xã hội, nhưng cũng không tránh khỏi những bước thụt lùi, quanh co, phản
tiến bộ thắng thế trong những giai đoạn nhất định của thời đại.
-
Giai đoạn hiện nay của thời đại có những đặc điểm cơ bản:
+
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu
hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước.
+ Các mâu thuẫn
cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn
tại và phát triển.
+ Đặc điểm nổi
bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng
đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,
khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt
về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp.
+
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng
tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định.
+
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về
nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp
phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất
lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến
hành cải cách, đổi mới, giành được những thành
tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch
tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
-
Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ
áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư
bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội
vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
+ Các nước đang
phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp
chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ
độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.
+
Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan
đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh,
chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn
chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc
giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của
tất cả các quốc gia, dân tộc.
Tình
hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất
là đối với những nước đang và kém phát triển, trong đó có nước ta.
b) Bối cảnh trong nước
Nước
ta đi lên chủ nghĩa xã hội với những khó khăn và thuận lợi cơ bản:
-
Khó khăn:
+
Đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
+
Do điểm xuất phát của nước ta thấp nên nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen.
-
Thuận lợi:
+
Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh
đạo;
+
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có
lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và
sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
+
Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan
trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là
một thời cơ để phát triển.
2. Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng
Mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta phấn
đấu xây dựng không phải mô hình chủ nghĩa xã hội cũ đã bị sụp đổ, mà là mô hình
mới với các đặc trưng cơ bản:
- Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là đặc trưng
tổng quát, là "khẩu hiệu rút gọn" của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam .
- Do nhân dân làm chủ.
Đây là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa xã hội. Trong
chế độ phong kiến, người làm chủ là vua; trong chế độ tư bản, người làm chủ là
các nhà tư bản; chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội, nhân dân là người làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Khi nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại thì chế độ sở hữu lúc đó phải là chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu (theo quy luật phù hợp giữa tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất), nhưng công hữu phải được hiểu
theo quan niệm mới (sở hữu xã hội), không chỉ có sở hữu nhà nước và sở hữu tập
thể như cách hiểu trước đây.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của
pháp luật; mọi tổ chức trong xã hội, mọi công dân đều phải tuân thủ, thực hiện
pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa ba quyền (Lập pháp, hành pháp và tư pháp), nhưng không
đối lập giữa ba quyền ấy; mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.
3. Một số mục tiêu trên con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội phương hướng thực hiện các mục tiêu đó
Mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được
về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng,
toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán
triệt và thực hiện tốt các phương hướng
cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó,
phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt (không phiến diện, cực đoan,
duy ý chí...) các mối quan hệ lớn, đó
là các mối quan hệ:
- Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
- Giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ
nghĩa;
- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
- Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa;
- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ;...
III. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN
HÓA, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI
1. Định hướng
phát triển kinh tế
a) Định hướng
phát triển quan hệ sản xuất
- Định hướng chung:
+ Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.
+ Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau
hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
- Về sở hữu và thành phần kinh tế:
+ Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập
thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền
kinh tế.
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển.
+ Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Về kinh tế thị trường:
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại
thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh
tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về quan hệ quản lý:
+ Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người
sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế,
bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
+ Các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
+ Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
- Về quan hệ phân phối:
+ Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực
cho phát triển;
+ Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
b) Định hướng
phát triển lực lượng sản xuất
- Định hướng chung:
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
- Về kinh tế ngành:
+ Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu
quả và bền vững.
+ Gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
+ Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng,
công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế.
+ Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình
độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông
thôn mới.
- Về kinh tế vùng:
+ Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền;
+ Thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn.
- Về kinh tế đối ngoại:
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Định hướng phát
triển các lĩnh vực văn hóa-xã hội
a) Định hướng
phát triển văn hóa
- Xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển.
- Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt
đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao.
b) Định hướng
xây dựng con người
- Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân.
- Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong
việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá,
nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.
- Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự
là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách.
c) Định hướng
phát triển giáo dục và đào tạo
- Giáo dục và
đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hoá và con người Việt Nam.
- Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là
đầu tư phát triển.
- Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều
kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
d) Định hướng
phát triển khoa học và công nghệ
- Khoa học và
công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn
lên trình độ tiên tiến của thế giới.
- Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công
nghệ gắn với phát triển văn hoá và nâng cao dân trí.
- Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học
và công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới.
- Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích
sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
e) Định hướng
công tác bảo vệ môi trường
- Bảo vệ môi
trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã
hội và nghĩa vụ của mọi công dân.
- Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi
phục và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch.
- Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với
quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên.
- Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên
quốc gia.
f) Định hướng chính sách xã hội
- Chính sách xã hội đúng đắn, công
bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết
hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
- Phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không
ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học
tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi,
cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã
hội.
- Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có
việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo
động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch
giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an
sinh xã hội.
- Thực hiện tốt chính sách đối
với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao
động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo
đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ
côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo
đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số.
g) Định hướng xây dựng các giai tầng trong xã hội
-
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ
và quyền lợi.
-
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-
Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
- Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo của đội ngũ
trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước.
- Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi,
có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ
của phụ nữ. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp
dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn
bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương, tích
cực góp phần xây dựng đất nước.
- Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện
để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ,
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc.
Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các
dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
3. Định hướng phát triển quốc phòng, an ninh
a) Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật
tự, an toàn xã hội.
- Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của
các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
b) Trách nhiệm đối với quốc phòng, an ninh
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong
đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
b) Kết hợp quốc phòng với an ninh, kinh tế
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận
an ninh nhân dân vững chắc.
- Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng
- an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an
ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.
c) Đường lối xây dựng nền quốc phòng, an ninh
- Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý
luận, khoa học an ninh nhân dân.
- Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội
nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị
động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân
dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các
cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chăm
lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho
cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần
phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong
điều kiện mới.
-
Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ
trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.
-
Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
d)
Lãnh đạo quốc phòng, an ninh
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối
với Quân đội, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.
4.
Định hướng công tác đối ngoại
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi
với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế.
- Trước sau như một ủng hộ các
đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh
vì những mục tiêu chung của thời đại.
- Mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả,
đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững
độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
- Tăng cường
hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân
dân các nước trên thế giới.
- Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây
dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn
vinh.
IV. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Về dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước.
- Xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện
trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.
- Dân chủ gắn liền
với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật
bảo đảm.
- Nhà nước tôn trọng
và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát
triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật
quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
- Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và
các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
2. Nhà nước
- Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân:
+ Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
+ Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
+ Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật
thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân.
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời
bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
3.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
a)
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn
kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
- Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên;
- Thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội
lành mạnh;
- Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước;
- Giáo dục lý tưởng và đạo đức cách
mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với
Đảng, Nhà nước.
b)
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
-
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ
phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người
lãnh đạo Mặt trận.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành
viên.
c)
Các đoàn thể nhân dân
-
Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính
chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội
viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao
trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội.
- Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi
hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp
của Mặt trận và các đoàn thể.
- Đảng, Nhà nước có
cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt
động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam ;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc.
- Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng
to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
- Đảng
Cộng sản Việt Nam
là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Đảng
lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ
thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng
thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát
huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị.
- Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó
mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Để
đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật
trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi
hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích và nêu rõ những đặc điểm
(thuận lợi, khó khăn) của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Phân tích những đặc trưng cơ bản của
mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng.
3. Nêu rõ những phương hướng cơ bản và
những mối quan hệ cần nắm vững, xử lý tốt để đạt được các mục tiêu đề ra.
Bài 3
NỘI DUNG CƠ BẢN
ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTNAM
ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
I.
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Mục đích của việc xây dựng Điều lệ Đảng là nhằm thống
nhất tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn Đảng, thực hiện mục tiêu của
Đảng.
Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông
qua và ban hành. Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải chấp hành Điều lệ Đảng.
2. Đặc điểm của Điều lệ Đảng
- Là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng, Điều lệ Đảng được
viết ngắn gọn, chặt chẽ, dễ hiểu, hiểu cùng một nghĩa và được chia thành các
phần, chương, điều, điểm để thi hành thống nhất.
Có một số vấn đề cụ thể không đưa vào Điều lệ Đảng sẽ
được cơ quan có thẩm quyền của Đảng là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quy định; các
cơ quan chức năng, như Ban Tổ chức Trung ương, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương...
hướng dẫn thi hành, bảo đảm cho Điều lệ Đảng được thi hành thống nhất, nghiêm
minh.
- Điều lệ Đảng có giá trị và hiệu lực thi hành trong toàn
Đảng. Một số nội dung của Điều lệ Đảng được thể hiện trong Hiến pháp, các bộ
luật của Nhà nước và văn kiện cơ bản của các tổ chức chính trị - xã hội. Điều
lệ Đảng có những chương riêng để nêu rõ các quy định về sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, lực
lượng vũ trang, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Điều lệ Đảng có tính kế thừa, ổn định tương đối và được
phát triển cùng với quá trình phát triển của cách mạng, của Đảng. Mỗi nhiệm kỳ
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cùng với việc quyết định quan điểm, đường
lối chính trị cho thời kỳ mới, Điều lệ Đảng được Đại hội xem xét, bổ sung, sửa
đổi cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng. Từ Đại hội XI, Ban Chấp
hành Trung ương quyết định việc ban hành Hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng được
sửa đổi, bổ sung bởi Đại hội.
Từ Điều lệ đầu tiên (Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam) được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2-19 30 đến nay, Điều lệ
Đảng đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần.
Điều lệ Đảng hiện hành được Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19-01-2011.
II. TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA ĐIỀU LỆ ĐẢNG
1. Nội dung
phần mở đầu
Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam do Đại hội XI thông qua có tiêu đề phần mở đầu là “Đảng và
những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng”, trình bày khái quát về Đảng và những vấn
đề cơ bản nhất về xây dựng Đảng. Nội dung cụ thể như sau:
- Khái quát quá trình lịch sử Đảng, Điều
lệ viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh
thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ
quốc”.
- Về bản chất của Đảng, Điều lệ ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của dân tộc”.
- Về mục tiêu của Đảng, Điều lệ nói rõ: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt
Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người
bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản”.
- Về nền tảng tư tưởng của Đảng, Điều lệ khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại
và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng
đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”.
- Về tổ chức và nguyên tắc cơ bản hoạt động của Đảng, Điều lệ quy định:
“Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên
tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều
lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật”.
- Về vai
trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Điều lệ xác định: “Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng;
đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn
trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội”.
- Về quan điểm quốc tế của Đảng, Điều lệ nói rõ:
“Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân
chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới”.
- Về công tác xây dựng Đảng, Điều lệ xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu
và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng”.
Những nội dung trên thể hiện một cách đúng đắn và sáng
tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tiêu chí một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, phù hợp với tình hình và
nhiệm vụ của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Cương
lĩnh chính trị của Đảng đã vạch ra.
2. Các chương của Điều lệ Đảng
Chương I: Đảng viên.
Chương này có tám điều, là chương rất quan trọng của Điều lệ Đảng, xác định
vị trí, vai trò, quy định tiêu chuẩn của người đảng viên; điều kiện được xem
xét để kết nạp Đảng; nhiệm vụ và quyền của đảng viên; thủ tục kết nạp người vào
Đảng; phát triển và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên, điều kiện
được giảm, miễn công tác và sinh hoạt Đảng cũng như xoá tên trong danh sách
đảng viên...
Chương II: Nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng.
Chương này có sáu điều, khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ; những nội dung cơ bản của nguyên tắc đó; hệ thống
tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà
nước.
Chương II
còn quy định chức năng, nhiệm vụ của cấp uỷ các cấp trong việc triệu tập đại
hội từng cấp khi hết nhiệm kỳ; tiêu chuẩn và số lượng cấp uỷ viên; phê chuẩn
cấp uỷ và những cơ quan tham mưu giúp cấp uỷ mỗi cấp.
Chương III
và IV: Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương và ở địa phương.
Hai chương này có sáu điều, bao gồm những quy định về đại
hội Đảng các cấp, về bầu cử cơ quan lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp và nhiệm
vụ của các cơ quan đó.
Chương V: Tổ chức cơ sở đảng.
Chương V có bốn điều, quy định ba nội dung lớn về tổ chức
cơ sở đảng:
- Xác định vị trí của tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
- Quy định điều kiện thành lập và những nhiệm vụ của tổ
chức cơ sở đảng và của chi bộ; việc bầu đảng uỷ viên và chi uỷ viên.
- Quy định về nhiệm kỳ đại hội của tổ chức cơ sở đảng và
chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở.
Chương VI: Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
và Công an nhân dân Việt Nam.
Chương này có năm điều, quy định về tổ chức đảng trong
Quân đội và Công an, nằm trong hệ thống tổ chức chung của Đảng. Điều lệ Đảng
xác định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng
vũ trang.
Chương VII :
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Uỷ ban kiểm tra các cấp.
Chương này có bốn điều, xác định vị trí công tác kiểm
tra, giám sát trong Đảng; nội dung công tác kiểm tra, giám sát; nhiệm vụ của
công tác kiểm tra, giám sát cấp uỷ các cấp.
Chương VIII: Khen thưởng và kỷ luật.
Chương này có bảy điều, quy định mục đích, hình thức và
thẩm quyền thi hành khen thưởng và kỷ luật.
Chương IX: Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
đoàn thể chính trị - xã hội.
Chương này có ba điều, quy định rõ
nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Chương X: Đảng lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh.
Chương này có hai điều, nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đoàn Thanh niên cũng là một đoàn
thể nhân dân, nhưng Đoàn Thanh niên là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên
bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng,
nên Điều lệ dành một chương riêng nói về sự lãnh đạo của Đảng với Đoàn Thanh
niên.
Chương XI: Tài chính của Đảng.
Chương này chỉ có một điều, quy định rõ tài chính của
Đảng gồm: đảng phí do đảng viên đóng, từ ngân sách nhà nước và các khoản thu
khác; thực hiện nguyên tắc, chế độ thu chi, quản lý tài chính... theo những quy
định thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương.
Chương XII: Chấp hành Điều lệ
Đảng.
Chương này có hai điều, quy định mỗi đảng viên và tổ chức
của Đảng phải chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng và kịp thời đấu tranh chống
mọi biểu hiện vi phạm. Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều
lệ Đảng.
III. GIỚI THIỆU MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Mỗi công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, nếu muốn đứng
trong hàng ngũ của Đảng đều phải nghiên cứu để nắm vững các nội dung của Điều
lệ Đảng. Phân tích dưới đây giúp người học nắm chắc những nội dung cơ bản của
Điều lệ:
1. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Bản chất giai cấp của Đảng là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, được quán triệt trong toàn bộ Điều
lệ Đảng, chi phối toàn bộ nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức.
- Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản
chất giai cấp công nhân của mình.
Trong Chương trình
tóm tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định:
"Đảng là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai
cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. Sách lược vắn tắt viết: “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng”.
- Xác định rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, xuất
phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Giai cấp công nhân hình thành, phát triển cùng với nền sản xuất đại công
nghiệp, đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ, có tinh thần cách mạng
triệt để và tính tổ chức cao. Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng khoa học và
cách mạng hướng dẫn, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Là giai cấp lao động, bị bóc
lột nên giai cấp công nhân có điều kiện liên minh với giai cấp nông dân và quần
chúng lao động để xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới, không có áp
bức, bóc lột là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại, dưới tác động mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, giai cấp công nhân thế giới đang
có những biến đổi to lớn về quy mô, trình độ kiến thức, cơ cấu nghề nghiệp, mức
sống... Song, bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn
không thay đổi.
Ở nước ta, tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân
Việt Nam và chính đảng của mình luôn đứng vững trên lập trường cách mạng, giữ
vững bản chất giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện quan hệ gắn bó giữa giai
cấp và dân tộc. Sự ra đời của Đảng từ ba nguồn gốc là phong trào yêu nước, chủ
nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Chính vì vậy, mục tiêu, lợi ích của
Đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc là thống nhất.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc Đảng
giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp và dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân
thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có
lợi ích nào khác ngoài mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc.
Đại hội X đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc”.
Cách diễn đạt mới này phản ánh đầy
đủ, sát thực bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng ra đời từ phong
trào công nhân, phong trào yêu nước của dân tộc, kiên trì đấu tranh bảo vệ
quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc. Đó cũng
là cách diễn đạt về Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra tại Đại hội II năm
1951: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”1.
- Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng trong tình hình mới, Điều lệ Đảng và các văn kiện Đại hội của Đảng đã
chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong bất kỳ tình huống nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó.
+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn cụ thể của nước
ta để đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời, bằng
hành động cách mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh động
trên mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện
cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn
của các thế lực thù địch đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá, tri thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải
quyết thành công những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta, góp
phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.
+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
sinh hoạt đảng, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự
phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm,
ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên
theo quan điểm của giai cấp công nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật
thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và
thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
2. Nhiệm vụ và quyền của đảng viên
a) Nhiệm vụ
Nhiệm vụ đảng viên được quy định trong Điều 2 Điều lệ
Đảng, gồm bốn điểm là:
“1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng
của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến
thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống
lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công
tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ
chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng;
thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát
triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định”.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi
đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản sau:
Một là, kiên định những vấn
đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng:
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam; không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Hai là, mọi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh gắn liền
với phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời,
phải nhận thức sâu sắc những thách thức lớn, các nguy cơ đang đe dọa sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục.
Mỗi đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng, nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đồng thời, kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng,
Nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội; cảnh giác và kiên quyết chống
mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế
lực thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi
người.
Ba là, đất nước ta đã
chuyển sang thời kỳ phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xây dựng, phát
triển kinh tế, điều đó đòi hỏi đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và
năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò
tiên phong, gương mẫu.
Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan
trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi đảng viên. Có nhiều hình thức
và phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức
đảng và mỗi đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.
Bốn là, có mối quan hệ gắn
bó mật thiết với quần chúng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân
lao động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm
cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi. Và ngược lại, Đảng cần được
nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên dễ quan liêu,
xa rời nhân dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Mọi đảng viên phải thường xuyên gắn bó mật thiết với quần chúng, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân
và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, tích cực tham gia
xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết
của Đảng và Nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự
phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong
nội bộ, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác phát
triển đảng viên mới.
b) Quyền của đảng viên
Điều 3 Điều
lệ Đảng quy định đảng viên có những quyền sau:
“1. Được
thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử,
đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương.
3. Phê bình,
chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ
chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả
lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định
công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự
bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh
đạo của Đảng”.
Các quyền
của đảng viên nêu trong Điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho đảng viên thực hiện đầy
đủ quyền dân chủ về mặt chính trị trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý,
lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”1. Những quy định về quyền của đảng viên tạo điều kiện cho
đảng viên và tổ chức đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
3. Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và
sinh hoạt của Đảng. Trong quá trình phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
luôn kiên trì và từng bước cụ thể hoá nguyên tắc này phù hợp với sự phát triển
của cách mạng Việt Nam qua mỗi giai đoạn.
Điều 9 của
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
+ Cơ quan
lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách.
+ Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu
toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng
viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung
ương, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
+ Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu
trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên
và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức
đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
+ Tổ chức
đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn
Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
+ Nghị quyết
của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số
thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên
được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được
quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến
trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến
đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
+ Tổ chức
đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được
trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
nghị quyết của cấp trên.
- Để thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần nhận thức đúng đắn và thống nhất nội
dung của nguyên tắc này; đồng thời, phải có cơ chế, các quy định, quy chế làm
việc cụ thể, đồng bộ, bảo đảm thực hiện nghiêm minh ở mỗi cấp, ở mỗi tổ chức
đảng.
- Phát huy
dân chủ sẽ khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các tổ chức đảng và
đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ
trong các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội. Khuyến khích mọi người mạnh
dạn suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo, đóng góp xây dựng đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự
phát triển của cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
- Dân chủ phải gắn liền với tập trung, phát huy dân chủ
đi đôi với việc tăng cường ý thức tổ chức và kỷ luật của Đảng. Đây là mối quan
hệ biện chứng cần được nhận thức, xử lý đúng đắn trong thực tiễn. Tuyệt đối hoá
mặt này đi đến hạ thấp hoặc phủ nhận mặt kia đều không đúng.
- Ngoài việc khẳng định tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tổ chức cơ bản cho hoạt động của Đảng, Điều lệ Đảng còn quy định: tự phê bình
và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; gắn bó
mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
là những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
4. Khen thưởng và kỷ luật trong Đảng
a) Khen thưởng trong Đảng
Điều 34 Điều lệ Đảng quy định: “Tổ chức đảng và đảng viên
có thành tích được khen thưởng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”. Tại
Hướng dẫn số 03-HD/BTCTW ngày 29-12-2006 của Ban Tổ chức Trung ương có quy định
hình thức khen thưởng định kỳ và không định kỳ cho tổ chức đảng và đảng viên
như sau:
- Đối với tổ chức đảng: Tặng giấy khen, bằng khen, cờ cho
các tổ chức đảng gồm: Đảng bộ huyện hoặc tương đương; tổ chức cơ sở đảng, đảng
bộ bộ phận; chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở; tổ đảng trực thuộc chi bộ; các ban
tham mưu và đơn vị sự nghiệp của Đảng.
- Đối với
đảng viên: Tặng giấy khen, bằng khen, huy hiệu 30 năm, 40 năm, 50 năm, 60 năm,
70 năm, 80 năm tuổi Đảng.
- Các cấp uỷ
có thẩm quyền xét khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên theo định kỳ hàng năm,
gắn với việc tổng kết của đảng bộ, chi bộ; theo nhiệm kỳ đại hội 5 năm/lần đối
với đảng bộ cấp huyện và tương đương; khen thưởng không theo định kỳ đối với tổ
chức đảng và đảng viên có thành tích xuất sắc.
+ Đảng uỷ cơ
sở: xét tặng giấy khen cho những chi bộ đạt trong sạch, vững mạnh tiêu biểu
trong năm.
+ Huyện uỷ
(và tương đương): xét quyết định công nhận tổ chức cơ sở trong sạch, vững mạnh,
tặng giấy khen cho những chi bộ đạt tiêu chuẩn “trong sạch vững mạnh” tiêu biểu
3 năm liền.
+ Tỉnh uỷ
(và tương đương): quyết định tặng bằng khen cho những tổ chức cơ sở đảng, tặng
huy hiệu 30, 40, 50, 60, 70, 80 năm tuổi Đảng, bằng khen cho đảng viên trong
đảng bộ.
b) Kỷ luật trong Đảng
- Kỷ luật Đảng là những quy định bắt buộc mọi đảng viên
và tổ chức đảng phải nghiêm chỉnh chấp hành. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng được thể chế
hoá thành Hiến pháp, pháp luật, nghị định, chỉ thị, quy định của Nhà nước, chủ
trương điều lệ của đoàn thể. Tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động theo
khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật..., do đó, đảng viên và tổ chức đảng vi phạm
Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, chủ trương điều lệ của đoàn thể là vi phạm
kỷ luật của Đảng.
- Kỷ luật của Đảng bắt nguồn từ bản chất giai cấp công
nhân, từ nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, vừa có tính nghiêm túc, vừa mang
tính tự giác. Nghiêm túc phải trên cơ sở tự giác, tự giác càng cao thì kỷ luật
càng nghiêm túc.
- Thi hành nghiêm kỷ luật Đảng là
một nội dung quan trọng nhằm giữ vững sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành
động, bảo đảm cho Đảng trong sạch vững mạnh, tăng cường sức chiến đấu của Đảng.
Giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng là một yếu tố rất quan trọng bảo đảm
cho Đảng tồn tại, hoạt động và phát triển.
- Phương châm thi hành kỷ luật đã được Điều lệ Đảng xác
định là “Công minh, chính xác, kịp thời”.
+ Công minh là bất cứ
đảng viên và tổ chức nào, không kể chức vụ cao hay thấp, tuổi Đảng nhiều hay
ít, tổ chức cấp trên hay cấp dưới, nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật
đều phải xem xét, kết luận, xử lý nghiêm túc, không có ngoại lệ, không có khu
vực cấm.
+ Chính xác là việc thi hành kỷ luật phải đúng
người hoặc tổ chức vi phạm, đúng nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên
nhân của vi phạm. Khi xem xét, xử lý kỷ luật phải thẩm tra, xác minh chu đáo,
phân biệt rõ bản chất và hiện tượng, vi phạm thuộc về phẩm chất chính trị,
nguyên tắc hay tác phong sinh hoạt; trách nhiệm chủ yếu thuộc về cá nhân đảng
viên hay tập thể.
+ Kịp thời là việc
thi hành kỷ luật phải khẩn trương, đúng lúc, không để kéo dài, làm giảm hoặc
mất tác dụng của việc thi hành kỷ luật.
- Các hình thức kỷ luật của Đảng
+ Đối với tổ chức đảng có ba hình
thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo, giải tán.
+ Đối với đảng viên chính thức có bốn hình thức kỷ luật:
khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ ra khỏi Đảng.
+ Đối với đảng viên dự bị có hai hình thức kỷ luật: khiển
trách và cảnh cáo.
- Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng
vi phạm.
Điều lệ Đảng quy định:
+ Chi bộ quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong
chi bộ (kể cả cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản
lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng,
thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao).
+ Cấp uỷ
tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng
viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc
diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; quyết định khiển trách,
cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp uỷ giao.
+ Ban thường
vụ cấp uỷ quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách,
cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi
phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực
hiện nhiệm vụ đảng viên, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm
nhiệm vụ chuyên môn được giao.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Bản chất giai cấp công nhân
của Đảng thể hiện ở những điểm chủ yếu nào trong Điều lệ Đảng?
2. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ
chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được
Điều lệ Đảng quy định như thế nào?
3. Điều lệ Đảng quy định tiêu
chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào?
Bài 4
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO
TƯ TƯỞNG,
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
I. SỰ CẦN THIẾT HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Đạo đức và vai trò của đạo
đức trong đời sống xã hội
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung
nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực
và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận.
Đạo đức có tác dụng chi phối,
điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của xã hội.
Đối với mỗi cá nhân, ý thức và
hành vi đạo đức mang tính “bổn phận”, diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất
phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động
của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự
“tự kiểm tra” bởi chính mình.
Đạo đức có
chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh và chức năng phản ánh.
Với chức năng giáo dục, chuẩn
mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận tác động vào ý thức và hành vi
đạo đức của mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân tự giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện nhân
cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội. Mặt khác, khi nhận xét, đánh giá
hành vi đạo đức của người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình và qua
đó làm cho chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh.
Với chức năng điều chỉnh, chuẩn
mực đạo đức điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và mối quan hệ giữa người với
người trong xã hội. Trong xã hội, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có
tác động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác và ngược lại. Những
chuẩn mực đạo đức được cộng đồng và toàn xã hội thừa nhận là công cụ quan trọng
để điều khiển hoạt động chung của cả cộng đồng đồng thời với pháp luật và những
quy định khác.
Với chức năng phản ánh, đạo đức
phản ánh thực trạng xã hội, do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Những
mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội được thể hiện trong đạo đức xã hội. Một xã
hội bị tha hoá về đạo đức thể hiện những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội
chưa được giải quyết.
2. Về sự suy thoái đạo đức, lối sống trong xã hội hiện
nay
Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân
chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có nhiều
tiến bộ... Đa số cán bộ, đảng
viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong
công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc
đổi mới.
Tuy nhiên, trong Đảng và trong
xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Nghị
quyết Đại hội XI đã nhận định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu
nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát
triển của đất nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu
quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.”1.
Sự suy thoái về đạo đức, lối
sống biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:
Một là, chủ nghĩa cá nhân,
lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu lý tưởng, thiếu ý chí phấn
đấu xuất hiện trong tất cả các tầng lớp xã hội.
Hai là, tệ tham nhũng, hối
lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đang “trở
thành quốc nạn”, gây bức xúc trong nhân dân.
Ba là, hành động cơ hội,
“chạy chọt” vì lợi ích cá nhân khá phổ biến.
Bốn là, lời nói không đi
đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng; nói nhiều, làm ít;
phát ngôn tuỳ tiện, vô nguyên tắc.
Năm là, tệ quan liêu, xa
dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính
đáng của nhân dân.
Sáu là, tình trạng suy
thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội,
như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu...
Bảy là, đạo đức nghề nghiệp
sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh. Hiện tượng mê tín,
dị đoan có chiều hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục và trật
tự, an toàn xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng trên
có cả khách quan và chủ quan.
Về khách quan, trước hết do tác
động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, đặc biệt là khả năng kích thích
lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đức, lối sống tư sản,
hưởng thụ phương Tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. Các thế lực thù địch, phản động đã
chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng
viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ, coi đó là một trong những biện pháp thực
hiện “diễn biến hoà bình”.
Về nguyên nhân chủ quan, do
chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn
định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến đạo đức
xã hội. Trên thực tế, chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu
sự tổ chức, phối hợp các ngành, các cấp. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên
và gia đình chưa nêu gương về đạo đức, lối sống.
Tình trạng suy thoái về đạo
đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi, lệch
lạc những chuẩn mực, thang bậc giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và cách mạng, có tác hại đến sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất
nước. Sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân
dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín và vai trò lãnh đạo của tổ chức
đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy
cơ khác dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội, liên quan đến “sự sống còn của
Đảng, của chế độ”.
Để nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội, Hội nghị Trung
ương 3 khoá X của Đảng đã ban hành Nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”. Ngày 7-11-2006 , Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” trong toàn Đảng và toàn xã hội. Sau 5 năm thực hiện, Cuộc vận động đã
thu được những thành tựu đáng khích lệ. Để tiếp tục triển khai việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đưa việc học tập này vào chiều sâu,
biến thành công việc thường xuyên, hàng ngày của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ,
đảng viên và người dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI, Bộ Chính trị đã
ban hành Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 về việc tiếp tục học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt Chỉ thị này sẽ tiếp
tục góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về
đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội.
II. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại; là tài
sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta
Trong quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi trọng đạo đức, hình thành nên các chuẩn
mực giá trị đạo đức tốt đẹp trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội, phù
hợp với yêu cầu tồn tại, phát triển của dân tộc. Đó là truyền thống yêu quê
hương đất nước; gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng; đoàn kết, thuỷ chung,
nhân ái, quý trọng nghĩa tình; yêu lao động; dũng cảm, kiên cường, hiếu học,
sáng tạo...
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, được Người kế thừa và
phát triển, kết hợp với những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại, cả
phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động
cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú của mình. Tư tưởng đạo
đức đó kết hợp với đạo đức tiên tiến nhất của thời đại là đạo đức cộng sản
trong Hồ Chí Minh, từ đó Người đã xây dựng nên những giá trị đạo đức mới, đó là
đạo đức cách mạng.
Trong quá trình đấu tranh giành
và bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước, đạo
đức mới - đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh - đã trở thành nền tảng và động lực
tinh thần, là nguồn sức mạnh to lớn để Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi thử
thách, hy sinh, giành độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng đất nước
theo mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện
nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao trong việc phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, giải phóng mọi tiềm năng cho sự phát triển. Phát huy mạnh mẽ những
chuẩn mực đạo đức mới, sự năng động, sáng tạo, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường, quyết tâm không chịu mãi đói nghèo, đưa đất nước tiến lên cùng nhân
loại và thời đại, là động lực tinh thần to lớn để đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới.
Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp để phát huy những mặt tích
cực, khắc phục những tiêu cực về đạo đức, lối sống. Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng
viên, mỗi người Việt Nam chúng ta. Để xứng đáng là cán bộ, đảng viên của Đảng
Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và rèn luyện, việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người phải trở thành nhiệm vụ hằng
ngày của mỗi đảng viên và những người đang phấn đấu vào Đảng.
2. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh
a) Quan điểm của Hồ
Chí Minh về vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội và của mỗi người
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc. Người viết: “Làm cách
mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng
nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian
khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”1.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con
người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối. Người viết: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”2.
Hồ Chí
Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là chỗ
dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách, Người viết: “Có đạo
đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt
rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”3.
Đối với Đảng, đội tiên phong
của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật
trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh”. Trong bản Di chúc bất hủ,
Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”1.
b) Quan điểm Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ
bản của con người Việt Nam
Về những
phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh đã bao quát
những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội, bao gồm:
Một là, với đất nước, dân
tộc phải “Trung với nước, hiếu với dân”.
Trung, hiếu là phẩm chất đạo
đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh
kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung
với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước
là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc
lập dân tộc và làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu”. Nước là của
dân, dân là chủ đất nước, cho nên “trung với nước” là trung với dân, trung
thành với lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu
lợi ích đều vì dân”...
Hiếu với dân là Đảng, Chính
phủ, cán bộ nhà nước phải là “đầy tớ trung thành của dân”; phải “tận trung với
nước, tận hiếu với dân”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
trung với nước, hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân
làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm
chủ đất nước.
Hai là, với mọi người phải
“Yêu thương con người, sống có nghĩa, có
tình”.
Yêu thương con người trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết
hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã
hội, là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Yêu thương con người là phải
quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số đông trong xã hội. Yêu
thương con người phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu “ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải
phóng con người.
Yêu thương con người phải tin
vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì độ lượng, rộng
rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm,
khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp
cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người phải
thực hiện tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.
Ba là, với mình phải thực
sự “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”.
Hồ Chí Minh quan niệm cần,
kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên,
như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội
dung từng khái niệm.
- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo,
có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không
ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
- Kiệm là tiết kiệm sức
lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân
mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi, không phô trương, hình thức...”.
- Liêm là “luôn tôn trọng
giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà
nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không tham tâng bốc mình...”.
- Chính là không tà, là
thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không
nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư,
việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy
cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
- Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì
cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Cần, kiệm,
liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm,
liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng
vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm,
chính.
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu
thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng phải có “Tinh thần quốc tế trong sáng”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về
tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với
người và với toàn nhân loại vì Người không chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định, mà còn là “nhà văn hoá lớn của thế giới”,
“chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”.
Đoàn kết quốc tế trong sáng
theo Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục
tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là tình
đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung,
“bốn phương vô sản đều là anh em”; là đoàn kết với các dân tộc vì hoà bình,
công lý và tiến bộ xã hội.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với
chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.
c) Quan niệm Hồ Chí Minh về những
nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức
Hồ Chí Minh nêu lên những
nguyên tắc xây dựng và thực hành nền đạo đức mới trong xã hội, thể hiện ở ba
điểm sau:
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải
đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm trước hết là
sự nêu gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo
với nhân viên, đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu
mến.
Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước”1.
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức
mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện
đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những chuẩn mực của đạo đức mới.
Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới trước hết
phải tác động vào nhận thức, đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến nhà
trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung phải được cụ thể
hoá, sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí
Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng
lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan
trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi người
nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực,
lạc hậu phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy
vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương
cái tốt, phê phán cái xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm để biểu
dương người tốt việc tốt. Người đã phát động cuộc thi đua “3 xây, 3 chống”,
viết sách “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Ba là, phải tu
dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách
mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách
mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong"1. Người dạy: “Một dân
tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”2.
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí
Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là
người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác
ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối,
huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở,
cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi
hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng như
trong sinh hoạt cộng đồng.
3. Noi theo tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực của Chủ
tịch Hồ Chí Minh
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người
cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người Việt
Nam chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, làm theo, để trở
thành một người cách mạng, người công dân tốt hơn trong xã hội. Điều ấy thể
hiện trong các điểm sau:
Một là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn
đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí
Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu là vì nước, vì dân. Trong
cả cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài và gian khổ, Người đã chấp nhận mọi sự
hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, thực hiện bằng được mục tiêu đó.
Hai là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và
nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích.
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí
Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua bao khó khăn,
Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí
phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Người tự răn mình: “Muốn nên
sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”.
Ba là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin
tưởng vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con
người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân; dựa vào dân, lấy dân làm
gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng
lệnh quốc dân, đồng bào ra mặt trận”.
Bốn là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của lòng nhân
ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu
bao la với tất cả mọi kiếp người, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người
nói “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi
đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”1.
Năm là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn
phi thường.
Hồ Chí Minh sống thật sự cần,
kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang
trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn
chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên
phấn đấu và tự mình gương mẫu thực hiện.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung
đúc lại trong một con người làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu
việt, vô song “khó ai có thể vượt hơn”. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của
những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi mà mọi người đều có thể
noi theo.
4. Nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay
Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần làm tốt
các mặt sau đây:
Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành vô
hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Suốt đời hy sinh phấn đấu vì
nước, vì dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc
là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do, “đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
- Trung thành vô hạn với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của
đất nước, dân tộc.
- Luôn luôn quan tâm đến lợi
ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết
kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức
mạnh của dân, tổ chức, động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo,
“làm giàu cho mình, cho đất nước”.
- Có ý chí
vươn lên, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, phấn đấu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Có ý
thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết
đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội.
- Có tinh thần trách nhiệm cao
đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; ham học hỏi, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Giải quyết đúng đắn mối quan
hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi,
theo lời dạy của Bác: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân
thì phải tránh”1.
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư”, nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Tích cực lao động, học tập,
công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính
mình một cách có hiệu quả.
- Quý trọng công sức lao động
và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương,
hình thức.
- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, lối sống thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói
chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn,
chức vụ để chiếm đoạt của công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá
nhân.
- Thẳng thắn, trung thực, bảo
vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành,
khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết
điểm...
Kiên quyết chống bệnh lười
biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói
nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ ràng, lên án và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra
khỏi đời sống xã hội.
Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với
nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
- Mỗi cán bộ, đảng viên của
Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc,
pháp luật, kỷ cương.
- Gần dân, học dân, có trách
nhiệm với dân, khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn,
thắc mắc, những đau khổ của nhân dân.
- Coi trọng tự phê bình và phê
bình, “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình có mục đích trong sáng, có
lý, có tình. Khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu
nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật... để giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá
nhân, vụ lợi mà “đấu đá”; nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm
rối nội bộ.
Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn
kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền
của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì hoà bình,
phát triển, hợp tác, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp
đặt trong quan hệ quốc tế. Với những vấn đề của quá khứ, lịch sử cần xoá bỏ mặc
cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
- Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên
trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
- Nâng cao tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc; đấu tranh chống biểu hiện của
dân tộc hẹp hòi, tự ti; đồng thời phê phán tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng
ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Vì sao cần học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
2. Trình bày nội dung tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh.
3. Phân tích nội dung học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Bài 5
PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC XÉT KẾT NẠP VÀO ĐẢNG
Điểm 2, Điều
1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định:
“Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và
tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ
đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là
người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng”.
Trong quy
định này cần chú ý các nội dung sau:
1. Đảng viên phải
là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên
“Công dân
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”; chỉ
những người có quốc tịch Việt Nam mới là công dân Việt Nam, còn những người
không có quốc tịch Việt Nam hoặc đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam thì không được
thừa nhận là công dân Việt Nam.
- Đây là đòi hỏi về pháp lý và tư cách công dân của người
xin vào Đảng. Công dân Việt Nam được hưởng quyền và thực hiện các nghĩa vụ công
dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trong đó quan trọng nhất là tự nguyện gắn bó với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Đảng chỉ xét kết nạp những công dân Việt Nam đủ mười tám
tuổi trở lên, vì ở độ tuổi đó con người có sự trưởng thành về nhận thức, có
năng lực tư duy cần thiết, có ý thức trách nhiệm về mọi hành động của mình, đủ
khả năng thực hiện quyền hạn và nghĩa vụ công dân. Khi đó mới đủ điều kiện để
thực hiện quyền và nhiệm vụ của đảng viên.
- Điều lệ Đảng không quy định tuổi tối đa của người vào
Đảng. Từ 18 tuổi trở lên, những ai đáp ứng được tiêu chuẩn đều có thể được xem
xét, kết nạp vào Đảng. Trong công tác phát triển Đảng, tiêu chuẩn quan trọng
nhất là sự giác ngộ lý tưởng, phẩm chất chính trị, kiến thức và năng lực của
người vào Đảng.
Tuy nhiên, để trẻ hoá đội ngũ của mình, Đảng luôn quan
tâm phát triển Đảng trong thanh niên, những người trẻ tuổi, bảo đảm sự phát
triển lâu dài và tương lai của Đảng.
Đối với những người tuổi đã cao (trên 60 tuổi), việc kết
nạp vào Đảng có sự cân nhắc. Quy định thi hành Điều lệ Đảng số 23-QĐ/TW, ngày
31-10-2006 chỉ rõ: "Việc kết nạp vào Đảng những người trên 60 tuổi do cấp
uỷ trực thuộc Trung ương xem xét, quyết định". Hướng dẫn số 03-HD/BTCTW
ngày 29-12-2006 của Ban Tổ chức nói rõ thêm: "Phải được Ban Thường vụ cấp
uỷ trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản trước khi cấp uỷ có thẩm quyền ra
quyết định kết nạp".
2. Thừa nhận và tự
nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ
đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng
- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Người muốn vào Đảng trước hết phải có giác ngộ về mục
tiêu, lý tưởng của Đảng, thừa nhận và tự nguyện thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó
được nêu trong Cương lĩnh chính trị của Đảng. Đây là điều kiện, tiêu chuẩn
chính trị hàng đầu để trở thành đảng viên, xác định mục tiêu, phương hướng
chính trị và động cơ hành động đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng.
Nội dung điều kiện này yêu cầu người
muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị
đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành
nhiệm vụ do Đảng giao phó. Điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định:
"Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời
phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân...".
Người vào Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự nguyện
thực hiện Cương lĩnh. Thừa nhận mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải đã
thừa nhận thực sự. Hành động thực tế là thước đo nhận thức, tư tưởng và ý thức
phấn đấu của người vào Đảng.
- Thừa nhận và thực hiện Điều lệ Đảng.
Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng, bảo đảm
Đảng là một khối thống nhất. Vì vậy, người vào Đảng phải thừa nhận và thực hiện
Điều lệ Đảng một cách vô điều kiện. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Điều lệ
Đảng cũng là thể hiện sự giác ngộ chính trị và ý thức phấn đấu, ý thức tổ chức
kỷ luật, tính tiền phong, gương mẫu, ý thức cầu thị, tinh thần đoàn kết, khiêm
tốn, gắn bó với tập thể, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người
muốn vào Đảng phải nghiên cứu kỹ Điều lệ Đảng.
- Thừa nhận và tự nguyện phấn đấu theo tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên.
Việc quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ của đảng viên xuất
phát từ mục tiêu lý tưởng của Đảng và của mỗi đảng viên. Người vào Đảng phải
hiểu rõ và nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, từ đó phấn đấu, rèn luyện,
tu dưỡng để trở thành đảng viên của Đảng. Đảng không chỉ căn cứ vào những lời
nói, mà chủ yếu căn cứ vào việc làm thực tế hàng ngày của người xin vào Đảng,
qua đó xem xét thái độ và mục đích, xin vào Đảng. Tự giác thực hiện nhiệm vụ,
phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, có
quan hệ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm... là những điều kiện
chủ yếu được quan tâm khi xem xét để kết nạp người vào Đảng.
- Tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng.
Một trong những nguyên tắc tổ chức
cơ bản của đảng vô sản, phân biệt với các đảng chính trị khác là mỗi đảng viên
của Đảng phải sinh hoạt tại một tổ chức cơ sở đảng. Điều đó tạo ra sự thống
nhất ý chí và hành động của toàn Đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp quản
lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, là nơi mà mỗi đảng viên thực hiện quyền và
nhiệm vụ của mình, học tập, rèn luyện và trưởng thành trong thực tế đấu tranh
cách mạng, trực tiếp tham gia vào hoạt động lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, bất kỳ
người đảng viên nào, đảm nhiệm chức vụ gì trong Đảng, trong bộ máy nhà nước,
đều phải hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng nhất định. Người muốn vào Đảng
phải có mối liên hệ mật thiết với tổ chức cơ sở đảng, chịu sự lãnh đạo, giáo
dục, giúp đỡ để rèn luyện, thử thách và trưởng thành; được tổ chức cơ sở đảng
xem xét kết nạp vào Đảng theo đúng thẩm quyền và thủ tục quy định.
3. Qua thực tiễn
chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm
Điều lệ quy định, người muốn vào Đảng phải hoạt động
trong phong trào quần chúng, tỏ rõ tính tích cực, tiên tiến so với quần chúng,
cả về nhận thức, hành động và được quần chúng tín nhiệm. Phải lao động, học
tập, công tác đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có đạo đức, lối sống
trong sạch, có khả năng cảm hoá, giáo dục, tập hợp quần chúng, được quần chúng
tin cậy và noi theo. Đảng viên là người lãnh đạo quần chúng, vì vậy, người
không được nhân dân tín nhiệm thì không thể là đảng viên.
Trở thành
một người ưu tú là kết quả phấn đấu, rèn luyện qua một quá trình nhất định. Chỉ
có thông qua rèn luyện, thử thách trong thực tiễn "lửa thử vàng, gian nan
thử sức" mới chứng tỏ là người ưu tú, được Đảng lựa chọn. Sự đánh giá
trung thực, khách quan của nhân dân giúp Đảng xem xét, kết nạp đúng những người
thực sự ưu tú trong quần chúng vào Đảng.
Ngoài những điều kiện được quy định trong Điều lệ Đảng,
Quy định số 23-QĐ/TW, ngày 31-10-2006 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành
Điều lệ Đảng còn có quy định về trình độ học vấn của người vào Đảng:
"(a) Người vào Đảng nói chung phải có bằng tốt
nghiệp trung học cơ sở hoặc tương đương trở lên".
"(b) Người vào Đảng đang sinh sống ở vùng cao, vùng
sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, không
bảo đảm được quy định tại điểm (a) nêu trên thì nói chung cũng phải có trình độ
học vấn tối thiểu là tiểu học".
II. PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
1. Xác định động cơ
vào Đảng đúng đắn
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Vì sao chúng ta vào
Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không phải!... Chúng ta vào Đảng là
để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của
người đảng viên”. Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ
được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức
cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập
và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu
hái lợi lộc.
Phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức của
những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vào Đảng là dấn thân theo lý
tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà
Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến.
- Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động
cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những
người thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận
vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc; càng
không để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn,
cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có
hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách
mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ
lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.
- Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa
rất quan trọng. Trong điều kiện hoà bình, Đảng cầm quyền và cơ chế kinh tế thị
trường, mỗi người chúng ta nói chung, người đảng viên nói riêng, luôn phải đối
mặt với biết bao khó khăn, thử thách và những cám dỗ của quyền lực, tiền tài...
Nếu người vào Đảng không có động cơ vào Đảng trong sáng sẽ không thể vượt qua
được những thử thách, không thắng nổi sự cám dỗ vật chất và những thủ đoạn
"diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
2. Rèn luyện bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng
Bản lĩnh chính trị
thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn;
trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và
ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Đồng thời, bản
lĩnh đó còn thể hiện ở tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo
thủ, trì trệ. Trong điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào
thoái trào, cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiên định lập trường, quan điểm chính
trị, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao
động và của dân tộc.
- Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào
Đảng cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin.
Trước khó khăn, thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng
chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định.
- Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực
của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về
mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình.
Bản lĩnh chính trị được rèn luyện qua hoạt động thực tiễn. Muốn trở thành đảng
viên của Đảng cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công
tác, hoạt động chính trị - xã hội. Chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm
dày dạn qua trường học đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng,
kiên định.
- Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên
trau dồi đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như
lời Bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, biết
bao đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về
đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ phận đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo
đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy. Đạo đức cách mạng hoàn toàn trái
ngược với chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân gây ra nhiều tác hại, có khi
nghiêm trọng. Xây dựng đạo đức cách mạng phải đi đôi với chống chủ nghĩa cá
nhân.
Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn
luyện suốt đời, không ngừng nghỉ, như Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển
và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Ngày
nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân
dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể có đạo
đức cách mạng nếu làm gì cũng tính toán thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi
hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn công việc theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ
hội, thực dụng, coi đồng tiền là tất cả; lợi dụng cơ chế, chính sách để tham
nhũng, lãng phí, làm giàu phi pháp…
- Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ
định vai trò, lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở thích
riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Lợi ích cá nhân được tôn trọng
khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Đường lối của Đảng là kết
hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá
nhân, trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đảng luôn luôn tôn trọng
và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân,
ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên, lên trước lợi ích tập thể và toàn xã
hội.
3. Nâng cao năng
lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
- Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn
đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi. Để xứng đáng
với vai trò tiên phong, gương mẫu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
- Để trở thành đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng
cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ được tổ chức đảng,
đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ
yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu và tổ chức đảng xem xét kết nạp vào Đảng.
Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệt tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng
nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn; không ngừng học tập, thường
xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để đủ kiến thức đáp ứng các yêu cầu do thực
tiễn đặt ra. Phải coi trọng việc học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp
vụ. Đảng không thể kết nạp những người lười học tập, hoặc học lấy lệ, chỉ cốt
lấy bằng cấp, không thể hiện được tính tiên phong, gương mẫu.
4. Gắn bó với tập
thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội
- Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản
Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững
và phát huy truyền thống đó, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi
làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hoà mình với quần chúng, tin tưởng, am
hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Muốn trở thành đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải
gắn bó với tập thể, với nhân dân, với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công
tác, với bà con làng xóm, khối phố; tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn
nhau. Hoà mình với quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ và việc
làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, vận động mọi
người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.
- Người phấn đấu vào Đảng phải nhiệt
tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy
vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua hoạt động đoàn thể, người phấn đấu vào Đảng
thể, hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên
phong, gương mẫu - những phẩm chất cần thiết để trở thành đảng viên của Đảng. Ở
nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi thanh
niên muốn vào Đảng nhất thiết phải là đoàn viên ưu tú.
- Người muốn vào Đảng càng phải chú trọng mở rộng quan hệ
xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu và vận động gia đình,
người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân
đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn
xã hội, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
5. Tích cực tham
gia xây dựng Đảng ở cơ sở
- Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người phấn đấu
vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân ta gắn bó với Đảng và
luôn tham gia đóng góp cho Đảng. Vì vậy, tham gia xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở
trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của người phấn đấu vào Đảng.
- Nội dung tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng của người
phấn đấu vào Đảng là: Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan
tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị
chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát
triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân và
động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung
sau:
+ Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển
khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ
động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ
trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn
vị, nhất là về phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của
người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện
tiêu cực.
+ Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình
tư tưởng của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách,
nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức đảng.
+ Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự
lãnh đạo của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
+ Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những
đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp uỷ; giới
thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức đảng xét kết nạp.
+ Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền
và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trị trong sạch, vững mạnh.
+ Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và
thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để
xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng; vu cáo, bôi nhọ những cán bộ, đảng
viên, tích cực, trung thực; kích động, chia rẽ đoàn kết, gây rối nội bộ.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Những người như thế nào thì
có thể được xét để kết nạp vào Đảng?
2. Vì sao vấn đề xây dựng động
cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với
việc phấn đấu trở thành đảng viên?
3. Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng
viên?
HƯỚNG DẪN
CÁC THỦ TỤC KẾT NẠP NGƯỜI VÀO ĐẢNG
Các thủ tục kết nạp người vào Đảng
đã được quy định rõ tại Điều 4 Điều lệ Đảng:
Căn
cứ vào Điều lệ Đảng, Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã hướng dẫn một số thủ tục
hoặc công việc cụ thể như sau:
1.
Người vào Đảng phải làm đơn xin vào Đảng (Mẫu 1).
2.
Người vào Đảng phải khai trung thực lý lịch của mình và lý lịch đó phải được
đảng uỷ cơ sở thẩm tra kỹ (Mẫu 2).
3.
Đảng viên chính thức giới thiệu người vào Đảng (Mẫu 3).
4.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở cơ sở giới
thiệu đoàn viên thanh niên vào Đảng (Mẫu 4).
5.
Ý kiến nhận xét của tổ chức đoàn thể đối với người xin vào Đảng (Mẫu 5).
6.
Nghị quyết của chi bộ xét, đề nghị kết nạp đảng viên của chi bộ (Mẫu 6).
7.
Nghị quyết của cấp uỷ cơ sở đảng đề nghị kết nạp đảng viên (Mẫu 7).
8.
Quyết định của cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y kết nạp đảng viên (Mẫu 8b).
1. Đơn xin vào Đảng (Mẫu 1-KNĐ):
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
...., ngày.... tháng.... năm.....
Kính gửi: Chi uỷ: ..............................................................................................
Đảng uỷ: ..............................................................................................
Tên
tôi là: ......................................................Sinh ngày ....
tháng .... năm .......
Nơi
sinh: ...........................................................................................................
Dân
tộc: ........................Tôn giáo ................. Nghề nghiệp …….....................
Trình
độ học vấn: ..............................................................................................
Quê
quán: ..........................................................................................................
Nơi
ở hiện nay: .................................................................................................
Đơn
vị công tác: ...............................................................................................
Chức
vụ chính quyền, đoàn thể: .......................................................................
Vào
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ngày ..... tháng ..... năm ….....
Tại
....................................................................................................................
Được
chi bộ xét là cảm tình Đảng ngày.... tháng....năm.... tại..........................
Qua
nghiên cứu Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ; được sự giáo dục, bồi dưỡng
của chi bộ và của Đoàn (nếu có) tôi đã
nhận thức được:
............................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
Tôi
nguyện trung thành với lý tưởng và mục tiêu cách mạng của Đảng, phấn đấu hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng đáng là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam .
Người làm đơn
(Ký và ghi rõ họ, tên)
(Ký và ghi rõ họ, tên)
2.
Lý lịch và hướng dẫn ghi lý lịch của người xin vào Đảng (Mẫu 2-KNĐ):
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LÝ LỊCH
CỦA NGƯỜI XIN VÀO ĐẢNG
Họ và tên
đang dùng: ....................................................................................
Họ và tên
khai sinh : ...................................................................................
Quê quán:
......................................................................................................
Số lý lịch: ......................................................................................................
-
Kích thước: 20,5 x 14,5cm.
-
Bìa: Làm bằng giấy trắng loại 150g trên 1m2.
-
Ruột: Làm bằng giấy trắng (Bãi Bằng loại 1).
-
Nội dung trong lý lịch của người xin vào
Đảng (gồm 28 trang) cụ thể như sau:
+
Trang 1: Sơ lược lý lịch;
+
Trang 2-8: Lịch sử bản thân và những công tác đã qua;
+
Trang 9: Đặc điểm lịch sử;
+
Trang 10: Những lớp đào tạo, bồi dưỡng đã qua và đi nước ngoài;
+
Trang 11: Khen thưởng và kỷ luật;
+
Trang 12-20: Hoàn cảnh gia đình;
+
Trang 21: Tự nhận xét và cam đoan;
+
Trang 22: Nhận xét của chi uỷ và chứng nhận của cấp uỷ cơ sở;
+
Trang 23-28: Chứng nhận của cấp uỷ hoặc tổ chức có thẩm quyền nơi đến thẩm tra
lý lịch của người vào Đảng.
- Viết lý lịch người xin vào Đảng:
01.
Họ tên đang dùng.
02.
Nam ,
nữ: Là nam thì gạch chữ "nữ", là nữ thì gạch chữ "nam".
03.
Họ và tên khai sinh: Khai đúng trong giấy khai sinh.
04.
Bí danh: Khai bí danh đã dùng.
05.
Ngày, tháng, năm sinh: khai đúng trong giấy khai sinh.
06.
Nơi sinh: Khai rõ địa danh nơi sinh: thôn, xã, huyện, tỉnh, thành phố; số nhà,
đường phố, phường, thị xã, quận, thành phố theo tên hiện dùng của hệ thống hành
chính nhà nước.
07.
Quê quán: Khai quê quán của bản thân và gia đình (khai rõ địa danh như mục 6).
08.
Nơi ở hiện nay: Khai nơi ở thường trú theo hộ khẩu hoặc nơi ở thường xuyên của
bản thân (khai rõ địa danh như mục 6).
09.
Dân tộc: Khai rõ: Kinh, Thái, Tày, Nùng, Mường... (nếu là con lai người nước
ngoài thì ghi rõ quốc tịch, dân tộc của bố, mẹ).
10.
Tôn giáo: Nếu trước khi vào Đảng theo tôn giáo nào thì khai rõ (ví dụ: Công
giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo...), nếu không theo đạo nào thì ghi chữ
"không".
11.
Thành phần xã hội hoặc nghề nghiệp của bản thân: Khai rõ nghề nghiệp của bản
thân hiện nay như: công nhân, nông dân, công chức, viên chức, nhân viên, thợ
thủ công, học sinh, sinh viên, bộ đội, nhà văn, nhà báo, chủ doanh nghiệp...
12.
Trình độ hiện nay:
-
Giáo dục phổ thông: Khai rõ đã học xong lớp mấy hệ 10 hay 12 năm phổ thông hay
bổ túc văn hoá (ví dụ: 8/10 phổ thông, 9/10 bổ túc văn hoá).
-
Chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ: Tốt nghiệp bằng cấp gì? Học chính quy hay tại
chức, thuộc chuyên ngành nào? Học hàm, học vị, bậc thợ gì?
-
Lý luận chính trị: Tốt nghiệp chương trình sơ cấp, trung cấp, cao cấp, hệ chính
quy, tại chức hay mở rộng.
-
Ngoại ngữ: Có bằng tốt nghiệp trình độ A, B, C ngoại ngữ gì, hoặc biết thông
thạo ngoại ngữ gì?
13.
Ngày và nơi kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ nhất (nếu có). Khai rõ
ngày, tháng, năm và nơi kết nạp vào Đảng (chi bộ, đảng bộ cơ sở, huyện, tỉnh
hoặc cơ quan Trung ương).
14.
Ngày và nơi công nhận chính thức lần thứ nhất (nếu có). Viết như mục 13. Lý do
ngừng sinh hoạt đảng: vì kỷ luật hay vì lý do khách quan.
15.
Người giới thiệu vào Đảng lần thứ nhất (nếu có). Khai rõ họ tên, chức vụ, địa
chỉ của từng người giới thiệu mình vào Đảng.
16.
Lịch sử bản thân: Tóm tắt quá khứ từ thời kỳ niên thiếu cho đến khi tham gia
hoạt động xã hội.
17.
Những công tác, chức vụ đã qua: Khai đầy đủ, rõ ràng, liên tục, từ khi tham gia
hoạt động xã hội đến nay, từng thời gian làm việc gì? ở đâu? giữ chức vụ gì về
Đảng, chính quyền, trong lực lượng vũ trang, các đoàn thể, các tổ chức văn hoá,
giáo dục, khoa học, xã hội... (ghi cả thời gian nhập ngũ, xuất ngũ, tái ngũ; đi
học, đi chữa bệnh, đi nghỉ mát, tham quan nước ngoài; bị bắt, bị tù, đứt liên
lạc hoặc không hoạt động nếu có...).
18.
Đặc điểm lịch sử: Khai rõ đã vào Đảng mấy lần, có bị bắt, bị tù không?
19.
Những lớp đào tạo, bồi dưỡng đã qua: Đã học những lớp lý luận chính trị hay
khoa học - kỹ thuật nghiệp vụ gì? theo chương trình gì? cấp nào mở? tên trường,
thời gian học? học chính quy hay tại chức?
20.
Đi nước ngoài: Khai rõ thời gian từ tháng, năm nào đến tháng năm nào, đi nước
nào? (chỉ ghi các trường hợp đi học tập, lao động hợp tác, công tác dài hạn).
21.
Khen thưởng: Khai rõ tháng năm, hình thức được khen thưởng, cấp nào quyết định;
khai rõ các danh hiệu được Nhà nước phong tặng: anh hùng lao động, anh hùng lực
lượng vũ trang, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo ưu tú...
22.
Kỷ luật: Khai rõ tháng năm, lý do sai phạm, hình thức kỷ luật (khai rõ kỷ luật
Đảng, chính quyền, đoàn thể từ cảnh cáo trở lên). Cấp nào quyết định?
23.
Hoàn cảnh gia đình: Khai rõ những người chủ yếu trong gia đình như:
- Cha, mẹ đẻ (hoặc người nuôi dưỡng từ nhỏ),
cha mẹ vợ (hoặc cha mẹ chồng), vợ (hoặc chồng). Khai rõ: họ và tên, năm sinh,
chỗ ở, nghề nghiệp hiện nay, hoàn cảnh kinh tế, thái độ chính trị của từng
người:
+
Về hoàn cảnh kinh tế từng người nói trên: khai rõ thành phần giai cấp trước
Cách mạng Tháng Tám 1945, trong cải cách ruộng đất và hiện nay (nếu có sự thay
đổi thành phần giai cấp cần nói rõ lý do) và nguồn thu nhập, mức sống hiện nay?
+
Về thái độ chính trị của từng người nói trên: khai rõ đã tham gia tổ chức cách
mạng, làm công tác gì, giữ chức vụ gì? tham gia hoạt động và giữ chức vụ gì
trong tổ chức chính quyền, đoàn thể, đảng phái nào... của đế quốc hoặc chế độ
cũ; hiện nay, những người đó làm gì? ở đâu? nếu đã chết thì nói rõ lý do chết,
năm nào? tại đâu?
-
Anh chị em ruột của bản thân, của vợ (hoặc chồng); các con: chỉ khai rõ họ tên,
năm sinh (tuổi), chỗ ở, nghề nghiệp, công tác hiện nay.
- Đối với ông, bà nội ngoại, chú bác cô dì
cậu ruột: chỉ khai những người có đặc điểm lịch sử chính trị, có ảnh hưởng tốt
hoặc xấu đối với bản thân (Ví dụ: là cán bộ lão thành cách mạng, gia đình có
công với nước, anh hùng, dũng sĩ... hoặc có tội ác, bị cách mạng xử trí).
24.
Tự nhận xét: Viết những ưu, khuyết điểm chính của bản thân, sự tín nhiệm của
quần chúng và đảng viên ở đơn vị công tác đối với bản thân như thế nào?
25.
Cam đoan và ký tên: viết rõ ngày, tháng, năm,
ký tên, ghi rõ họ tên.
26.
Nhận xét của chi uỷ chi bộ: Cần nêu rõ bản lý lịch đã khai đúng sự thật chưa?
Không đúng ở điểm nào? có vi phạm tiêu chuẩn lịch sử chính trị không? quan
điểm, lập trường, chính trị của người vào Đảng, năng lực công tác, phẩm chất
chính trị, quan hệ quần chúng... của người vào Đảng thế nào?
27.
Chứng nhận của cấp ủy cơ sở: Sau khi thẩm tra, kết luận thì viết rõ:
"chứng nhận lý lịch chính trị của đồng chí..... khai tại đảng bộ (hoặc chi
bộ) cơ sở ...... là đúng sự thật" hay chưa rõ. Viết rõ ngày, tháng, năm,
chức vụ, ký tên và đóng dấu của cấp uỷ cơ sở. Trường hợp cấp uỷ cơ sở không có
con dấu, thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp xác nhận chữ ký, ghi rõ chức vụ, ký tên,
đóng dấu.
28.
Chứng nhận của cấp uỷ, tổ chức đảng....... nơi đến thẩm tra lý lịch người vào
Đảng:
-
Chứng nhận của Ban Thường vụ hoặc của Ban Chấp hành đảng bộ cơ sở nơi đến thẩm
tra:
Ghi
những nội dung cần thiết về lý lịch của người xin vào Đảng mà tập thể cấp uỷ đã
thống nhất, đồng chí thay mặt cấp uỷ ký tên đóng dấu của cấp uỷ.
-
Chứng nhận của cơ quan tổ chức hoặc của cấp uỷ cấp trên cơ sở (nếu có).
Ghi
những nội dung cần thiết về lý lịch của người xin vào Đảng, đồng chí đại diện
cấp uỷ hoặc của ban tổ chức ký tên.
3. Giấy giới thiệu người ưu tú vào Đảng (Mẫu
3-KNĐ):
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
...., ngày....
tháng.... năm.....
GIẤY GIỚI THIỆU
Người ưu tú vào Đảng
Người ưu tú vào Đảng
Kính gửi: Chi uỷ: ..............................................................................................
.................................................................................................
Tên
tôi là: ..................................................... Sinh ngày .....
tháng....năm ........
Vào
Đảng ngày..... tháng.... năm......, Chính thức ngày..... tháng.... năm .....
Chức
vụ hiện nay trong Đảng: ........................, chính quyền: ........................,
đoàn thể: .....................................................................................................................
Quê
quán:...........................................................................................................
Đang
sinh hoạt tại chi bộ: .................................................................................
Được
chi bộ phân công (ngày... tháng... năm....) giáo dục, giúp đỡ ........ phấn đấu
vào Đảng; nay xin báo cáo chi bộ những vấn đề chủ yếu về người phấn đấu vào
Đảng như sau:
- Về lý lịch:
Những
đặc điểm chính cần lưu ý: .....................................................................
............................................................................................................................
...........................................................................................................................
- Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống; năng lực
công tác; quan hệ quần chúng)
............................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
Đối chiếu với tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng
viên, tôi giới thiệu với chi bộ xem xét, đề nghị kết nạp ...........................................................vào
Đảng.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Đảng về sự giới thiệu
của mình.
ĐẢNG VIÊN GIỚI
THIỆU
(Ký và ghi rõ họ tên)
4. Nghị quyết
giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng (Mẫu 4-KNĐ):
BAN CHẤP HÀNH
ĐOÀN
...................................
|
ĐOÀN
T.N.C.S HỒ CHÍ MINH
.....,ngµy...... th¸ng ...... n¨m.....
|
NGHỊ
QUYẾT
Giới thiệu đoàn viên ưu tú
vào Đảng Cộng sản ViệtNam
Giới thiệu đoàn viên ưu tú
vào Đảng Cộng sản Việt
Kính gửi: Chi uỷ: ..............................................................................................
Đảng uỷ: ....................................................................................
- Căn cứ điểm 1 Điều 4, Chương I, Điều lệ Đảng Cộng
sản Việt Nam
về thủ tục, quyền hạn của Ban Chấp hành đoàn cơ sở giới thiệu đoàn viên ưu tú
vào Đảng.
- Xét nghị quyết của chi đoàn ...........................................................................
- Ban ................TNCS Hồ Chí Minh
...................họp ngày ...... tháng .... năm...... nhận thấy:
Đoàn viên: ............................ có:
Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống; năng lực
công tác; quan hệ quần chúng).........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
Đối chiếu với tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng
viên, chúng tôi giới thiệu và đề nghị chi bộ, đảng uỷ xem xét, kết nạp đoàn
viên............................. vào Đảng, với sự tán thành của
................ đồng chí (đạt .....%) so với tổng số uỷ viên Ban Chấp hành; số
không tán thành..... đồng chí, với lý do......
Chúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những
nội dung giới thiệu nói trên và sẽ tiếp tục giáo dục, bồi dưỡng đoàn viên....................................trở
thành đảng viên chính thức của Đảng.
T/M...
(Ký
tên, đóng dấu và ghi rõ họ tên)
5. Tổng hợp ý
kiến của tổ chức đoàn thể (Mẫu 5-KNĐ):
ĐẢNG BỘ .............
CHI UỶ..................
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
......,
ngµy..... th¸ng ...... n¨m.....
|
Ý KIẾN NHẬN XÉT
Của tổ chức đoàn thể đối với người xin vào Đảng
Căn cứ ý kiến nhận
xét của Ban Chấp hành đoàn thể nơi công tác và chi uỷ nơi cư trú đối với
..............................................
.................................... xin vào Đảng.
- Tên các tổ chức đoàn thể nơi
công tác: ..........................................................
................................................................,
tổng số có: ...................... đồng chí.
- Tên chi uỷ nơi cư
trú:................................................... có: ......... đồng chí.
Chi uỷ chi bộ tổng hợp các ý
kiến nhận xét đó như sau:
Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính
trị; đạo đức, lối sống; năng lực công tác; quan hệ quần
chúng)..........................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
Số đồng chí trong Ban chấp hành đoàn thể nơi công tác và
chi uỷ nơi cư trú tán thành kết nạp............... vào Đảng là......... đồng
chí, trong tổng số.... đồng chí được hỏi ý kiến (đạt .....%).
Số không tán thành............... đồng chí (........%)
với lý do:
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
T/M CHI UỶ
Bí thư
(Ký và ghi rõ họ tên)
(Ký và ghi rõ họ tên)
6. Nghị
quyết xét, đề nghị kết nạp đảng viên của chi bộ (Mẫu 6-KNĐ):
ĐẢNG BỘ
.............
CHI UỶ..................
Sè:................-NQ/CB
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
......,
ngµy..... th¸ng ...... n¨m.....
|
NGHỊ QUYẾT
Đề nghị kết nạp đảng viên
Căn cứ Điều 4, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam;
Ngày........ tháng ...... năm ........, chi bộ
............................................................
đã họp để xét, đề nghị kết nạp ...................vào
Đảng.
Tổng số đảng viên của chi bộ: đ/v chính thức ...........
đ/c; dự bị ................ đ/c
Có mặt: .............đ/v chính thức ................ đ/c;
dự bị ................. đ/c
Vắng mặt: .............đ/v chính thức ............ đ/c;
dự bị ................. đ/c
Chủ trì hội nghị: .............................................
Chức vụ ...................................
Thư ký hội nghị:
................................................................................................
Sau khi nghe báo cáo và thảo luận, chi bộ thống nhất kết
luận về ...................
............................................................................................................
như sau:
Về lý lịch:..........................................................................................................
...........................................................................................................................
Những ưu,
khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính
trị; đạo đức, lối sống; năng lực công tác; quan hệ quần
chúng)..........................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
Đối chiếu với Quy
định của Điều lệ Đảng về tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng viên, số đảng
viên chính thức tán thành việc kết nạp.................. vào Đảng.............
đ/c (đạt...... %) so với tổng số đảng viên chính thức. Số đảng viên chính thức
không tán thành...... đ/c với lý
do........................................................
...........................................................................................................................
Chi bộ báo cáo đảng
uỷ.........................................................................xét,
đề nghị kết nạp ......................................... vào Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Đảng uỷ ... (để
báo cáo)
- Lưu chi bộ.
|
T/M CHI BỘ
Bí thư (Ký, ghi rõ họ và tên) |
7. Nghị
quyết xét, đề nghị kết nạp đảng viên của đảng uỷ cơ sở (Mẫu 7-KNĐ):
ĐẢNG BỘ .............
ĐẢNG UỶ..............
Sè:................-BC/§U
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
......,
ngµy..... th¸ng ...... n¨m.....
|
NGHỊ QUYẾT
Đề nghị kết nạp đảng viên
Căn cứ Điều 4, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam;
Ngày........ tháng ...... năm ........, đảng uỷ..........................................................
đã họp để xét, đề nghị kết nạp ..........................................................vào
Đảng.
Tổng số đảng uỷ viên.........đ/c, có mặt.........đ/c,
vắng mặt............... đ/c.
Lý do vắng mặt:.................................................................................................
Chủ trì hội nghị: .....................................
Chức vụ ...........................................
Thư ký hội nghị: ...............................................................................................
Sau khi nghe báo cáo và thảo luận, đảng uỷ thống nhất kết
luận về ................................................................như
sau:
Về lý lịch:..........................................................................................................
...........................................................................................................................
Những ưu,
khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính
trị; đạo đức, lối sống; năng lực công tác; quan hệ quần
chúng).........................................................................................................................
...........................................................................................................................
Đối chiếu với Quy
định của Điều lệ Đảng về tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng viên, đảng
uỷ........... đề nghị Ban Thường vụ................xét, Quyết định kết
nạp............ vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Số đ/c tán
thành................. (đạt...... %) so với tổng số cấp uỷ viên. Số không tán
thành...... đ/c, với lý do...........
............................................................................................................................
...........................................................................................................................
Nơi nhận:
- Đảng uỷ ... (để báo cáo)
- Lưu Văn phòng
đảng uỷ.
|
T/M ĐẢNG UỶ
Bí thư
(Ký, ghi rõ họ và tên)
|
2. Đảng Cộng
sản Việt Nam :
Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.500.
1. Đảng Cộng
sản Việt Nam :
Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.37, tr.471.
1.
Đảng Cộng sản Việt Nam :
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, tr.67-68.
1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.173.
1. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.283.
2. Sđd, t.5, tr.252-253.
1. Sđd, t.9, tr.293.
2. Sđd, t.12, tr.557-558.
1. Sđd, t.12,
tr.560-561.
1. Sđd, t.4,
tr.22.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)