HUYỆN UỶ HƯƠNG KHÊ
* Hương Khê, ngày 18 tháng 11 năm 2014
Số
-BC/HU
BÁO CÁO
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 47- NQ/TW, ngày 22/3/2005 về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình
Hương Khê là
huyện miền núi, nằm phía Tây Nam tỉnh Hà Tĩnh; phía Bắc giáp các huyện Can Lộc,
Vũ Quang; phía Nam giáp huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình; Phía Đông giáp các
huyện Kỳ anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà; Phía Tây giáp nước bạn Lào (với gần 50km
đường biên giới). Diện tích tự nhiên trên 127.000 ha, trong đó đất lâm nghiệp
gần 100.000 ha (chiếm 78% tổng diện tích), đất nông nghiệp 14.000 ha (chiếm 11% diện tích tự nhiên), dân cư khoảng
11 vạn người, sống phân tán và phân bố không đồng đều, cơ sở hạ tầng kinh tế xã
hội còn thấp kém. Trình độ dân trí và đời sống mọi mặt của nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn. Điều kiện đó có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện các
Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương về Dân số, gia đình và trẻ em.
Tuy vậy, khắc
phục những khó khăn, thử thách, phát huy nội lực; qua 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 47- NQ/TW về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và sự phối hợp tổ chức thực hiện của
các ngành, các tổ chức chính trị xã hội; công tác công tác dân số - kế hoạch
hoá gia đình trên địa bàn huyện Hương Khê có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần
quan trọng vào phát triển kinh tế- xã hội, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho nhân dân, tạo sự ổn định về chính trị, xã hội và sự
phát triển bền vững của huyện nhà trong thời kỳ mới.
Phần thứ
nhất
NHỮNG KẾT
QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
I. CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA CẤP ỦY, CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP
1. Tổ chức quán triệt, học tập và triển
khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết:
Thực
hiện Nghị quyết 47 của Bộ Chính trị, ngày 13/7/2005 Ban Thường vụ Huyện uỷ có
Chỉ thị số 60-CT/HU về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số/KHHGĐ, xây
dựng gia đình trong thời kỳ mới và Kế hoạch 657-KH/HU, ngày 01/6/2005 về triển
khai nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết trong toàn đảng bộ.
Ngày 15 tháng
6 năm 2005, Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức Hội nghị triển khai học tập, quán
triệt thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW cho các đồng chí BCH Huyện uỷ, trưởng, phó
các phòng, ban, các tổ chức đoàn thể cấp huyện và lãnh đạo các Đảng bộ, chi bộ
trực thuộc, đội ngũ báo cáo viên trên địa bàn toàn huyện.
Các
cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở đã xây dựng kế hoạch học tập và chương trình
hành động thực hiện nghị quyết 47-NQ/TW trong từng địa phương đơn vị. Cùng với
việc học tập, quán triệt nghị quyết của TW, các cấp uỷ cơ sở đã thành lập Ban
chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ chính trị về công tác dân
số.
Ban
Tuyên giáo chỉ đạo các ngành trong khối tư tưởng văn hoá tổ chức tốt công tác
tuyên truyền, học tập cho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong toàn
huyện.
Qua học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị
quyết số 47 của Bộ Chính trị nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân đã được nâng lên; đại bộ phận cán bộ, đảng viên đã thể hiện vai trò
tiên phong, gương mẫu thực hiện chủ trương, chính sách về công tác Dân số/KHHGĐ;
công tác truyền thông, kế hoạch hoá gia đình được đẩy mạnh, nhiều cặp vợ chồng
đã mạnh dạn đến các cơ sở, tổ tư vấn để được hướng dẫn các hình thức, biện pháp
tránh thai, giáo dục giới tính… Tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm nhanh, số thôn xóm,
khối phố, câu lạc bộ gia đình trẻ nhiều năm liền không sinh con thứ 3 được
thành lập và sinh hoạt có hiệu quả thiết thực.
2.
Các văn bản của cấp ủy, chính quyền huyện ban hành để lãnh đạo, chỉ đạo, triển
khai thực hiện Nghị quyết
Để triển khai
thực hiện Nghị quyết có hiệu quả, huyện đã ban hành các văn bản: Chỉ thị
60/CT-HU; Chỉ thị 03/CT-HU ngày 23/9/2010; Quyết định 1859/QĐ-UBND ngày
3/8/2009; Quyết định 80/2010/QĐ-UBND ngày 21/01/2010; Quyết định 2058/QĐ-UBND
ngày 11/7/2012 về tăng cường công tác Dân số/KHHGĐ và nhiều văn bản chỉ đạo
thường xuyên khác có tác động tích cực đến công tác này trên địa bàn huyện.
Sau 10 năm quán triệt và học tập Nghị quyết
47-NQ/TW, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở đã nhận thức được vị
trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, quy
mô gia đình có một hoặc hai con được chấp nhận ngày càng rộng rãi, tốc độ gia
tăng dân số bước đầu được kiểm soát, tỷ suất sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở
lên tiếp tục giảm, chất lượng dân số từng bước được nâng cao góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập bình quân hàng năm, góp
phần xóa đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống cho nhân dân
II.KẾT QUẢ
THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 47-NQ/TW
1. Kết quả
thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu
Với mục tiêu tổng quát là: “Nhanh chóng đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hai con), tiến tới ổn định quy mô dân số nước ta
ở mức 115-120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam
về thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết, nhận thức của cán bộ, Đảng viên và
người dân về công tác Dân số/KHHGĐ được nâng lên rõ rệt, qui mô và cơ cấu dân
số dần được ổn định, qui mô gia đình nhỏ (từ 1-2 con) đã được nhiều người chấp
nhận, tỷ suất sinh và chất lượng dân số ngày càng được nâng lên.
1.1. Về mức giảm sinh và ổn định qui mô
dân số:
- Quy mô dân
số: Năm 2005 là 106.046 người, đến tháng11/2014 là 11.000 người
- Tỷ suất sinh
thô: Năm 2005 là 15,1%, năm 2013 là 15,2%, giảm 0,1%.
- Tỷ lệ sinh
con thứ 3 trở lên: Năm 2005 là 27,5%, đến năm 2013 là 28,6%, tăng 1,1% .
- Tỷ lệ gia
tăng Dân số tự nhiên năm 2005 là 0,65%0; năm 2012 là 10%0, tăng 0,35%0.
- Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các
biện pháp tránh thai hiện đại từ 83% (năm 2005) tăng lên 87,3% (năm 2013)
tăng 4,3%.
1. 2. Về
cơ cấu và chất lượng dân số:
Theo số liệu
báo cáo, Dân số toàn huyện năm 2005 có 106.046 người, trong đó nữ 53.638 người,
chiếm tỷ lệ 50,6%; năm 2014 có 110.000 người, trong đó nữ chiếm tỷ lệ gần 51,5%.
Tỷ lệ giới tính có giảm, nhưng tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh những năm
gần đây tăng, người trong độ tuổi lao động từ 16 – 60 tuổi chiếm tỷ lệ trên 65 %,
trẻ em dưới 16 tuổi chiếm tỷ lệ dưới 25 %. Chất lượng dân số ngày càng được
nâng lên, tuổi thọ người dân tăng lên, tỷ lệ người bị khuyết tật, trẻ em suy
dinh dưỡng giảm dần hàng năm.
2.
Kết quả thực hiện các giải pháp :
2.1. Về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của
cấp uỷ, chính quyền các cấp:
Sau khi có
Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách
dân số - kế hoạch hóa gia đình, Uỷ ban nhân dân huyện xây dựng đề án
544/ĐA-UBND về cụ thể hoá Nghị quyết 47. Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo, đem các chỉ tiêu về dân số vào nghị quyết đại hội Đảng
các cấp, đồng thời đem vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm để tổ
chức chỉ đạo thực hiện và coi đây là một tiêu
chí quan trọng để đánh giá, xếp loại thi đua cuối năm của các địa phương. UBND
huyện và các cơ quan, đơn vị và các xã, thị có có chính sách động viên, biểu
dương, khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá nhân thực hiện tốt công
tác Dân số -KHHGGĐ, đồng thời có biện pháp xử lý kỷ luật theo quy định đối
với những tập thể và cá nhân vi phạm,
chưa thực hiện tốt công tác này.
Bên cạnh việc
quán triệt nghị quyết của TW, Ban Thường vụ Huyện uỷ, UBND huyện đã ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo các hoạt động về công tác như tháng hành động vì trẻ em,
ngày gia đình Việt nam 28/6, tết Trung thu, ngày Quốc tế thiếu nhi 01/6, ngày
Dân số thế giới 11/7, ngày Dân số Việt nam 26/12; triển khai các chiến dịch
truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đến vùng đông dân, vùng có
tỷ lệ sinh và có tỷ lệ sinh con thứ 3 cao. ..Ngành dân số đã chủ động tham mưu
về nội dung, kế hoạch hoạt động cụ thể và phối hợp với các phòng, ban ngành,
đoàn thể chỉ đạo cơ sở thực hiện tốt các chương trình, mục tiêu về dân số hàng
năm. Các chương trình ký kết liên tịch
giữa Trung tâm Dân số, Ngành Y tế, Hội
liên hiệp phụ nữ, Liên đoàn lao động, Công An huyện, Ngành GD-ĐT, Huyện đoàn …
được ra đời và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả tốt.
2.2. Công
tác tuyên truyền, vận động và giáo dục
Trung tâm
Dân số - KHHGĐ đã tăng cường phối hợp với các phòng, ban, ngành, các đoàn thể
cấp huyện để tổ chức tuyên truyền bằng nhiều hình thức như; Hội nghị biểu dương, Hội thị, tổ chức nói
chuyện chuyên đề, truyền thông lưu động, tập huấn cung cấp thông tin, ... các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về Dân số-KHHGĐ.
Mời các
đồng chí chuyên môn của Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh tuyên truyền về Dân số SKSS/KHHGĐ cho các nhóm đối
tượng là Phụ nữ, Nam nông dân, các cháu vị thành niên, thanh niên,... đã được
tổ chức ở nhiều địa phương trong huyện với hàng nghìn lượt người tham dự.
Đài truyền thanh-truyền hình huyện tuyên
truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, các điển hình tiêu biểu
về công tác Dân số/KHHGĐ trên hệ thống truyền thanh-truyền hình của huyện.
Ngành văn hóa xây dựng và chỉnh trang lại các Panô, áp phích tuyên truyền lồng
ghép về công tác Dân số/ KHHGĐ. Chỉ đạo Ban Dân số các xã, thị viết hàng trăm
tin bài tuyên truyền về công tác Dân số/KHHGĐ, về tình trạng mất cân bằng giới
tính khi sinh cũng như các Đề án, Mô hình nâng cao chất lượng Dân số phát trên
hệ thống truyền thanh xã. Xây mới hàng chục Cụm Panô, Bảng tường và sữa chữa,
làm mới, viết lại hàng trăm lượt nội dung tuyên truyền.
Trung tâm
Dân số-KHHGĐ đã xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện các hoạt động hưởng ứng nhân
ngày Dân số Thế giới 11/7, ngày Dân số Việt Nam 26/12, tháng hành động Quốc gia
về Dân số. Tổ chức, tham gia Liên hoan tuyên truyền viên giỏi về Dân số-KHHGĐ
từ xã đến tỉnh, các Hội nghị biểu dương và Hội thi khác đạt kết quả tốt. Xây
dựng Chương trình hành động và triển khai thực hiện Kế hoạch hành động giai đoạn 2011-2015 huyện
Hương Khê thực hiện Chiến lược Dân số/SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020 trên
địa bàn toàn huyện.
Các ấn phẩm như sách, báo, tranh
ảnh, tạp chí, tờ rơi được tiếp nhận, nhân bản, cấp phát đến đông đảo đối tượng
trong toàn huyện.
Đội ngũ cán bộ và cộng tác viên dân
số là lực lượng nòng cốt để tuyên truyền, vận động, tư vấn các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh sinh đẻ lựa chọn, sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại.
Bên cạnh công tác tuyên truyền giáo
dục, thuyết phục, các cấp uỷ, chính quyền thực hiện các biện pháp xử lý kỷ luật
đối với những tổ chức, cá nhân, đảng viên, cán bộ, nhân viên vi phạm các chính
sách dân số, gia đình, trẻ em; các thôn xóm, làng, bản đưa các qui định cụ thể
vào hương ước của làng xã, quy ước của làng xã được cộng đồng đón nhận và thực
hiện.
Hoạt động truyền
thông, giáo dục phong phú, hấp dẫn gắn với các biện pháp xử lý kỷ luật, chặt
chẽ, nghiêm túc nên đã vận động được đông đảo lực lượng nhân dân tham gia, góp
phần làm chuyển biến được nhận thức, chuyển đổi hành vi về DS/KHHGĐ và trách
nhiệm đối với việc bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, xây dựng gia đình trong
thời kỳ CNH, HĐH, gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững.
2. 3. Việc củng cố, kiện toàn
tổ chức bộ máy, cán bộ và nâng cao hiệu lực quản lý
Bộ máy cán bộ làm công tác Dân
số/KHHGĐ từ năm 2005 lại nay có nhiều biến động đặc biệt là từ năm 2008 sau khi
có Quyết định tách nhập, giải thể Ủy ban Dân số - Gia đình & Trẻ em các
cấp; Thông tư số 05/TT-BYT ngày 14/5/2008 về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và
cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác Dân số /KHHGĐ ở địa phương; Quyết định
612/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ về giải quyết chế độ đối với
cán bộ Dân số cấp xã, phường, thị trấn nghỉ việc do không đạt chuẩn. Bộ máy cán
bộ làm công tác Dân số/KHHGĐ từ huyện đến xã cơ bản thay đổi.
Ở cấp huyện thành lập Trung tâm Dân
số-KHHGĐ là đơn vị sự nghiệp trực thuộc sở Y tế, đến tháng 8/2012 chuyển về
thành đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND huyện, với đội ngũ hiện nay gồm 7 cán bộ
công chức, viên chức.
Ở xã, thị 22/22
xã, thị có cán bộ Dân số có bằng chuyên môn từ Trung cấp trở lên, đảm bảo đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ và đúng quy định về chuẩn hóa đội ngũ cán bộ.
Đội ngũ Cộng tác viên dân số đến
thời điểm hiện tại có 307 người, trong đó có người kiêm y tế thôn bản, người
kiêm chi hội phụ nữ, ...Hàng năm, huyện trích ngân nguồn kinh phí sự nghiệp của
ngành để đào tạo, tập huấn cán bộ chuyên trách, cộng tác viên. Hệ thống tổ chức
bộ máy làm cộng tác DS-KHHGĐ từ huyện đến cơ sở cơ bản đáp ứng yêu cầu các công
tác dân số, gia đình và trẻ em; hoạt động dân số, gia đình, trẻ em đã huy động
được sự tham gia có nhiều hiệu quả các ban, ngành, đoàn thể và toàn xã hội và
đã trở thành hoạt động có tính xã hội hoá ngày càng cao.
2. 4. Chính sách đầu tư nguồn lực:
Việc thực hiện các chính sách về Dân
số-KHHGĐ nhìn chung ngày càng được các
cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm tốt hơn, hàng năm từ huyện xuống xã, thị đều
trích ngân sách để hỗ trợ cho hoạt động này. Công tác thi đua, khen thưởng động
viên và xử lý kỷ luật các trường hợp vi phạm tốt hơn; Kỷ luật cán bộ thôi giữ
chức vụ và thuyên chuyển công tác, hoãn nâng lương, hạ xếp loại thi đua đối với
với các tập thể có cán bộ vi phạm,... Một số địa phương xây dựng hương ước và
tổ chức thực hiện khá tốt như Phương Điền, Phú Gia.
Để tổ chức các hoạt động nhằm thực
hiện tốt các mục tiêu và chỉ tiêu về Dân số-KHHGĐ, hàng năm Hội đồng nhân dân
huyện đều phân bổ kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động này trên địa bàn. Kinh phí
phân khai hỗ trợ cho các năm từ 2005-2014 bình quân mỗi năm từ 10-30 triệu
đồng.
Đối với các xã, thị hàng năm đều chi
ngân sách hỗ trợ cho công tác Dân số-KHHGĐ của địa phương. Tuy nhiên, mức chi
hỗ trợ có sự khác biệt rất lớn, từ 300.000 đồng-15.000.000đ/xã/năm.
2.5. Mở rộng và nâng cao chất lượng
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình
Hằng năm, các chương trình mục tiêu
quốc gia thay đổi hành vi, hệ thống chăm sóc
SKSS-KHHGĐ được triển khai sâu rộng tới tất cả các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng
xa trong địa bàn. Hàng năm, Trung tâm Dân số - KHHGĐ phối hợp với các phòng,
ban, ngành tổ chức các đợt chiến dịch “Tăng cường truyền thông, vận động lồng
ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ” đến người dân. Để đáp ứng tốt
nhu cầu và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ
các đơn vị đã bố trí đội ngũ cán bộ có
trình độ chuyên môn cung cấp các dịch vụ về khám, chăm sóc sức khỏe sinh
sản/KHHGĐ. Ngoài ra, các đơn vị còn mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục
SKSS cho vị thành niên trong và ngoài nhà trường, xây dựng các câu lạc bộ gia
đình trẻ, câu lạc bộ không sinh con thứ 3 trở lên; tổ chức đội tuyên truyền lưu
động cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ xuống tận nhân dân.
Đội ngũ cán bộ làm công tác Dân
số/KHHGĐ từ huyện đến xã, thị trình độ ngày càng được nâng lên, đảm bảo có đủ
kỹ năng, nghiệp vụ thông qua lựa chọn kiện toàn cán bộ, các đợt tập huấn hàng
năm. Thông qua đội ngũ này đã cung cấp các phương tiện tránh thai hiện đại kịp
thời, đúng đối tượng, không lãng phí, chưa phát hiện có sai sót xảy ra.
2.6. Nâng cao chất lượng dân số:
Công tác xây
dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc được các cấp uỷ, chính quyền
các cấp quan tâm, coi đây là công tác giải quyết các vấn đề xây dựng đời sống
văn hoá, nếp sống văn minh ở các khu dân cư, khối phố. Phong trào “cán bộ, đảng viên gương mẫu, tiên phong”;
“Ông , bà, cha, mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo” thực hiện công tác
DS-GĐ&TE. Đến hết năm 2013, toàn huyện có 18.121 gia đình văn hóa, đạt
90,6% ( so với năm 20006 là 71,2%); gia đình thể thao từ 7.625, đạt 89% Số gia đình hộ giàu, kinh tế khả giả ngày càng
tăng.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục trẻ em
được các cấp uỷ, chính quyền, các ngành, các tổ chức xã hội quan tâm, đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất trường học, nâng cao chất lượng dạy và học. Đến nay, đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ 5 tuổi; 100% xã, thị đạt tiêu chuẩn phổ cập THCS vững chắc.
Các chương trình Quốc gia hoạt động có
hiệu quả như chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em dưới 1 tuổi
đạt tỷ lệ 98%, chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, chương trình
phòng chống HIV đều hoàn thành mục tiêu đề ra, hạ tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ dưới 5 tuổi từ 26,5% (năm 2006) xuống còn 19% (năm 2013).
Công tác bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em ngày càng được các ngành chức năng liên quan quan tâm
rõ rệt, trong những năm qua bằng các biện pháp giáo dục pháp luật, ký cam kết
hộ gia đình……Tình trạng trẻ bị xâm hại, trẻ em lang thang cơ nhỡ được giảm hẳn.
III. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân :
Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình
triển khai thực hiện nghị quyết 46 về công tác Dân số-kế hoạch hoá gia đình còn
bộc lộ một số tồn tại khó khăn cần được tập trung khắc phục và tháo gỡ.
- Công tác tổ chức học tập, quán triệt
và tuyên truyền nghị quyết chưa sâu rộng đến tận các đối tượng. Hình thức,
phương pháp giáo dục chưa đổi mới kịp với yêu cầu đòi hỏi của các đối tượng.
Chưa tạo được chuyển biến nhận thức một cách đồng đều trong các tầng lớp nhân
dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên
thiếu gương mẫu trong thực hiện chính sách dân số, gia đình, trẻ em, kết quả,
chưa đạt mục đích yêu cầu đề ra, cá biệt có nhiều nơi chậm chuyển biến trên một
số lĩnh vực.
- Công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em
thiếu đồng bộ, chưa chăm lo đến các điều kiện vui chơi hoạt động của trẻ em, tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng vấn còn cao, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn chưa được
chăm lo thường xuyên. Đạo đức học đường của trong bộ phận học sinh có biểu hiện
sa sút, trẻ em vi phạm kỷ luật và vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng;
vấn còn tình trạng ngược đãi và xâm hại
đối với trẻ em.
- Công tác Dân số/KHHGĐ tuy có nhiều
chuyển biển, nhưng tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở một số địa phương vấn còn
cao, qui mô chất lượng dân số chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển trong thời kỳ
mới.
- Sự phối hợp lồng ghép trong tổ chức
chỉ đạo thực hiện của các cấp, các ngành, các địa phương còn có biểu hiện ỷ lại
và chưa thấy hết trách nhiệm của từng ngành, từng cấp, từng địa phương đối với
việc thực hiện nhiệm vụ dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Nguyên nhân:
Về khách quan: Là huyện miền núi có địa bàn phức tạp trình độ dân trí và đời sống mọi
mặt của nhân dân còn nhiều khó khăn, nguồn thu ngân sách của các địa phương còn
thấp, chưa có đủ điều kiện đầu tư cơ bản cho các hoạt động dân số nên có ảnh
hướng rất lớn đến các hiệu quả tổ chức triển khai và hoạt động về công tác dân
số, kế hoạch hóa, gia đình.
Về chủ quan:
Nguyên nhân chủ yếu là do các cấp,
các ngành chưa nhận thức, quán triệt đầy đủ, sâu sắc về tầm quan trọng, tính
chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác Dân số/KHHGĐ trong tình hình
hiện nay; đặc biệt đã xuất hiện tư tưởng chủ quan thỏa mãn với kết quả đạt
được, dẫn đến buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức và bộ máy làm công tác Dân
số/KHHGĐ, nhất là cấp xã thiếu ổn định, năng lực và hiệu quả còn hạn chế. Công
tác tuyên truyên, vận động, giáo dục chưa đủ mạnh; xử lý các vi phạm về chính
Dân số-KHHGĐ chưa nghiêm túc, thiếu quyết liệt và kịp thời
- Ngân sách các cấp chi cho các hoạt
động dân số kế hoạch hóa gia đình hàng năm còn thấp; chế độ phụ cấp hàng tháng
cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số quá thấp so với yêu cầu công việc.
- Người dân chưa nhận thức được áp
lực dân số đông trong việc đáp ứng các dịch xã hội như: giáo dục, y tế, giao
thông…Bên cạnh đó, quan niệm phong kiến lạc hậu trọng nam khinh nữ, phải có
nếp, có tẻ cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến việc gia tăng dân số.
Bài học kinh nghiệm:
1. Tuyên truyền quán triệt đầy đủ những quan
điểm, chủ trương của Đảng và nhà nước về dân số, kế hoạch hóa gia đình và Nghị
quyết 47-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa
gia đình trong từng cán bộ, Đảng viên để nâng cao ý thức và tạo ý thức tự giác
của mỗi người dân đối với việc thực hiện chính sách dân số -kế hoạch gia đình.
2.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền phải cụ thể hoá chủ trương của Đảng và nhà nước về
về dân số, kế hoạch hóa gia đình thành các chủ trương mục tiêu, nhiệm vụ giải
pháp hàng năm để tổ chức thực hiện đồng thời tạo sự phối hợp, thực hiện có hiệu
quả của các cấp, các ngành đối với công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình.
3. Xây dựng các mô hình gia đình
thực hiện tốt công tác dân số/KHHGĐ, mô hình nuôi con khỏe, dạy con ngoan, mô
hình làm kinh tế giỏi, mô hình ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo…Các
câu lạc bộ không sinh con thứ 3, câu lạc bọ gia đình trẻ, câu lạc bộ tiền hôn
nhân…nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, kịp thời biểu dương các gia
đình tiêu biểu, gương người tốt, việc tốt.
4. Củng cố bộ máy làm công tác Dân
số/KHHGĐ từ huyện đến cơ sở, tăng chế độ phụ cấp cho đội ngũ làm công tác dân
số.
5. Xây dựng quy chế, quy ước và các
hình thức khen thưởng, xử lý đối với những trường hợp vi phạm chính sách dân
số, kế hoạch hóa gia đình.
Phần thứ hai:
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1. Phương hướng chung:
Tiếp tục quán triệt thực hiện các
quan điểm cơ bản của Nghị quyết 47 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII;
phấn đấu đạt các mục tiêu về quy mô, đồng thời từng bước nâng chất lượng dân
số. Thực hiện chủ trương mô hình gia đình ít con, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 đến
2 con để nuôi dạy con tốt.
2. Mục tiêu:
Kiên trì thực hiện mục tiêu “mỗi cặp
vợ chồng chỉ sinh 1 hoặc 2 con”, nỗ lực giảm sinh và giảm nhanh tỷ lệ sinh trên
2 con, tiến tới đạt mức sinh thay thế, ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng
sức khỏe sinh sản, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số, góp phần
thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của huyện.
3. Nhiệm vụ, giải pháp:
Để tiếp tục tăng cường công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với công tác dân số kế hoạch hóa
gia đình theo tinh thần Nghị quyết 47, trong thời gian tới cần tập trung thực
hiện tốt một số nội nhiệm vụ giải pháp sau:
3.1. Tiếp tục tổ chức quán triệt sâu
rộng các quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ trong Nghị quyết 47 trong cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân tạo sự chuyển biến đồng đều về nhân thức đối với
việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ về dân số.
3.2. Tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự
phối hợp của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia
đình; phải xác định đây là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, chương trình, kế hoạch công tác của địa phương,
đơn vị và là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ của các tập thể, cá nhân. Tổ chức giám sát, đánh giá việc thực
hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình; khen thưởng, biểu dương
kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình; xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân vi phạm chính sách dân số - kế hoạch
hóa gia đình.
3.3. Tăng cường phổ biến, giáo dục
chính sách, pháp luật về dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh
sản, nhất là về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.. Chú
trọng các hoạt động truyền thông có hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng,
ưu tiên vùng đông dân, có mức sinh cao, vùng khó khăn, vùng đồng bào có đạo. Kết
hợp tốt truyền thông đại chúng với truyền thông trực tiếp thông qua mạng lưới
cộng tác viên dân số, tuyên truyền viên của các ngành, đoàn thể; tăng cường sử
dụng các phương tiện truyền thông hiện đại như internet, truyền thông đa phương
tiện.
3.4. Kiện toàn bộ máy cán bộ làm công tác dân số,
kế hoạch hoá gia đình và trẻ em các cấp đảm bảo đủ phẩm chất năng lực và sự say
mê đối với nhiệm vụ được giao.
3.5. Tăng
cường và nâng cao hiệu quả phối hợp hoạt động của các ngành, các cấp trên lĩnh vực
dân số, kế hoạch hóa gia đình. Trên cơ sở nghị quyết của TW, các ngành, các cấp
xây dựng chương trình hoạt động phối hợp trong từng thời gian có hiệu quả nhằm
thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá của đảng trên lĩnh vực dân số kế hoạch hóa
gia đình.
3.6. Nâng cao hiệu quả
công tác cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Cung cấp đầy đủ, kịp thời phương tiện tránh thai,
thuốc thiết yếu, vật tư tiêu hao phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản;
Triển khai có hiệu quả dịch vụ kỹ thuật các mô hình, đề án nâng cao chất
lượng dân số như tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước sinh và
sàng lọc sơ sinh, can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.