“Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng
công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và
cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển
này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Đó là khẳng định
của GS. Klaus Schwab, người Đức, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos, người
đã đưa ra khái niệm Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4 và đó cũng là
chủ đề chính của diễn đàn kinh tế lớn nhất thế giới năm 2016.
Diễn
đàn kinh tế thế giới năm 2016 - Diễn đàn Davos mùa Hè lần thứ 10 đã được khai mạc
ngày 27/6/2016 tại Thiên Tân, Trung Quốc có chủ đề "Cuộc CMCN lần thứ 4 và
những tác động" có sự tham dự của khoảng 1.700 chính trị gia, doanh nhân,
học giả và đại diện truyền thông đến từ hơn 90 quốc gia và khu vực.
Vậy
thực chất cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là gì?
Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa
ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học.
I. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
4.0
1.1. Quá trình định hình
các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử
Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất:
Cuộc
CMCN lần thứ Nhất sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất.
Nổ ra vào khoảng năm 1784. Đặc trưng của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất này là việc sử dụng năng lượng nước,
hơi nước và cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp này được đánh dấu
bởi dấu mốc quan trọng là việc James Watt phát minh ra động cơ hơi nước năm
1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ
19 lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên đã mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ khí, cơ giới
hóa.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã
thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại nông nghiệp
(kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp (lao động thủ công), sức
nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động
lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng mới là sắt và
than đá. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, tạo nên
tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. Đây là giai đoạn
quá độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất cơ giới trên cơ sở khoa học.
Tiền đề kinh tế chính của bước quá độ này là sự chiến thắng của các quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, còn tiền đề khoa học là việc tạo ra nền khoa học mới, có
tính thực nghiệm nhờ cuộc cách mạng trong khoa học vào thế kỷ XVII.
Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 2 ra đời từ khoảng năm 1870 đến khi Thế Chiến I nổ ra.
Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần
này là việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất
hàng loạt trên quy mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi
có sự phát triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt)
là sản xuất và tiêu dùng hàng loạt.
Cuộc CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền
đề mới và cơ sở vững chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa.
Cuộc cách mạng này được chuẩn bị bằng quá
trình phát triển 100 năm của các lực lượng sản xuất trên cơ sở của nền sản xuất
đại cơ khí và bằng sự phát triển của khoa học trên cơ sở kỹ thuật. Yếu tố quyết
định của cuộc cách mạng này là chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện – cơ khí và
sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ
sở khoa học thuần túy, biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc
cách này đã mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của
điện và dây chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa thậm chí còn lan rộng hơn tới Nhật
Bản sau thời Minh Trị Duy Tân, và thâm nhập sâu vào nước Nga, nước đã phát triển
bùng nổ vào đầu Thế Chiến I.
Về tư tưởng kinh tế - xã hội, cuộc cách mạng
này tạo ra những tiền đề thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở quy mô thế giới.
Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969, với sự ra đời và lan tỏa
của công nghệ thông tin (CNTT). Cuộc CMCN lần thứ 3 sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ
thông tin để tự động hóa sản xuất.
Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc
cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của
chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và
Internet (thập niên 1990).
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết
kiện các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương
đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu
dùng.
Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi cơ cấu của
nền sản xuất xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực I (nông -
lâm - thủy sản), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của nền sản xuất
xã hội.
Làm thay đổi tận gốc các lực lượng sản xuất,
cuộc Cách mạng KH&CN hiện đại đã tác động tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội
loài người, nhất là ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vì đây chính là nơi
phát sinh của cuộc cách mạng này
1.2. Khái niệm của cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0
Thuật ngữ "Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư" đã được áp dụng cho sự phát triển công nghệ quan trọng một vài lần
trong 75 năm qua, và là để thảo luận về học thuật.
Khái niệm Công nghiệp 4.0 hay nhà máy
thông minh lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover tại Cộng
hòa Liên bang Đức vào năm 2011. Công nghiệp 4.0 nhằm thông minh hóa quá trình sản
xuất và quản lý trong ngành công nghiệp chế tạo. Sự ra đời của Công nghiệp 4.0
tại Đức đã thúc đẩy các nước tiên tiến khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ
thúc đẩy phát triển các chương trình tương tự nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh của
mình.
Năm 2013, một từ khóa mới là "Công
nghiệp 4.0" (Industrie 4.0) bắt đầu nổi lên xuất phát từ một báo cáo của
chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện
toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người.
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ
46 đã chính thức khai mạc tại thành phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề
“Cuộc CMCN lần thứ 4”, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã đưa ra
một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công nghiệp 4.0 của Đức. Nhân loại
đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể thay đổi hoàn toàn
cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Quy mô, phạm vi và sự phức tạp
của lần chuyển đổi này không giống như bất kỳ điều gì mà loài người đã từng trải
qua.
Cụ thể, đây là “một cụm thuật ngữ
cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với
các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và
Internet của các dịch vụ (IoS).
Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi
khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều nước và trở thành một phần
quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền
tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy
trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn
nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ
tự động hóa, người máy,...
Cuộc CMCN thứ 4 hay Công nghiệp 4.0, là xu
hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó
bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện toán
đám mây.
Cuộc CMCN lần thứ 4 không chỉ là về các
máy móc, hệ thống thông minh và được kết nối, mà còn có phạm vi rộng lớn hơn
nhiều. Đồng thời là các làn sóng của những đột phá xa hơn trong các lĩnh vực
khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo
tới tính toán lượng tử.
Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tạo ra các "nhà máy thông minh" hay “nhà máy số”.
Trong các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát
các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT, các hệ
thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời
gian thực, và thông qua IoS thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị
thông qua việc sử dụng các dịch vụ này.
Giờ
đây, nhân loại đang bước vào cuộc CMCN lần thứ 4, được xây dựng trên cuộc CMCN
thứ 3, đó là cuộc cách mạng kỹ thuật số đã được xuất hiện từ giữa thế kỷ trước,
là sự hợp nhất các công nghệ làm mờ đi ranh giới giữa các các lĩnh vực vật lý,
kỹ thuật số và sinh học.
Chúng
ta vẫn chưa biết làm thế nào đế cuộc CMCN lần thứ 4 có thể mở ra, nhưng có một
điều rõ ràng là: việc ứng biến với cuôc cách mạng này đòi hỏi phải có sự phối hợp
toàn diện và đồng bộ liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân, chính thể trên
thế giới, từ khu vực công và tư tới giới khoa học học và toàn xã hội.
5 yếu tố cơ bản của cuộc Cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư:
1. Đức là quốc gia đầu tiên lên chương trình nghị sự của Chính
phủ như “một chiến lược công nghệ cao".
2. Dựa trên hệ thống mạng - vật lý, kết hợp giữa cơ sở hạ tầng vật
chấtvới các phần mềm, các bộ cảm biến, công nghệ nano, công nghệ truyền thông kỹ
thuật số.
3. Mạng internet sẽ đóng một vai trò quan trọng.
4. Cho phép nền kinh tế toàn cầu có thêm 14,2 tỷ USD thu nhập
trong 15 năm tới.
5. Sẽ làm thay đổi hoàn toàn tới việc làm trong tương lai và tác
động đến các ngành công nghiệp trên toàn thế giới.
Chuyến thăm của Thủ tướng Markel
Quá trình sản xuất tại Nhà máy Điện tử Amberg được kiểm soát bởi thiết bị
điều khiển Simatic. Theo thống kê, hệ thống vận chuyển hoàn toàn tự động đảm bảo
nguyên liệu được đưa từ nhà kho đến máy sản xuất trong vòng 15 phút; Nhà máy vận
hành 3 ca mỗi ngày, với hơn 3.000.000 sản phẩm được xuất xưởng mỗi năm; mặc dù
diện tích sản xuất không đổi (10.000m²) và số lao động hầu như không đổi, nhưng
nhà máy đã tăng sản lượng gấp 8 lần; Nhà máy sản xuất khoảng 15 triệu sản phẩm
Simatic mỗi năm và mỗi ngày có khoảng 60.000 sản phẩm được phân phối cho khách hàng trên toàn thế giới. Tại
EWA, máy móc và máy tính đã xử lý tới 75% chuỗi giá trị sản phẩm, còn con người
chủ yếu lo phát triển sản phẩm và khởi động quá trình sản xuất. Quá trình sản
xuất này được tự động hóa thông qua khoảng 1.000 bộ điều khiển Simatic để kiểm
soát, từ lúc bắt đầu cho tới khâu phân phối và chắc chắn là có sự tham gia của
kỹ thuật IT. Nhờ đó mà các sản phẩm ra đời với năng suất và chất lượng vượt trội,
đạt tới 99,9988%.
Trong video bà Merkel có nói:
Tôi
tới đây để xem nền sản xuất công nghiệp của tương lai
Ở
nhà máy này, người ta không chỉ nói về CÔNG NGHIỆP 4.0 mà còn thực hiện nó thực
sự (JOE KAESER – CEO Siemens) - Ông bày tỏ niềm vui mừng được đón Thủ tướng tới
để cho bà thấy chi tiết làm cách nào các sản phẩm được tạo ra/định hình
JOE
nhấn mạnh đây là một nhà máy số ở quy mô lớn được xây dựng hiện thực, ở đây máy
móc làm chính xác những gì con người muốn chúng làm
Bà
Merkel bày tỏ muốn thấy nước đức trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực này
(CÔNG NGHIỆP 4.0) và tin rằng Siemens sẽ trở thành người dẫn đầu thị trường
Các chuyên gia cho rằng siêu kết nối thông qua sự phổ biến của IoT và điện
toán đám mây sẽ cho phép việc truyền thông tin và giao tiếp phổ quát, toàn cầu
và gần như tức thời. Nó là tiền đề ra đời những mô hình kinh doanh mới và mở ra
những cách thức cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà trước đây là điều không tưởng
Các dịch vụ như Facebook, WhatsApp, Pinterest, Snapchat Twitter và
Instagram đã đóng một vai trò then chốt trong sự tương tác xã hội của các công
dân trên toàn thế giới. Siêu tự động hóa cũng có thể được kết hợp với siêu kết
nối, cho phép hệ thống máy tính kiểm soát và quản lý các quá trình vật lý và phản
ứng một cách “con người” hơn bao giờ hết. Nhờ siêu tự động hóa, "hệ
thống mạng vật lý" ra đời, cho phép robot và các cỗ máy thông minh
tăng khả năng kết nối để "vượt qua vực thẳm" giữa công nghệ-kỹ
thuật, thế giới tự nhiên và thế giới con người.
Cách mạng công nghiệp có lợi cho ai?
Những quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất là những nước tiên tiến,cổ
vũ cho sự thay đổi nhanh chóng và sâu sắc. Nhưng các chuyên gia cho rằng những
nước có nền kinh tế mới nổi cũng sẽ được hưởng nhiều lợi ích.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tiềm năng nâng cao mức
thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng cuộc sống cho dân trên những khu vực
rộng lớn. Với sự xuất hiện của thế giới kỹ thuật số, những người hưởng lợi có
thể chi trả thanh toán dịch vụ, nghe nhạc hoặc gọi taxi từ một điện thoại di động
phổ thông rẻ tiền. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi sẽ chỉ có lợi cho những người
có khả năng thích nghi với sự đổi mới.
Tác động đối với Chính phủ
Khi
thế giới vật chất, kỹ thuật số, và sinh học tiếp tục hội tụ, công nghệ mới và
các nền tảng sẽ ngày càng cho người dân cơ hội tham gia với các chính phủ, nói
lên ý kiến của mình, phối hợp các nỗ lực của họ, và thậm chí phá vỡ sự giám sát
của cơ quan công quyền. Đồng thời, chính phủ sẽ có được sức mạnh công nghệ mới
để tăng quyền lực kiểm soát xã hội, dựa trên các hệ thống giám sát phổ biến và
khả năng kiểm soát cơ sở hạ tầng kỹ thuật số.
Nhìn
chung và tuy nhiên, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải
thay đổi cách tiếp cận hiện tại của họ để cam kết và hoạch định chính sách,
cũng như vai trò trung tâm của họ về thực hiện chính sách sẽ giảm dần do sự
cạnh tranh của các công nghệ có khả năng làm tốt việc tái phân phối và phân
quyền.
Cuối
cùng, khả năng thích ứng của hệ thống chính phủ và các cơ quan công quyền sẽ
quyết định sự sống còn của họ. Nếu họ chứng minh được khả năng kiểm soát một
thế giới thay đổi đột phá, xây dựng được các cấu trúc của họ đến mức độ minh
bạch và hiệu quả để cho phép họ duy trì lợi thế cạnh tranh, thì họ sẽ tồn tại.
Nếu không như thế, họ sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều khó khăn.
Điều
này sẽ đặc biệt đúng trong lĩnh vực điều hành. Các hệ thống hiện tại của chính
sách công và quá trình ra quyết định phát triển cùng với cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ hai, khi đưa ra quyết định cần có thời gian để nghiên cứu một
vấn đề cụ thể và phát triển các phản ứng cần thiết hoặc khung pháp lý thích
hợp. Toàn bộ quá trình được thiết kế để trở tuyến tính và cơ học, theo một
phương pháp tiếp cận nghiêm ngặt “từ trên xuống”.
Tuy
nhiên, một cách tiếp cận như vậy không còn khả thi. Với tốc độ nhanh chóng của
sự thay đổi và quy mô rộng trong cuộc cách mạng lần thứ 4, các nhà lập pháp và nhà
quản lý đang bị thách thức ở một mức độ chưa từng có và đa phần được chứng minh
là không thể đối phó.
Vậy
làm thế nào họ có thể bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và công chúng trong
khi tiếp tục hỗ trợ đổi mới và phát triển công nghệ? Bằng cách thay đổi cách
quản trị “năng động”, giống như khu vực tư nhân ngày càng thông qua phản ứng
nhanh nhạy để ứng phó với sự phát triển của phần mềm và các hoạt động kinh
doanh nói chung.
Điều
này có nghĩa là nhà quản lý phải liên tục thích ứng với những thay đổi nhanh
chóng về môi trường, tái phát minh bản thân để họ có thể thực sự hiểu những gì
họ đang điều chỉnh. Để làm như vậy, chính phủ và các cơ quan quản lý sẽ cần
phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp và xã hội dân sự.
Cuộc
cách mạng công nghiệp thứ 4 cũng sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến bản chất của an ninh
quốc gia và quốc tế, ảnh hưởng đến cả khả năng và bản chất của các cuộc xung
đột. Lịch sử của chiến tranh và an ninh quốc tế là lịch sử của sự đổi mới công
nghệ, và hôm nay cũng không ngoại lệ.
Xung
đột hiện đại có xu hướng “lai tạp” giữa các kỹ thuật truyền thống với những yếu
tố phi truyền thống. Sự khác biệt giữa chiến tranh và hoà bình, chiến binh và
dân thường, và thậm chí bạo lực và bất bạo động (như chiến tranh mạng) đang
ngày càng mong manh.
Khi
quá trình này diễn ra và các công nghệ mới như vũ khí tự trị hoặc sinh học trở
nên dễ dàng hơn để sử dụng, cá nhân và các nhóm nhỏ sẽ càng có khả năng tham
chiến và gây hại hàng loạt. Lỗ hổng mới này dẫn đến những lo ngại mới. Nhưng
cùng lúc đó những tiến bộ trong công nghệ sẽ tạo ra khả năng giảm quy mô hoặc
tác động của bạo lực, thông qua sự phát triển của hệ thống bảo vệ mới, ví dụ
như khả năng nhắm mục tiêu chính xác hơn.
Tác động tới doanh nghiệp
Về phía cung, nhiều ngành công nghiệp đang thấy sự ra đời của các công nghệ
mới tạo ra những phương thức hoàn toàn mới đáp ứng các nhu cầu hiện tại và phá
vỡ đáng kể các chuỗi giá trị công nghiệp hiện có. Sự phá hủy cũng xuất hiện từ
những đối thủ cạnh tranh sáng tạo, nhanh nhạy, những người nhờ tiếp cận với các
nền tảng kỹ thuật số toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai, tiếp thị, bán hàng và
phân phối, có thể lật đổ những người đương nhiệm nhanh hơn bao giờ hết bằng
cách cải thiện chất lượng, tốc độ, hay giá cả đối với giá trị cung cấp. Những
thay đổi lớn về phía cầu cũng đang xảy ra, như minh bạch ngày càng tăng, sự
tham gia của người tiêu dùng, và các hình mẫu mới về hành vi của người tiêu
dùng (ngày càng được xây dựng
dựa trên sự truy cập vào các mạng di động và dữ liệu) buộc các công
ty thích nghi với cách họ thiết kế, tiếp thị và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ.
Một xu hướng chính là sự phát triển của các nền tảng công nghệ tạo khả năng,
cho phép kết hợp cả cung và cầu để phá vỡ cấu trúc ngành công nghiệp hiện có
Những nền tảng công nghệ, dễ dàng sử dụng với các điện thoại thông minh, tập
hợp con người, tài sản, và dữ liệu - do đó tạo ra những cách thức tiêu thụ hàng
hóa và dịch vụ hoàn toàn mới trong quá trình này. Ngoài ra, chúng hạ thấp các
rào cản đối với các doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra sự giàu có, làm thay đổi
môi trường cá nhân và chuyên môn của người lao động. Các doanh nghiệp nền tảng
mới này đang nhanh chóng nhân ra nhiều dịch vụ mới, từ giặt là đến mua sắm, từ việc nhà đến đỗ
xe, từ thư giãn đến du lịch.
Tác động đối với con người
Cuộc
cách mạng công nghiệp thứ 4, cuối cùng, sẽ thay đổi không chỉ những gì chúng ta
làm, mà còn cả việc chúng ta là ai. Nó sẽ ảnh hưởng đến danh tính của chúng ta
và tất cả các vấn đề liên kết với nó: ý thức của chúng ta về sự riêng tư, ý
niệm của chúng ta về quyền sở hữu, mô hình tiêu thụ của chúng ta, thời gian
chúng ta dành để làm việc và giải trí, và làm thế nào chúng ta phát triển sự
nghiệp, trau dồi kỹ năng của mình, gặp gỡ mọi người, và nuôi dưỡng các mối quan
hệ. Nó đã được thay đổi sức khỏe của chúng ta và dẫn đến tự “định lượng”, và
sớm hơn chúng ta nghĩ rằng nó có thể dẫn đến tăng thêm nhân lực. Danh sách này
là vô tận bởi vì nó phụ thuộc trí tưởng tượng của chúng ta.
Chúng
ta là người đam mê tuyệt vời với công nghệ, nhưng đôi khi tự hỏi liệu sự hội
nhập không mủi lòng của công nghệ trong cuộc sống của chúng ta có thể giảm bớt
một số năng lực tinh hoa trong con người chúng ta, chẳng hạn như lòng từ bi và
hợp tác.
Mối
quan hệ của chúng ta với điện thoại thông minh của là một trường hợp điển hình.
Kết nối liên tục có thể tước đi của chúng ta một trong những tài sản quan trọng
nhất của cuộc sống: thời gian để dừng lại, phản ánh, và tham gia vào các cuộc
đối thoại có ý nghĩa.
Một
trong những thách thức cá nhân lớn nhất gây ra bởi sự phát triển công nghệ
thông tin là sự riêng tư. Chúng ta theo bản năng hiểu được lý do tại sao nó là
rất cần thiết, nhưng việc theo dõi và chia sẻ thông tin về chúng ta là một phần
quan trọng của các kết nối mới.
Cuộc
tranh luận về các vấn đề cơ bản như tác động vào đời sống nội tâm về sự mất
kiểm soát dữ liệu của chúng ta sẽ chỉ tăng trong những năm tới. Tương tự như
vậy, những cuộc cách mạng xảy ra trong công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo
(AI) sẽ định nghĩa lại ngưỡng hiện tại của tuổi thọ, sức khỏe, nhận thức, khả
năng, và sẽ buộc chúng ta phải xác định lại vấn đề đạo đức ranh giới đạo đức
của chúng ta.
II. CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 VỚI NỀN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM
Nhiều
bài học kinh nghiệm cho thấy: quốc gia nào thực sự coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu, quốc gia đó có những bước phát triển đột phá và vượt trội. Đơn cử
Singapore, không chỉ là quốc đảo nổi tiếng sạch và đẹp mà còn là điểm đến của
nhiều học sinh, sinh viên mong muốn tìm kiếm một nền giáo dục tiên tiến.
Ở
thế kỷ XXI, người ta tính rằng, cứ 6 - 7 năm, toàn bộ tri thức nhân loại lại
tăng gấp đôi và từ 15 - 20 năm sau khi ra đời, các quy trình công nghệ lại trở
nên lạc hậu. Trong bối cảnh đó, GD cần phải đi trước một bước để đón đầu và
theo sát sự phát triển XH. Vì vậy, xây dựng một nền GD mở là đòi hỏi cấp thiết
của mọi quốc gia trong XH đương đại.
Tại
Việt Nam, với hơn 80% lao động quốc gia vẫn còn ở trình độ giản đơn, không ít
người chỉ muốn đi làm thuê, đi xuất khẩu lao động hoặc có tư tưởng đợi ai đó
sai khiến ra lệnh, thì đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta đang
phải đối mặt với quá nhiều thử thách.
Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế
đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo như: “Đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới…”; “Chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học
đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”; “Đổi
mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá
giáo dục và đào tạo”; “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục
và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
để phát triển đất nước”…
Đánh giá về thực trạng nền giáo dục
Việt Nam hiện nay, có thể thấy tồn tại những điểm sau:
Một là, mục tiêu GD (nhìn chung, các mục
tiêu đó đều hướng tới việc đào tạo người học thành người lao động, phát triển
toàn diện, "đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"). Đây là những
mục tiêu mang tính “khuôn mẫu”, cơ bản và chung nhất cho nhiều nền GD, không chỉ
của nước ta trước đây, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế - xã hội còn có những
hạn chế.
Hai là, nội dung GD. Nội dung GD ở nước ta
vẫn được thể hiện chủ yếu ở chương trình, nội dung dạy học trong giáo trình và
sách giáo khoa. Hầu hết giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta hiện nay đang
được trình bày đầy đủ theo một hệ thống đóng. Mặt khác, đa số nội dung trong
giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta
vẫn còn mang nặng tính hàn lâm, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Ấy là
chưa kể đến sự lạc hậu, khép kín liên quan đến việc chậm đổi mới, bổ sung theo
thời gian…
Ba là, chủ thể - khách thể GD. Hầu hết các
lớp học chính quy của ta lâu nay dường như vẫn trung thành với hình thức lớp -
bài. Thầy phải được đào tạo chính ngạch, trò phải có đủ văn bằng, chứng chỉ
theo quy định mới được theo học và phải tham gia đầy đủ các buổi lên lớp.
Bốn là, phương pháp GD. Nền GD của chúng
ta, từ phổ thông đến đại học, lâu nay vẫn sử dụng phương pháp “thuyết trình” “đọc-chép”
là chủ yếu; hầu hết người dạy và người học vẫn tiếp cận nội dung bài học ở trạng
thái tĩnh; để nắm được nội dung kiến thức, kỹ năng của bài học, cả thầy và trò
đều đi theo một lộ trình độc đạo, nhất thể hóa kết quả dạy học. Các sách cho
giáo viên, sách thiết kế bài dạy ở phổ thông hiện nay thể hiện rõ điều đó. Cách
làm này có ảnh hưởng lớn tới tính chủ thể, sáng tạo, hạn chế tính phát triển của
cả người dạy lẫn người học.
Năm là, hình thức tổ chức GD, dạy học. Ở tầm
vĩ mô, chúng ta đã có một hệ thống GD Quốc dân hoàn chỉnh với các hình thức đào
tạo và hệ thống trường học, tuy nhiên số lượng các trường đạt chuẩn quốc tế hoặc
liên doanh với quốc tế còn rất ít, khiến quá trình giao lưu, mở rộng học hỏi với
các nước và cạnh tranh quốc tế còn hạn chế, thiếu tính đa dạng. Ở tầm vi mô,
hình thức giảng dạy ở mỗi bậc học, cấp học cụ thể vẫn còn hạn chế về tính phong
phú, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của người dạy và người học; các hình
thức ximina, nghiên cứu thực tế, chuyên đề, thí nghiệm, học theo nhóm - tổ… đa
số vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ; việc hướng dẫn người học tự nghiên cứu
bài học trước khi lên lớp phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy
học tích cực.
Sáu là, đánh giá kết quả GD. Việc đánh giá
kết quả GD lâu này vẫn là một trong những công việc của ngành GD. Xét ở nhiều
khía cạnh thì điều này phần nào còn hạn chế về tính khách quan trong quá trình
nhận định, đánh giá.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới giáo dục như thế nào?
Gần
đây McDonald công bố sẽ xây thêm 25.000 nhà hàng mới, hoạt động hầu như bằng
robots và tự động hóa nên có thể cắt giảm hàng trăm ngàn người lao động. Hay mới
đây thông tin Foxconn Technology Group, công ty cung cấp linh kiện cho hãng
Apple và Samsung, cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng
robots.
Do
áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0, khi đó nhiều lĩnh vực công nghiệp được tự động
hóa thay thế con người và các yêu cầu về kỹ năng của người lao động sẽ cao. Khi
đó nếu người lao động không nâng cao năng lực, kỹ năng để thích ứng nhanh với sự
thay đổi của sản xuất thì bị loại khỏi thị trường lao động.
Hiện
nay, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước đang phát triển trong khu vực và thế giới
đều đang phải đối mặt với những thách thức lớn về sự thiếu hụt lao động có
trình độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực
cho cuộc CMCN 4.0. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra không chỉ với nền giáo dục (GD)
Việt Nam mà của cả thế giới là làm thế nào để đào tạo ra nguồn nhân lực lao động
để đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới của thế giới.
Phân
tích về tính cấp bách và quan trọng của vấn đề này, TS. Nguyễn Đắc Hưng (Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề -
Ban Tuyên giáo Trung ương) cho rằng, muốn hòa nhập vào cuộc CMCN 4.0, vào nền
kinh tế số, yếu tố then chốt là nguồn
nhân lực. Chúng ta cần cải cách hệ thống GD, đào tạo để tạo ra công dân
toàn cầu. Do đó, nền GD Việt Nam nói chung và các trường đại học, nơi cung cấp
cho xã hội nguồn nhân lực, lao động sẽ phải đào tạo theo chuẩn GD 4.0 theo hướng
bảo đảm khối kiến thức nền tảng vững chắc cho học sinh.
Vậy mường tượng như thế nào về ngành
giáo dục trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0?
Ngành
giáo dục trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, học sinh tiểu học sẽ không còn phải nghỉ
học vì trời quá lạnh, quá nắng hay do bị đau chân không đến lớp được? Công nghệ
thực tế ảo sẽ tái hiện toàn bộ không gian của lớp học một cách hoàn toàn sống động
và rất thực tế và bé chẳng bỏ lỡ bất kì buổi học nào.
Việc
điểm danh tại lớp cũng có thể sử dụng công nghệ thực tế ảo, thầy giáo có thể dạy
từ Anh với học trò đến từ khắp các châu lục và vẫn có thể tương tác với nhau
như đang ngồi trong cùng một nơi, khoảng cách về địa lý, không gian và thời
gian đã bị xóa nhòa.
Công
nghệ giúp giờ học sống động và hấp dẫn hơn bằng những đoạn phim tái hiện quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng, từ trực quan sinh động sẽ dẫn đến tư
duy trừu tượng và rất khó bị quên bài. Điều này vừa đòi hỏi tính tự học của học
trò, vừa đòi hỏi các thầy cô giáo tương lai phải nỗ lực áp dụng công nghệ để
các giờ học trở nên hấp dẫn.
Từ
đầu thế kỷ 21, các tập đoàn công nghệ lớn như Google, Apple đã cho ra đời những
thiết bị và phần mềm thông minh phục vụ cho đào tạo, những thiết bị này giúp
phát triển tư duy và kích thích sự sáng tạo của người học.
Việc
học không còn đơn thuần triển khai trên giấy bút, giờ đây đã có thể thực hiện
hoàn toàn trên các thiết bị điện tử. Một trong những đột phá về khoa học công
nghệ đó là sự ra đời và phát triển của các thiết bị thông minh như smartphone,
SmartTV, con người được tận hưởng những tiện ích của kỷ nguyên Internet vừa góp
phần thỏa mãn nhu cầu giải trí vừa giúp tăng năng suất xử lý công việc.
Giáo
viên tương lai sẽ phải dạy trẻ tự học, tự tiến bộ, tự tư duy. Điều đáng nói, phần
thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp, mà là giá trị mỗi người tạo ra cho xã hội.
Sự cạnh tranh sẽ không còn từ quốc gia này với quốc gia nọ, mà các công dân
trên toàn cầu thi đua mọi nơi mọi lúc. Chúng ta không phải chỉ cần đào tạo ra
những cán bộ kế toán, cán bộ tài chính – ngân hàng, kỹ sư xây dựng… mà phải hướng
tới việc đào tạo toàn diện, cung cấp cho xã hội đội ngũ công dân toàn cầu. Người
lao động phải có những kỹ năng cần thiết nhằm tạo ra càng nhiều giá trị, tiết
kiệm càng nhiều vốn, nguồn lực cho thế giới thì phần thưởng nhận được sẽ càng lớn. Bên cạnh đó, việc cộng
tác và làm việc nhóm trở thành yêu cầu bắt buộc khi chúng ta tham gia càng sâu
vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đòi hỏi một phong cách làm việc kỹ lưỡng,
chuyên nghiệp, cẩn mật, có óc tổ chức, tư duy thương thảo mỗi lúc, khả năng
truyền thông tuyệt vời trong nhiều ngoại ngữ, khả năng giải quyết mâu thuẫn, thậm
chí xung đột từ xa… Sẽ không có chỗ cho việc làm tạm bợ, không hiểu hoặc không
tôn trọng luật pháp tại nhiều quốc gia; sẽ đòi hỏi một phông văn hóa cao để dễ
tìm nguồn thông cảm giữa các chủng tộc, đạo giáo. Đồng thời, hàng trăm ngàn tấm
bằng tiến sĩ, thạc sĩ sẽ nằm yên trong tủ, không còn là tấm hộ chiếu cho bất kỳ
một chức vị nào.
Để bắt kịp kỷ nguyên cách mạng công
nghiệp 4.0, Giáo dục Việt Nam cần phải làm gì?
Ngành
giáo dục Việt Nam hiện nay mới đang dừng lại ở mức độ "tìm hiểu" và
"truyền tai nhau" về cách mạng công nghiệp 4.0 mà chưa có hành động
hay chiến lược cụ thể nào cho tiến trình công nghệ hóa giáo dục sắp tới.
Xét
về thực trạng giáo dục trong nước, dù đã có nhiều cuộc hội thảo thu hút các nhà
nghiên cứu và giới làm ăn, đó là dịp tiếp cận với khái niệm “cách mạng công
nghiệp lần thứ tư” (cách mạng công nghiệp 4.0) đang diễn ra với tốc độ nhanh và
hiệu suất cao. Thế nhưng có vẻ như ngành giáo dục với chức năng đào tạo nhân lực
đáp ứng chiến lược phát triển của đất nước lại chưa cho thấy một sự quan tâm đến
đề tài này, chưa có một cuộc hội thảo nào được tổ chức với quy mô lớn để bàn về
một vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm của mình. Điều đáng quan tâm là đầu ra
của ngành giáo dục chính là đào tạo lao động cho xã hội – với nhu cầu ngày càng
thay đổi chóng mặt. Nếu giáo dục Việt Nam không kịp thời và nhanh chóng có những
cải cách căn bản, toàn bộ lao động chúng ta đào tạo ra sẽ trở nên lỗi thời,
không có khả năng bắt kịp sự phát triển vũ bão của nền sản xuất – thương mại –
dịch vụ của thế giới.
Các
nhà nghiên cứu của Trường ĐH Oxford đã lượng hóa tác động của đổi mới công nghệ
với tình trạng thất nghiệp bằng cách xếp hạng 702 ngành nghề khác nhau bị nguy
cơ tự động hóa đe dọa từ ít nhất đến nhiều nhất, đây là một tham khảo quý giá
cho các nhà làm chính sách và chuyên gia ngành giáo dục. Theo đó:
-
Những ngành có khả năng tự động hóa nhất gồm: điện thoại viên, người khai thuế,
các viên chức trong lĩnh vực thể thao, thư ký và trợ lý hành chính, tiếp viên
hàng không, nhà hàng và quán cà phê, môi giới bất động sản, nhà thầu lao động,
người đưa thư.
-
Những ngành nghề ít khả năng tự động hóa gồm: nhân viên xã hội và chăm sóc bệnh
nhân, thầy thuốc và bác sĩ phẫu thuật, nhà tâm lý học, quản lý nhân sự, phân
tích hệ thống máy tính, biên đạo múa, nhân chủng học, khảo cổ học, kiến trúc
sư, quản lý bán hàng, giám đốc điều hành.
Danh
sách này rất dài và có ích để tham khảo, cho thấy trong điều kiện của cách mạng
công nghiệp 4.0 thì khả năng dự đoán xu hướng việc làm và nhu cầu kiến thức là
vô cùng quan trọng, đó cũng là bài toán đặt ra cho hệ thống giáo dục của bất cứ
nước nào, nhất là các nước đang đi tìm một mô hình phát triển phù hợp với hoàn
cảnh như chúng ta.
Giải pháp để nâng cao chất lượng nhân
lực của Việt Nam chính là phải thay đổi tư duy quá trình dạy và học trong các nhà
trường
Theo
TS. Nguyễn Đắc Hưng, chúng ta cần định vị một cách cụ thể cách thức, phương
pháp của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, sự thay đổi về
quan niệm, tư duy của quá trình dạy và học là một trong những yếu tố then chốt
để tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện nền GD nói chung và đổi mới theo hướng
GD 4.0 nói riêng.
Đối
với quá trình dạy, cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất
và phát triển năng lực người học hay là tổ chức một nền giáo dục mở, thực học,
thực nghiệp; chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng
sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng GD
nhân cách nói chung sang kết hợp GD nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng
cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến
thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực.
Còn
với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng,
thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học chỉ trong sách vở,
qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ
tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án. Đặc biệt, với học sinh, sinh viên
là người lao động trong tương lai cần thay đổi suy nghĩ học một lần cho cả đời
bằng việc học cả đời để làm việc cả đời.
Như
vậy, nền GD cần chuyển đổi cách thức GD từ truyền thụ kiến thức sang phát triển
phẩm chất và năng lực của học sinh. Trên cơ sở đó chương trình GD phổ thông mới
cần xác định các chuẩn năng lực chung và năng lực chuyên môn; các hình thức
tích hợp hoặc phân hóa trong chương trình dạy học tùy theo cấp học.
Tức
là phương pháp GD cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc tổ chức GD
qua Internet. Qua đó, hình thức GD sẽ linh hoạt về thời gian, không gian,
phù hợp với điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển E-learning hay sử dụng ứng
dụng công nghệ điện toán đám mây cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu học
tập cho người học và thu thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía người
học một cách liên tục và linh hoạt.
Đối
với lĩnh vực GD đại học, nơi đào tạo trực tiếp nguồn nhân lực cho cuộc CMCN 4.0
thì cần phải nhanh chóng đổi mới mô hình, chương trình và phương thức đào tạo,
từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng, nhất là đánh giá
sinh viên tốt nghiệp.
2.1. CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Cuộc
cách mạng công nghệ mới hiện nay tạo ra những cơ hội ngang nhau trên phạm vi
toàn cầu. Điều quan trọng nhất là ai nắm bắt được cơ hội sớm thì sẽ thành công
cao hơn. Vì vậy, chúng ta cần hiểu doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói
chung có nhu cầu như thế nào thì sinh viên sẽ hướng tới tìm học những nơi đáp ứng
được nhu cầu đó. Các trường Đại học, Cao đẳng không đáp ứng được nhu cầu thị
trường của kỷ nguyên Công nghiệp 4.0 sẽ không có sinh viên. Việc đào tạo của
ngành giáo dục hiện nay cần hướng đến cả các mục tiêu trước mắt và lâu dài, đào
tạo nhân lực theo hai hướng, một là đáp ứng yêu cầu của các nhà máy, các công
ty công nghiệp, hai là phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp– thế mạnh của Việt
Nam hiện nay theo hướng áp dụng công nghệ cao.
Việc
giáo dục ở bậc THCS và THPT cũng không được đứng ngoài cuộc cách mạng công nghiệp,
giáo dục phải là công cụ giải phóng người học, không trói buộc họ vào những môn
học nào đó, kiểu như triết học, lịch sử, văn chương, âm nhạc, nghệ thuật, và những
môn được gọi là “khoa học nhân văn” khác. Giáo dục phổ thông thời đại 4.0 cần
tìm cách để phát triển những con người tự do biết cách sử dụng trí tuệ của mình
và có thể độc lập suy nghĩ. Mục đích hàng đầu của nó không phải là phát triển
khả năng chuyên môn, mặc dù nó là không thể thiếu được đối với bất kỳ một nghề
chuyên môn về đầu óc nào...
Vấn
đề giáo dục là làm thế nào để sản sinh ra những con người tự do, chứ không phải
những nhà kỹ thuật được đào tạo mà không có tri thức. Và giáo dục hiện đại phải
loại trừ việc chỉ đơn thuần đào tạo kỹ thuật và ngành nghề.
Mặc
dù hiện nay CTGDPT tổng thể đã được công bố và các trường sư phạm đã bám sát tư
tưởng, những định hướng cơ bản ban đầu của chương trình, những điểm mới trong
tư tưởng đổi mới đã và đang triển khai trong thực tiễn. Các trường đã chủ động
vào cuộc, thay đổi phương thức đào tạo giáo viên.
2.2. CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Thời
đại đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng
phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định
dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ liệu. Đây cũng là những kỹ năng mà
sinh viên Việt Nam đang thiếu nhiều nhất. Để giải quyết vấn đề này, GD 4.0 sẽ
là một trong những giải pháp hiệu quả mà GD đại học cần triển khai.
Theo
GS.TS Vương Thanh Sơn, Đại học British Columbia (Canada), trường đại học là nơi
dẫn dắt tư duy và tạo động lực cho sinh viên cùng kết nối với thị trường và
doanh nghiệp. Ngược lại, một doanh nghiệp tích cực vừa là thị trường và cũng vừa
là đối tác hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu trong xu hướng cách mạng 4.0.
Chính
vì vậy, Việt Nam nên nhanh chóng thử nghiệm và triển khai mô hình đại học (ĐH)
thông minh 4.0 trong những dự án thí điểm. Cụ thể là xây dựng những công cụ
thông minh, gồm cả công cụ quản lý đại học và săn sóc sinh viên dựa trên thẻ
thông minh, phần mềm trí tuệ nhân tạo, bản địa hóa kho tài liệu học và đẩy mạnh
liên kết quốc tế.
Mỗi
trường ĐH nên có 1 trung tâm hay 1 ban dự án về GD 4.0 nhằm chuẩn bị chủ động đối
phó với thách thức và nắm bắt kịp thời cơ hội mà CMCN 4.0 đưa đến, đặc biệt là
cơ hội khởi nghiệp cho doanh nghiệp xã hội. Bởi vì, cải cách theo hướng GD 4.0
mới đáp ứng nhu cầu và tính cạnh tranh cao của nguồn nhân lực cho xã hội và đó
mới là xu hướng của thời đại toàn cầu.
Tuy
nhiên, theo GS.TS Vương Thanh Sơn, mặc dù rất cấp thiết nhưng ngành GD cũng như
các trường đại học không nên quá vội vàng, vấp váp chạy theo xu hướng bên ngoài
mà nên có lộ trình để tìm hiểu, đánh giá và áp dụng một cách đồng nhịp, phù hợp
với thực tế và bối cảnh của kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Phân
tích cụ thể hơn về mô hình của quá trình đổi mới GD theo hướng GD 4.0, TS. Nguyễn
Đắc Hưng chỉ rõ, CMCN 4.0 sẽ đặt các trường ĐH đứng trước thách thức rất lớn, cạnh
tranh nguồn lực chất lượng cao không chỉ trong nước mà nó còn mang tính toàn cầu.
Người lao động lúc này phải có tư duy sáng tạo, có khả năng thích nghi với các
thách thức và yêu cầu công việc thay đổi liên tục trong thị trường lao động
trong nước, khu vực và quốc tế, tránh nguy cơ bị mất việc làm.
Do
đó, để có được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thị trường, các trường ĐH cần giảng
dạy những kiến thức tích hợp giữa nhiều kiến thức, đồng thời rèn luyện kỹ năng
làm việc nhóm, tự học, biết cách tìm hiểu và tra cứu tài liệu, biết cách xử lý
thông tin để trở thành tri thức của mình.
Cụ
thể, cần áp dụng mô hình GD mới như phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo,
phòng thí nghiệm, thư viện ảo… dưới sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh; tạo
điều kiện và yêu cầu sinh viên từ năm thứ 3 phải tham gia các nhóm nghiên cứu,
và các đề tài này phải gắn liền với giải quyết một vấn đề cụ thể trong chuyên
môn, hoặc hoặc trong đời sống kinh tế, xã hội...
Cách
tốt nhất là các trường ĐH nên liên danh với DN lớn để hình thành mô hình ĐH mới
- ĐH doanh nghiệp.Thay đổi từ chỗ “dạy những gì giới học thuật sẵn có” sang
cách “dạy những gì thị trường cần, DN cần”, hoặc thậm chí xa hơn là “dạy những
gì thị trường và DN sẽ cần”.
Về
mặt quản lý, các cơ sở GD cần chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ chức và hoạt
động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngoài, mở rộng các hoạt động đầu
tư liên danh, liên kết trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu khoa học. Gỡ
bỏ các rào cản để hướng sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào GD đáp ứng yêu
cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước.
2.3. CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Theo
Thạc sĩ Lâm Văn Quản, với phương pháp, tư duy đào tạo hiện nay, giáo dục nghề
nghiệp mới chỉ thiên về lý thuyết mà chưa chú trọng đến lao động thực hành của
người học. Vì vậy, những kiến thức, kỹ năng học sinh, sinh viên học được chưa
đáp ứng yêu cầu công việc theo nền tảng kinh tế của cuộc cách mạng công nghiệp
3.0 và không thể ứng dụng vào làm việc trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Cùng
quan điểm, ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và
Thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, điểm yếu của lao
động Việt Nam hiện nay, kể cả lao động đã qua đào tạo nghề là kỹ năng, ngoại ngữ
và tác phong làm việc công nghiệp. Trong khi đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
sẽ làm giảm nhu cầu lao động ở các nhóm ngành thâm dụng lao động và tạo ra nhiều
việc làm ở các ngành nghề đòi hỏi trình độ tư duy, sáng tạo cao như công nghệ
thông tin, thiết kế, hóa học...
Theo
Tiến sỹ Nguyễn Thành Nam, Hiệu trưởng trường Đại học trực tuyến FUNiX, cách mạng
công nghiệp 4.0 đặt ra nhiều thách thức nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện để
con người đổi mới tư duy và phương pháp đào tạo, học tập thông qua kết nối các
thiết bị thông minh, các lớp học ảo, lớp học trực tuyến… Trong bối cảnh khoa học,
công nghệ thay đổi từng giây thì việc giáo dục nghề nghiệp cũng phải đạt những
chuẩn mực chung nhất định. Bên cạnh những môn học mang tính đặc thù của từng
ngành thì tất cả lao động cần được trang bị những kiến thức, kỹ năng căn bản
như làm chủ các thiết bị công nghệ và mạng internet; kỹ năng giao tiếp, giải
quyết các tình huống thực tế trong lao động, sản xuất.
Như
vậy, trong cuộc cách mạng 4.0, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng
giữa chất lượng cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động. Khi tự động hóa
thay thế con người trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, người lao động chắc chắn
sẽ phải thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa, bị
thất nghiệp. Theo một số dự báo, trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của
Robot, số lượng nhân viên sẽ giảm đi 1/10 so với hiện nay. Như vậy, 9/10 nhân lực
còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Cuối năm 2015, Ngân hàng Anh Quốc
đưa ra một dự báo: sẽ có khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc
trong vòng 10 -20 năm tới chỉ riêng tại Mỹ và Anh - tương đương 50% lực lượng
lao động tại hai nước này và ở các quốc gia khác cũng sẽ có tình trạng tương tự.
Hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay thế vào đó là những nghề nghiệp mới.
Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm
lao động có kỹ năng thấp và nhóm lao động có kỹ năng cao. Các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra rằng cuộc cách mạng 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động
trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung (trung cấp, cao đẳng)
cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới - kỹ
năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0.
Những
sự thay đổi này của sản xuất và cơ cấu nhân lực trong thị trường lao động tương
lai, đặt ra nhiều vấn đề đối với giáo dục nghề nghiệp, đó là:
-
Thứ nhất, để đáp ứng được nhu cầu
nhân lực có chất lượng cao và đa dạng ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế 4.0,
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới mạnh mẽ từ hoạt động đào tạo đến quản
trị nhà trường để tạo ra những “sản phẩm”- người lao động tương lai có năng lực
làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh.. Trong khi cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến TTLĐ thì các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp nơi cung cấp nhân lực kỹ thuật chủ yếu cho nền kinh tế, vẫn đào tạo theo
cách đã cũ. Học sinh, sinh viên với các kiến thức, kỹ năng đang được dạy trong
nhà trường hiện nay còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế 3.0 hiện tại,
có thể hoàn toàn không hữu dụng với nền kinh tế 4.0 hoặc đang dễ dàng bị robot
thay thế trong tương lai gần.
-
Thứ hai, để đáp ứng nhân lực cho nền
kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là phương
thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT. Tuy nhiên, hiện
nay các điều kiện đảm bảo cho sự thay đổi này vẫn còn hạn chế. Hiện nay, ở đa số
các các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, sự đổi mới phương thức và phương pháp dạy
và học còn khá chậm trễ; hạ tầng CNTT còn lạc hậu (ngoại trừ một số cơ sở được
đầu tư thành trường chất lượng cao) và không đồng bộ. Trong một số năm gần đây,
trong khuôn khổ của chương trình MTQG, ngành dạy nghề đã triển khai các hoạt động
của dự án ứng dụng CNTT trong quản lý, hoạt động dạy và học nghề. Hệ thống cơ sở
dữ liệu quốc gia về dạy nghề được thiết kế, xây dựng cho phép thu thập, xử lý,
cập nhật, đồng bộ thông tin dữ liệu về dạy nghề trên toàn quốc và hỗ trợ công
tác tìm kiếm, thống kê, báo cáo, phân tích dự báo phục vụ cho công tác điều
hành, quản lý về dạy nghề từ Trung ương đến bộ, ngành, địa phương, CSDN trên phạm
vi cả nước. Tuy nhiên, kết quả của dự án còn hạn chế, do mới chỉ đẩu tư lắp đặt
hạ tầng đồng bộ cho 26 trường CĐN. Bên cạnh đó, , hiện nay Tổng cục dạy nghề
đang triển khai thí điểm số hóa bài giảng, mô phỏng thực hành nghề để hình
thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện tử nhằm hiện đại hóa công tác dạy và học nghề,
tiến tới hình thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện điện tử, tài nguyên xây dựng
bài giảng điện tử hỗ trợ cho công tác giảng dạy các nghề.
-
Thứ ba, sự thay đổi trong quản trị
nhà trường.. Đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng sẽ là xu hướng đào tạo nghề
nghiệp trong tương lai. Điều này tác động đến bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và
đội ngũ giáo viên của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Đội ngũ này phải được
chuyên nghiệp hóa và có khả năng sáng tạo cao, có phương pháp đào tạo hiện đại
với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT và điều này dẫn đến sự thay đổi về quy mô và
cơ cấu giáo viên (cả về trình độ và kỹ năng), sẽ xuất hiện hiện tượng thừa và
thiếu nhân lực.
-
Thứ tư, song song với việc nâng cao
chất lượng “máy cái”, đổi mới mô hình nhà trường là giải pháp rất cần thiết. Cần
chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần” và hướng
tới chỉ đào tạo “những gì thị trường sẽ cần”.Theo mô hình mới này, việc gắn kết
giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp là yêu cầu được đặt ra; đồng
thời, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để chia sẻ
các nguồn lực chung: cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực, quan trọng hơn là rút
ngắn thời gian chuyển giao từ kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống. Tuy
nhiên, mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp; giữa đào tạo và sử
dụng nhân lực qua đào tạo vẫn còn rất ‘lỏng lẻo, chưa trở thành “trách nhiệm xã
hội” của các doanh nghiệp.
-
Thứ năm, vấn đề đổi mới quản lý cả ở
cấp vĩ mô và cấp cơ sở đối với giáo dục nghề nghiệp. Với sự xuất hiện ở những lớp
học ảo, nghề ảo, chương trình ảo, và những yêu cầu của thị trường lao động với
những kỹ năng sáng tạo mới, đòi hỏi có sự quản lý chung để một mặt hướng tới sự
đảm bảo “mặt bằng” chất lượng; mặt khác, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế
sáng tạo và cạnh tranh. Tuy nhiên, điều này cũng đang là vấn đề của công tác quản
lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở, khi hệ thống cơ sở pháp lý đang trong quá trình
bổ sung, hoàn thiện. Mặt khác, về mặt quản lý, sự chưa đồng bộ; sự chưa rạch
ròi giữa các chức năng QLNN và quản trị nhà trường là những hạn chế đã được chỉ
ra và gần đây mới bước đầu được khắc phục.
Từ
những vấn đề nêu trên, để nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp, đáp ứng yêu
cầu của nền kinh tế sáng tạo, trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, theo chúng
tôi, cần thực hiện những giải pháp sau:
(1)
Đổi mới về cơ chế chính sách
-
Hoàn thiện các cơ chế chính sách, phù hợp với thực tiễn đối với đội ngũ nhà
giáo, người học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, người lao động trước khi tham gia
TTLĐ, doanh nghiệp tham gia đào tạo; hoàn thiện các cơ chế chính sách về phân bổ
và sử dụng tài chính trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Trong đó, đối với nhà
giáo, cần xây dựng các chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm ở các cấp
trình độ, kỹ năng ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng. Đổi mới việc tuyển dụng,
sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo giáo dục nghề nghiệp. Đổi mới chính
sách tiền lương đối với giáo viên giáo dục nghề nghiệp phù hợp để thu hút người
có kiến thức kỹ năng làm nhà giáo giáo dục nghề nghiệp.
-
Đổi mới cơ chế, chính sách đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Tăng cường tình
tự chủ trong hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường đối với các cơ sơ giáo dục
nghề nghiệp, nhằm tạo sự linh hoạt thích ứng với sự thay đổi của KH-CN và yêu cầu
của TTLĐ. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự chịu trách nhiệm về phát triển đổi
ngũ theo hướng tinh gọn, năng động, có khả năng làm việc trong môi trường cạnh
tranh cao.
(2)
Đổi mới quản lý giáo dục nghề nghiệp, ứng dụng CNTT trong quản lý
-
Cần hoàn thiện cơ chế, bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp theo hướng
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, gắn với trách nhiệm; giảm dần sự
can thiệp của các cơ quan chủ quản vào các hoạt động đào tạo và quản trị nhà
trường; chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ quản lý giáo dục nghề nghiệp ở các
cấp, nhất là ở cấp địa phương; tăng cường các công cụ quản lý.
-
Ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong công tác quản lý giáo dục nghề nghiệp; đổi mới cơ
chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục nghề nghiệp; xây dựng
cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục nghề nghiệp.
-
Hiện đại hóa hạ tầng CNTT trong toàn bộ hệ thống, từ trung ương tới địa phương
phục vụ công tác quản lý và điều hành lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; xây dựng
trung tâm tích hợp dữ liệu; trung tâm quản lý, điều hành tổng thể về giáo dục
nghề nghiệp; đầu tư các thiết bị, hệ thống thông tin quản lý; ứng dụng công nghệ
thông tin vào các hoạt động quản lý dạy, học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
-
Xây dựng thư viện điện tử, hệ thống đào tạo trực tuyến; khuyến khích các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ
thống thiết bị ảo mô phỏng, thiết bị thực tế ảo, thiết bị dạy học thuật và các
phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong dạy học cho các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp.
-
Triển khai các hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực và nhu cầu đào tạo theo cơ
cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội theo từng giai đoạn.
(3)
Đổi mới hoạt động đào tạo
-
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người học, người sử dụng lao động
và môi trường làm việc (bao gồm cả môi trường làm việc ảo), đòi hỏi các hoạt động
đào tạo phải thay đổi căn bản. Sẽ không còn khái niệm đào tạo theo niên chế và
không gian đào tạo cũng sẽ thay đổi. Chương trình đào tạo phải được thiết kế
linh hoạt, một mặt đáp ứng chuẩn đầu ra của nghề; mặt khác, tạo sự liên thông
giữa các trình độ trong một nghề và giữa các nghề.
-
Trong môi trường 4.0, phương pháp đào tạo cần phải thay đổi căn bản trên cơ sở
lấy người học làm trung tâm và sự ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng và
truyền đạt bài giảng. Cùng với đó là sự đổi mới căn bản hình thức và phương
pháp thi, kiểm tra trong giáo dục nghề nghiệp theo hướng đáp ứng năng lực làm
việc và tính sáng tạo của người học.
(4)
Nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
nghề nghiệp
-
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo trong môi trường mới, đội ngũ giáo viên giáo dục nghề
nghiệp phải có những năng lực mới, năng lực sáng tạo và do đó đòi hỏi phải có
những phẩm chất mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua các hoạt động đào tạo, tự
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng sư phạm và những
kỹ năng mềm cần thiết khác.
-
Đổi mới chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo về nghiệp vụ sư phạm,
kỹ năng nghề trên cơ sở chuẩn nhà giáo giáo dục nghề nghiệp.
-
Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề cho đội
ngũ giáo viên giáo dục nghề nghiệp ở nước ngoài và các chương trình tiên tiến ở
trong nước.
-
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp, cũng cần được chuẩn hóa,
trên cơ sở chức danh nghề nghiệp, gắn với vị trí việc làm. Đội ngũ này phải có
đủ năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm. Do vậy,
cần tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cả trong nước và ngoài nước để đáp
ứng được yêu cầu công việc. Đồng thời có cơ chế sàng lọc để nâng cao chất lượng
đội ngũ và hiệu quả công tác.
(5)
Phát triển đào tạo tại doanh nghiệp và gắn kết với doanh nghiêp trong hoạt động
đào tạo
Như
trên đã phân tích, trong môi trường 4.0, các hoạt động đào tạo cần phải được gắn
kết với doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển
khai. Vì vậy, một mặt đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển
các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ
chức của doanh nghiệp. Mặt khác, tăng cường việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục
nghề nghiệp và doanh nghiệp, trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng
tới doanh nghiệp thực sự là “cánh tay nối dài” trong hoạt động đào tạo của cơ sở
giáo dục nghề nghiệp, nhằm sử dụng có hiệu quả trang thiết bị và công nghệ của
doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo, hình thành năng lực nghề nghiệp cho
người học trong quá trình đào tạo và thực tập tại doanh nghiệp.
(6)
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ
-
Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu công nghệ, phương tiện dạy
học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý đào tạo.
-
Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gắn
nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở. Chú trọng các nghiên cứu mô
phỏng, nghiên cứu tương tác người - máy.
-
Tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm với các Viện nghiên cứu giáo
dục nghề nghiệp ở một số nước. Hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học giáo dục
nghề nghiệp giữa các Viện, trường trong nước với các Viện, trường nước ngoài ở
các nước tiên tiến như Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc và các nước trong ASEAN
và Châu Á khác.
(7)
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp
-
Tăng cường các hoạt dộng hợp tác đa phương, song phương trong các lĩnh vực của
giáo dục nghề nghiệp như nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật; đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý; quản trị nhà trường…
-
Tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý và xã hội để các nhà đầu tư nước
ngoài mở cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao tại Việt Nam; thực hiện liên
kết, hợp tác tổ chức đào tạo nghề nghiệp.
2.4. CMCN 4.0 ẢNH
HƯỞNG TỚI GIÁO VIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG
Các hiệu ứng cơ bản của môi trường số
hóa đối với quá trình dạy-học:
- Cải tiến chất lượng làm việc của
trò và thực hành thông qua nghe nhìn;
- Cải tiến kỹ năng viết tay và ngôn
ngữ qua xử lý từ ngữ;
- Thúc đẩy tốc độ riêng để nâng cao
năng lực học cá nhân khi sinh viên có thể theo kịp tiến độ và học tăng cường
phù hợp với nhu cầu của họ.
- Giúp học hợp tác với chỉ dẫn
đôi chút cho đối tượng người học cá biệt;
- Khuyến khích kèm cặp và kiểm
tra theo cặp đôi đồng nghiệp;
- Phát triển kỹ năng giao tiếp
và nhận thức của đối tượng nghe;
- Tác động đến việc học dựa vào nguồn
lực truy cập thông tin qua trang Website;
- Tăng cường thông tin liên tục,
bổ sung chuẩn xác vào độ xác thực của nhiệm vụ học tập và thông tin nâng cao;
- Gia tăng động cơ người học qua hoạt
động thực tế, nghe nhìn trực quan và cải tiến lối trình bày diễn đạt;
- Thúc đẩy học độc lập và những ưa
thích cá nhân để xử lý, phác thảo, cách thiết kế bài giảng;
- Trang bị cho người học cách tự kiểm
soát;
- Để cho người học tự làm ra sản
phẩm đa phương tiện chất lượng cao;
- Thay đổi thực hành công cụ lập
kế hoạch, chuyên mục đánh giá của giáo viên;
- Tăng cường cơ hội học nâng cao,
kinh nghiệm cho học viên có kết quả học tập;
- Truyền cảm hứng để sinh viên cam kết
học và đóng góp vào hoạt động học tập;
- Phát triển tư duy của sinh viên ở bậc
cao hơn: năng lực ứng dụng kiến thức và kỹ năng phân tích vấn đề
thách thức, nắm bắt khái niệm rộng, đưa ra ý tưởng và giải pháp mới.
Trong kỷ nguyên số hóa người thầy làm việc ở cơ
sở giáo dục Đại học phải hiểu được sự khác nhau giữa “học về” và “học để”; phải
thực hiện cái “học để” nhằm đạt kết quả đầu ra hiệu suất trong sinh viên.
Việc lôi cuốn đúng đắn người học đảm
bảo theo ngành môn học nhằm mục đích “học để”, nghĩa là, nếu sinh viên được tuyển
vào chương trình đào tạo sư phạm thì họ phải bộc lộ được các kỹ năng dạy học.
Việc ngoại biên số hóa có thể sẵn
sàng giúp sinh viên khai thác nội dung làm việc bên ngoài bài giảng dưới dạng số
hóa và vai trò người thầy trên quan điểm kỹ thuật dạy học là có quan trọng cốt
yếu.
Giáo viên phải tìm ra các phương thức
và cấu trúc hỗ trợ sinh viên phát triển các kỹ năng học tương tác, học cộng tác
và học độc lập với nhau.
Vai trò giáo viên mở rộng sang nuôi
dưỡng lối tư duy phê phán, óc sáng tạo và nhiệt tình khoa học trong sinh viên để
làm cho họ trở thành người biết cách tự học và tự đổi mới suốt đời.
Ví dụ, giáo viên trong hệ thống giáo
dục Đại học Indiana, Hoa Kỳ, họ đều quản lý các công nghệ, phương tiện có sẵn để
dạy học hiệu suất - phòng thí nghiệm ảo, nguồn lực điện toán từ Chương trình quốc
gia học tập theo công nghệ tiên tiến (NPTEL) với sứ mệnh quốc gia về Giáo dục bằng
ICT (NME-ICT), nguồn lực giáo dục mở, giáo dục qua mobile,…
Thầy giáo được trang bị lệnh kỹ thuật
số để nuôi dưỡng tư duy phê phán, óc sáng tạo và nhiệt tình khoa học cho sinh
viên trở thành tự học và tự đổi mới suốt đời.
Theo
khuyến nghị của các chuyên gia quốc tế, vai trò giáo viên trong thế kỉ XXI trở
nên phức tạp ở một thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu như vô tận.
Dạy học phân hóa là quan điểm phải được quan tâm đặc biệt. Người thầy phải quan
tâm đến từng người, nhu cầu họ rất khác nhau trong lớp học không đồng nhất, nhiệm
vụ chính của giáo viên là tạo môi trường học tập, tạo điều kiện để họ có cơ hội
học tập theo phương pháp tích cực và sáng tạo.
Các
trường đại học, trong đó các trường sư phạm đang đối diện nhiều cơ hội và thách
thức to lớn. Sự biến đổi lớn về vai trò người dạy - truyền thụ kiến thức theo
cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối, họ phải chuyển sang chức
năng hướng dẫn người học.
Trong
xã hội thông tin, giảng viên phải giúp sinh viên điều chỉnh định hướng về chất
lượng và ý nghĩa của nguồn thông tin, phải là nhà giáo dục chuyên nghiệp có đầu
óc sáng tạo, biết phê phán, tư duy độc lập, năng lực hợp tác tích cực và hỗ trợ
có hiệu quả giữa người học với những gì họ muốn biết, là người cung cấp cách hiểu
mới cho người học.
Kĩ
năng quan trọng nhất là kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo và xóa mù
thông tin. Cách dạy cũ không thể tạo ra những công dân thích hợp cho thế kỉ XXI
–những công dân toàn cầu. Vậy vai trò của người thầy sẽ là gì để giúp cho chính
họ và sinh viên điều chỉnh những thay đổi xã hội?
Chúng
ta đào tạo giáo viên là chuyên gia truyền đạt kiến thức hay chuyên gia giáo dục?
Người ta đã bắt đầu quan tâm đến câu hỏi của người học: đến trường để làm gì nếu
không có gì mới hơn sách điện tử, công nghệ dạy học được trang bị đầy đủ với
không gian rộng hơn rất nhiều lớp học và vô số ‘ông thầy” ngoài người thầy (là
duy nhất) trong lớp học kiểu cũ; đối tượng giao tiếp sẽ lớn hơn rất nhiều so với
số lượng bạn bè trong lớp học…
Quan
niệm “đến trường” là “đi học”, không đến trường là "không đi học"
hình như đã tỏ ra lạc hậu trong kỉ nguyên mới. Đương nhiên, chức năng định hướng
và dẫn dắt của nhà trường không thay đổi nhưng không thể thực hiện theo mô hình
dạy học cũ. Cần xác định lại vai trò người thầy trong học tập kết nối mạng.
Người thầy đóng vai trò chủ chốt
trong đào tạo ra kho chứa hoàn chỉnh gồm học thuật hỗ trợ tâm lý con người và
tâm lý xã hội, các dịch vụ hướng dẫn (tư vấn, cố vấn và hướng dẫn nghiệp vụ
chuyên môn) để cung cấp cho sinh viên.
Người thầy bắt buộc phải sử dụng nguồn
lực thư viện điện tử để gia tăng quá trình dạy-học. Đó là chức năng sống còn của
người thầy am hiểu công nghệ nhằm trao quyền và cho phép bản thân họ cũng như học
trò sử dụng công cụ và công nghệ khác nhau để cải tiến dạy-học.
Họ phải mài sắc kỹ năng của mình trên
quan điểm, phương pháp dạy-học có tính cạnh tranh với công nghệ số.
Việc quản lý nội dung và kiến thức là
tài khéo tay biết xoay sở chủ yếu để giáo viên tồn tại trong môi trường số. Họ
phải chọn lựa, phát triển và làm giàu tư liệu dạy-học với cấu trúc số hóa theo
phương thức ở bất kỳ mọi nơi, mọi lúc.
Giờ đây vai trò người thầy đã thay đổi
nhờ nâng cao công nghệ, và việc đánh giá học tập của sinh viên đã vượt ra ngoài
4 bức tường lớp học.
Một khi sinh viên lấy được thông tin
và tri thức qua cửa sổ kỹ thuật số, thì việc đánh giá họ sẽ phải được thiết kế
bằng chính hình thức đó. Ở đây vai trò người thầy là cộng tác với sinh viên
cũng như các cố vấn và giáo viên khác trên thế giới.
Cuối cùng, chúng ta cần nhớ rằng
không cần thiết và không thể nào nắm giữ được mọi thông tin trong cuộc sống
hàng ngày, nhưng luôn phải sẵn sàng chia sẻ và tham gia.
Shah (1) đã nói rằng một khi người thầy
và sách giáo khoa bị thay thế bằng nguồn lực số cho học tập, có nhiều ý định cố
gắng mở rộng quy mô thông tin và thư mục của người thầy với niềm tin rằng bảng
thông minh và kết nối số lớp học là một giải pháp.
Tuy nhiên, điều rõ ràng là bất kỳ ai
có khả năng nghe dư luận dân chúng đều thấy là chúng ta cần đánh giá lại vai
trò của người giáo viên, kết cấu lại các hệ thống giáo dục của chúng ta, không
phải cứ đi làm những bắt chước lu mờ trong lớp học cũ rích, một khi chúng ta
nhìn thấy sự đi lên của phần mềm dạy học online đại chúng.
Chúng ta không nên làm kinh hoàng hay
chém gió việc học tập. Cái chúng ta cần làm là đưa sự tự xem xét nội tâm vào
vai trò giáo viên, không cạnh tranh với Internet, mà giúp sinh viên học, tư
duy, phản ánh và thực thi kiến thức của họ, một khi họ hợp tác là có “học trên
Internet“.
Cải cách, đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên ở các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm
Thế giới đang đối mặt với nhiều thách
thức do toàn cầu hoá, số hóa và ICT. Không còn cách nào khác là phải tiến hành
cải cách triệt để đổi mới sư phạm.
Do vậy, cần đề xuất các giải pháp mới,
thiết thực và hữu hiệu trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở các trường Đại học,
Cao đẳng sư phạm nhằm thực sự nâng cao vai trò, vị thế của ngành sư phạm trong
công cuộc đổi mới giáo dục.
Một thuận lợi lớn là ngành sư phạm được
Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu; Đảng luôn
đánh giá cao vai trò người thầy trên mặt trận giáo dục; Đảng luôn chỉ đạo kịp
thời, sắc bén và ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và hợp
lý.
Vào tháng 10/2013, Hội nghị lần thứ 8
Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI thông qua Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, nhấn mạnh: “Cần
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo
theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại” (2).
Đội ngũ giảng viên các trường sư phạm
ngày càng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, thầy cô giáo vốn yêu nghề
tha thiết, luôn coi trọng tri thức, chăm lo dìu dắt thế hệ trẻ, lấy
dạy chữ, dạy người làm lẽ sống của mình, luôn coi trọng danh dự,
lương tâm, giữ khí tiết, tài năng, đức độ, học vấn và thái độ tận tụy
cống hiến.
Tuy nhiên, chúng ta đang đương đầu với
khó khăn, thách thức không nhỏ của toàn cầu hóa, quốc tế hóa và cách mạng số.
Trong kỷ nguyên số hóa này, bên cạnh
cơ hội tích cực là những thách thức có tác động sâu sắc đến giáo dục và đào tạo,
mà trước hết là đào tạo giáo viên.
Hiện nay, các trường sư phạm đang đứng
trước một số khó khăn như: Sức ì trong nhận thức của giảng viên và cán bộ quản
lý do quán tính cũ trong thời gian dài; Nguồn lực vật chất và tài chính còn hạn
hẹp; Chưa tuyển được người có năng lực phù hợp vào học sư phạm; Cùng với
đó là vấn đề giải quyết việc làm cho sinh viên sư phạm sau khi ra trường đang
ngày một gay gắt...
Nguyên nhân sâu xa là do xã hội thiếu
tin tưởng vào đội ngũ giáo viên, nhà trường và công tác quản lý giáo dục của
các cấp. Ngay giữa các Đại học, Cao đẳng sư phạm cũng nảy sinh nhiều xáo
trộn. Hầu hết các trường sư nhỏ lẻ, manh mún và thiếu liên kết hệ thống địa
phương tới trung ương.
Số lượng trường sư phạm quá nhiều: 63
tỉnh thành đều có cao đẳng sư phạm, trong khi đại học sư phạm lại đang ở tình
trạng đứng ở ngã ba đường. Có một số đại học sư phạm chuyển sang
đa ngành như Đại học sư phạm Vinh, Quy Nhơn, Hải Phòng…; Đại học Quốc gia Hà Nội
có riêng trường Khoa học Giáo dục nhưng cũng tham gia đào tạo giáo
viên. Các khoa sư phạm trong các đại học đa ngành hay chuyên ngành mười
năm trước cũng “trăm hoa đua nở ” ở các trường thuộc nhiều bộ ngành khác.
Một số tỉnh có cả đại học sư phạm lẫn
cao đẳng sư phạm cùng thực hiện nhiệm vụ đào tạo giáo viên phổ thông.
Tình hình trên dẫn đến chồng chéo,
liên kết lỏng lẻo mang tính chất tự phát, hỗn độn của toàn ngành sư phạm. Sự
phát triển này không có định hướng rõ và quy hoạch hệ thống tổng thể. Đây
là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng giáo dục thấp, và tất
nhiên làm hạn chế chất lượng đội ngũ thầy giáo.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, ICT hóa
và số hóa của nền kinh tế 4.0, các trường sư phạm phải nhanh chóng đổi mới
mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp dạy-học, phương thức đánh giá kết quả
đầu ra sinh viên, bồi dưỡng giáo viên theo hướng thực học, thực nghiệp và định
hướng vào công nghệ.
Cần đầu tư nhiều hơn về công nghệ
giáo dục tiên tiến, áp dụng đào tạo online, kết nối mạng để bồi dưỡng năng lực nghề
sư phạm cho sinh viên, giáo viên, giáo sinh tập sự trong hệ thống nối mạng thống
nhất trong toàn quốc và trên toàn cầu. Chỉ có như vậy mới có thể tiếp tục
đổi mới giải pháp chiến lược quốc gia cho đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
Các trường sư phạm phải gắn
với thực tiễn dạy-học ở phổ thông; Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy- học tiên
tiến; kiện toàn công tác quản lý nhà giáo, nhà trường; nâng cao đãi ngộ người
thầy có trình độ, am hiểu ứng dụng công nghệ;
Và tăng cường hội nhập quốc tế, hợp
tác với các cơ sở đào tạo sư phạm hàng đầu trên thế giới và trong khu vực; Tôn
vinh nghề dạy học đi đôi với đề cao đổi mới vai trò người thầy;
Đồng thời, xây dựng cơ chế, chính
sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút và sử dụng mạnh mẽ các nguồn đầu tư nước
ngoài có sẵn cho đào tạo giáo viên nhằm nâng cao năng lực nghề dạy học trong kỷ
nguyên số hóa.
Ngày 14 tháng 8 năm 2017
Bản quyền thuộc trường Đại học Vinh