Thứ Hai, 28 tháng 8, 2017

VIẾT BÊN HỒ BÌNH SƠN





Thị trấn nhỏ ven hồ
Đã qua mùa phượng cháy
Cửa sổ nhà ai bỏ quên
Nhánh bằng lăng nhạt màu năm tháng

Thị trấn nhỏ
Nên người đồng hành lẩn trốn
Từ ký ức ngủ quên
Bên vòm cây xà cừ xanh thẳm
Rủ xuống hồ
Một miền trời yên lặng

Thị trấn nhỏ trong veo
Ru giấc mơ tuổi trẻ
Dễ gì có được
Phút lặng ngắm mây trời và hò hẹn với trăng sao

Thị trấn của tôi
Êm êm đón cơn mưa tháng bảy
Miên man một giọng hát buồn
“Tình yêu mật ngọt...”


Nguyễn Thị Thư – THPT Hương Khê

HƯƠNG KHÊ QUÊ MÌNH



Ta lại về với mẹ quê ta
Mảnh đất thân thương dãi dầu mưa nắng
Mồ hôi rơi trên đồng khô chát mặn
Cho mùa vàng ngô lúa bội thu

Ta về nghe tiếng mẹ ru
Khao khát yêu thương từng câu ví dặm
Linh thiêng  Rộc Cồn vong lời sâu thẳm
Bất khuất kiên cường truyền thống quê hương

Vượt mọi gian nan qua mỗi chặng đường
Hương Khê quê mình hôm nay đẹp lắm
Kỳ vỹ Vũ Môn sương mây thác trắng
Hồ Bình Sơn xanh hò hẹn thương yêu

Mái ngói bình yên xanh khói lam chiều
Bên dòng Ngàn Sâu ân tình chảy mãi
Cam chín vườn đồi, ngô xanh đồng bãi
Lắng đọng hương trầm, hương bưởi quyện hồn quê

Ta đi trên đường náo nức, say mê
Điện sáng vùng xa, công trường rộn rã
Nhịp sống mới đang từng ngày hối hả
Xây quê hương mình tươi đẹp ngàn hoa

Thái Bá Tài

BÀI NÓI VỀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VỚI NGÀNH GIÁO DỤC

 “Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Đó là khẳng định của GS. Klaus Schwab, người Đức, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos, người đã đưa ra khái niệm Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4 và đó cũng là chủ đề chính của diễn đàn kinh tế lớn nhất thế giới năm 2016.

Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2016 - Diễn đàn Davos mùa Hè lần thứ 10 đã được khai mạc ngày 27/6/2016 tại Thiên Tân, Trung Quốc có chủ đề "Cuộc CMCN lần thứ 4 và những tác động" có sự tham dự của khoảng 1.700 chính trị gia, doanh nhân, học giả và đại diện truyền thông đến từ hơn 90 quốc gia và khu vực.
Vậy thực chất cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là gì?
1.     Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là gì?
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học.
2. Lịch sử ra đời của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
- Lịch sử loài người đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp:
+ Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ nhất bắt đầu vào năm 1784 với đột phá về cơ khí hóa với máy chạy bằng thủy lực và hơi nước.
+ CMCN lần thứ hai diễn ra trong giai đoạn 1871 - 1914 thúc đẩy quá trình điện khí hóa với sự xuất hiện của động cơ điện và dây chuyền sản xuất hàng loạt.
+ CMCN lần thứ ba bắt đầu vào năm 1969 dẫn đến sự xuất hiện của kỷ nguyên máy tính và tự động hóa.
+ CMCN lần thứ tư gắn chặt với quá trình số hóa nền kinh tế và xã hội.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn liền với thuật ngữ “Công nghiệp 4.0”, lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ Công nghệ Ha-nô-vờ ở Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011. Năm 2012, thuật ngữ này được đặt tên cho một chương trình hỗ trợ của Chính phủ Liên bang Đức hợp tác với giới nghiên cứu và các hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua “điện toán hóa”. Từ đó đến nay, thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” được sử dụng rộng rãi trên thế giới để mô tả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày 20/01/2016, Diễn đàn kinh tế thế giới ở Đa-vốt, Thụy Sĩ, đã khai mạc với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư."
3. Những đặc trưng của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- Kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể: Cuộc cách mạng công nghệ đang dien ra, còn được nhiều chuyên gia gọi là “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã bắt đầu từ những năm 2000, đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết họp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối In-tơ-nét (IoT) và các hệ thống kết nối In-tơ-nét (IoS).
- Qui mô và tốc độ phát triển chưa có tiền lệ trong lịch sử nhân loại: Tốc độ phát triển của nhũng đột phá trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là không có tiền lệ trong lịch sử. Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra với tốc độ theo cấp số cộng (hay tuyến tính) thì tốc độ phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là theo cấp số nhân nhờ rút ngắn đáng kể thời gian từ khi các ý tưởng về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai trong các phòng thí nghiệm cho đến khi thương mại hóa ở qui mô lớn các sản phẩm và qui trình mới được tạo ra trên phạm vi toàn cầu.
   - Tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới đương đại: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp - toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia. Các tác động này mang tính rất tích cực trong dài hạn, song cũng tạo ra nhiều thách thức điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn.
-  Về mặt kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động đến tiêu dùng, sản xuất và giá cả. Từ góc độ tiêu dùng và giả cả, mọi người dân đều được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tác động tích cực đến lạm phát toàn cầu nhờ đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực năng lượng, vật liệu, In-tơ-nét kết nối vạn vật, người máy, ứng dụng công nghệ in 3D v.v... giúp tiết kiệm các yếu tố đầu vào và qua đó giúp giảm mạnh áp lực chi phí đẩy.
- Từ góc độ sản xuất, trong dài hạn, cuộc cách mạng công nghiệp lần này sẽ tác động hết sức tích cực. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghệ này đang tạo ra những thách thức liên quan đến chi phí điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn do tác động không đều đến các ngành khác nhau Chính vì vậy mà Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang vẽ lại bản đồ kinh tế trên thế giới, với sự suy giảm quyền lực của các đại gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo.
- Tác động đến môi trường là tích cực trong ngắn hạn và hết sức tích cực trong trung và dài hạn nhờ sự phát triển mang tính đột  phá của các công nghệ tiết kiệm năng lượng, tài nguyên; vật liệu và thân thiện với môi trường Các công nghệ; giám sát môi trường cũng đang phát triển nhanh dần thay thế các phương thức giám sát môi trường truyền thống.
- Tác động đến xã hội thông qua kênh việc làm trong trung hạn là điều đáng quan  ngại nhất hiện nay. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư càng làm khuyếch đại lên xu hướng gia tăng bất bình đẳng trên toàn cầu nói chung và tại các nước phát triển nói riêng. Nhóm lao động dễ bị tổn thưong nhất là lao động giản đơn, ít kỹ năng rất dễ bị thay thế bởi người máy.
Chúng ta vẫn chưa biết làm thế nào đế cuộc CMCN lần thứ 4 có thể mở ra, nhưng có một điều rõ ràng là: việc ứng biến với cuôc cách mạng này đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn diện và đồng bộ liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân, chính thể trên thế giới, từ khu vực công và tư tới giới khoa học học và toàn xã hội.
5 yếu tố cơ bản của​ cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư:
1. Đức là quốc gia đầu tiên lên chương trình nghị sự của Chính phủ như “một chiến lược công nghệ cao".
2. Dựa trên hệ thống mạng - vật lý, kết hợp giữa cơ sở hạ tầng vật chấtvới các phần mềm, các bộ cảm biến, công nghệ nano, công nghệ truyền thông kỹ thuật số.
3. Mạng internet sẽ đóng một vai trò quan trọng.
4. Cho phép nền kinh tế toàn cầu có thêm 14,2 tỷ USD thu nhập trong 15 năm tới.
5. Sẽ làm thay đổi hoàn toàn tới việc làm trong tương lai và tác động đến các ngành công nghiệp trên toàn thế giới.
Chuyến thăm của Thủ tướng Markel
Quá trình sản xuất tại Nhà máy Điện tử Amberg được kiểm soát bởi thiết bị điều khiển Simatic. Theo thống kê, hệ thống vận chuyển hoàn toàn tự động đảm bảo nguyên liệu được đưa từ nhà kho đến máy sản xuất trong vòng 15 phút; Nhà máy vận hành 3 ca mỗi ngày, với hơn 3.000.000 sản phẩm được xuất xưởng mỗi năm; mặc dù diện tích sản xuất không đổi (10.000m²) và số lao động hầu như không đổi, nhưng nhà máy đã tăng sản lượng gấp 8 lần; Nhà máy sản xuất khoảng 15 triệu sản phẩm Simatic mỗi năm và mỗi ngày có khoảng 60.000 sản phẩm được phân phối cho khách hàng trên toàn thế giới. Tại EWA, máy móc và máy tính đã xử lý tới 75% chuỗi giá trị sản phẩm, còn con người chủ yếu lo phát triển sản phẩm và khởi động quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất này được tự động hóa thông qua khoảng 1.000 bộ điều khiển Simatic để kiểm soát, từ lúc bắt đầu cho tới khâu phân phối và chắc chắn là có sự tham gia của kỹ thuật IT. Nhờ đó mà các sản phẩm ra đời với năng suất và chất lượng vượt trội, đạt tới 99,9988%.
Trong video bà Merkel có nói:
Tôi tới đây để xem nền sản xuất công nghiệp của tương lai
Ở nhà máy này, người ta không chỉ nói về CÔNG NGHIỆP 4.0 mà còn thực hiện nó thực sự (JOE KAESER – CEO Siemens) - Ông bày tỏ niềm vui mừng được đón Thủ tướng tới để cho bà thấy chi tiết làm cách nào các sản phẩm được tạo ra/định hình
JOE nhấn mạnh đây là một nhà máy số ở quy mô lớn được xây dựng hiện thực, ở đây máy móc làm chính xác những gì con người muốn chúng làm
Bà Merkel bày tỏ muốn thấy nước đức trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực này (CÔNG NGHIỆP 4.0) và tin rằng Siemens sẽ trở thành người dẫn đầu thị trường
4. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam: ViệtNam đang trong quá trình hộp nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Một mặt, nó tạo ra nhiều cơ hội, nhưng cũng mang lại nhiềuthách thức trong trung và dài hạn; cụ thể là:
Cơ hội:
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới bước đầu vào giai đoạn khởi phát. Đây là cơ hội quý báu cho Việt Nam để tiếp cận với lĩnh vực khoa học công nghệ mới, tiếp cận với những thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đi tắt, đón đầu, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới. Mặt khác, nó tạo ra thời cơ mới cho Việt Nam hội nhập sâu hơn, hiệu quả hơn vào kinh tế thế giới.
- Tạo cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn do: (i) kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu vào động lực không có trần giới hạn là công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào luôn có trần giới hạn. (ii) phát triển nhiều ngành kinh tế; trong đó có những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những tiến bộ, thành tựu về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học công nghệ na no, vật liệu mới, In-tơ-nétkết nối vạn vật, người máy, ứng dụng công nghệ in 3D
- Tạo cơ hội cho Việt Nam thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội từ những người lao động có trình độ thấp chủ yếu gia công, lắp ráp sang xuất hiện đông đảo các tầng lớp, giai cấp sáng tạo trong khoa học, công nghệ, văn hóa, y tế, giáo dục…
Thách thức:
- Trong môi trường kết nối cao về In-tơ-nétvà các trang mạng xã hội, sẽ tạo ra nhiều sức ép đối với trách nhiệm giải trình của Quốc hội, Chính phủ và UBND các cấp và thách thức về quản trị nhà nước. Do vậy, cần có sự thay đổi căn bản trong việc xử lý quan hệ với công chúng và quản trị nhà nước.
      - Các nước công nghiệp mới nổi, nhiều nước đang phát triển và các tập đoàn đa quốc gia đều cạnh tranh quyết liệt đang tìm cách thu hút, hợp tác để có đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Tuy nhiên, khi đầu tư vào Việt Nam, phần lớn họ chỉ tập trung vào tận dụng nguồn lao động giá rẻ; biến Việt Nam thành công xưởng gia công lắp ráp. Việc chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước rất hạn chế.  Do vậy, nếu không chuyển hóa nguồn lực này thành năng lực nội sinh thì chúng ta ngày càng phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài.
- Về lĩnh vực giải quyết việc làm: Do lao động được thay thế bởi tự động hóa, rô bốt thông minh do vậy nó sẽ tác động trực tiếp đến việc làm của các ngành mà Việt Nam đang có thế mạnh về lao động nhưng kỹ năng thấp như: Dệt may, giày dép gia công, lắp ráp. Báo cáo của ILO công bố tháng 7/2016 cho thấy Việt nam có đến 86% lao động trong các ngành dệt may và giày dép ở Việt Nam có nguy cao mất việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ. Dệt  may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc làm cho nhiều lao động, trong đó có  nhiều lao động ít kỹ năng, nhiều lao động nữ và một số không còn trẻ. Đây là nhóm người dễ dàng tìm được việc làm thay thế ở trong khu vực chính thức, dẫn đến một quá trình điều chỉnh rất khó khăn và có thể làm đảo ngược quá trình chuyển dịch lao động ra khỏi nông nghiệp, cản trở quá trình tăng tỷ trọng của khu vực chính thức trong nền kinh tế. Mặt khác, trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo mới là lợi thế. Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều hạn chế; đây cũng là một thách thức không nhỏ để nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ và ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới ở các quy mô doanh nghiệp, ngành lĩnh vực và cả nền kinh tế trong điều kiện xuất phát điểm phát triển của Việt Nam còn thấp so với nhiều nước.

5. Các mạng công nghiệp 4.0 với nền giáo dục và đào tạo:
Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy: quốc gia nào thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, quốc gia đó có những bước phát triển đột phá và vượt trội. Đơn cử Singapore, không chỉ là quốc đảo nổi tiếng sạch và đẹp mà còn là điểm đến của nhiều học sinh, sinh viên mong muốn tìm kiếm một nền giáo dục tiên tiến.
Tại Việt Nam, với hơn 80% lao động quốc gia vẫn còn ở trình độ giản đơn, không ít người chỉ muốn đi làm thuê, đi xuất khẩu lao động hoặc có tư tưởng đợi ai đó sai khiến ra lệnh, thì đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta đang phải đối mặt với quá nhiều thử thách.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo như: “Đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới…”; “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ  yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi  đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”; “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo”; “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”…
Đánh giá về thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay, có thể thấy tồn tại những điểm sau:
Một là, mục tiêu GD (nhìn chung, các mục tiêu đó đều hướng tới việc đào tạo người học thành người lao động, phát triển toàn diện, "đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"). Đây là những mục tiêu mang tính “khuôn mẫu”, cơ bản và chung nhất cho nhiều nền GD, không chỉ của nước ta trước đây, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế - xã hội còn có những hạn chế.
Hai là, nội dung GD. Hầu hết giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta hiện nay đang được trình bày đầy đủ theo một hệ thống đóng. Mặt khác, đa số nội dung trong giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta  vẫn còn mang nặng tính hàn lâm, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Ấy là chưa kể đến sự lạc hậu, khép kín liên quan đến việc chậm đổi mới, bổ sung theo thời gian…
Ba là, chủ thể - khách thể GD. Hầu hết các lớp học chính quy của ta lâu nay dường như vẫn trung thành với hình thức lớp - bài. Thầy phải được đào tạo chính ngạch, trò phải có đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định mới được theo học và phải tham gia đầy đủ các buổi lên lớp.
Bốn là, phương pháp GD. Nền GD của chúng ta, từ phổ thông đến đại học, lâu nay vẫn sử dụng phương pháp “thuyết trình” “đọc-chép” là chủ yếu; để nắm được nội dung kiến thức, kỹ năng của bài học, cả thầy và trò đều đi theo một lộ trình độc đạo, nhất thể hóa kết quả dạy học. Cách làm này có ảnh hưởng lớn tới tính chủ thể, sáng tạo, hạn chế tính phát triển của cả người dạy lẫn người học.
Năm là, hình thức tổ chức GD, dạy học. số lượng các trường đạt chuẩn quốc tế hoặc liên doanh với quốc tế còn rất ít, khiến quá trình giao lưu, mở rộng học hỏi với các nước và cạnh tranh quốc tế còn hạn chế, thiếu tính đa dạng. Hình thức giảng dạy ở mỗi bậc học, cấp học cụ thể vẫn còn hạn chế về tính phong phú, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của người dạy và người học; các hình thức ximina, nghiên cứu thực tế, chuyên đề, thí nghiệm, học theo nhóm - tổ… đa số vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ; việc hướng dẫn người học tự nghiên cứu bài học trước khi lên lớp phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy học tích cực.
Sáu là, đánh giá kết quả GD. Việc đánh giá kết quả GD lâu này vẫn là một trong những công việc của ngành GD. Xét ở nhiều khía cạnh thì điều này phần nào còn hạn chế về tính khách quan trong quá trình nhận định, đánh giá.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới giáo dục như thế nào?
Gần đây McDonald công bố sẽ xây thêm 25.000 nhà hàng mới, hoạt động hầu như bằng robots và tự động hóa nên có thể cắt giảm hàng trăm ngàn người lao động. Hay mới đây thông tin Foxconn Technology Group, công ty cung cấp linh kiện cho hãng Apple và Samsung, cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng robots.
Do áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0, khi đó nhiều lĩnh vực công nghiệp được tự động hóa thay thế con người và các yêu cầu về kỹ năng của người lao động sẽ cao. Khi đó nếu người lao động không nâng cao năng lực, kỹ năng để thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất thì bị loại khỏi thị trường lao động.
Phân tích về tính cấp bách và quan trọng của vấn đề này, TS. Nguyễn Đắc Hưng  (Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề - Ban Tuyên giáo Trung ương) cho rằng, muốn hòa nhập vào cuộc CMCN 4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực. Chúng ta cần cải cách hệ thống GD, đào tạo để tạo ra công dân toàn cầu. Do đó, nền GD Việt Nam nói chung và các trường đại học, nơi cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực, lao động sẽ phải đào tạo theo chuẩn GD 4.0 theo hướng bảo đảm khối kiến thức nền tảng vững chắc cho học sinh.
Vậy mường tượng như thế nào về ngành giáo dục trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0?
Ngành giáo dục trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, học sinh tiểu học sẽ không còn phải nghỉ học vì trời quá lạnh, quá nắng hay do bị đau chân không đến lớp được? Công nghệ thực tế ảo sẽ tái hiện toàn bộ không gian của lớp học một cách hoàn toàn sống động và rất thực tế và bé chẳng bỏ lỡ bất kì buổi học nào.
Việc điểm danh tại lớp cũng có thể sử dụng công nghệ thực tế ảo, thầy giáo có thể dạy từ Anh với học trò đến từ khắp các châu lục và vẫn có thể tương tác với nhau như đang ngồi trong cùng một nơi, khoảng cách về địa lý, không gian và thời gian đã bị xóa nhòa.
Công nghệ giúp giờ học sống động và hấp dẫn hơn bằng những đoạn phim tái hiện quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, từ trực quan sinh động sẽ dẫn đến tư duy trừu tượng và rất khó bị quên bài. Điều này vừa đòi hỏi tính tự học của học trò, vừa đòi hỏi các thầy cô giáo tương lai phải nỗ lực áp dụng công nghệ để các giờ học trở nên hấp dẫn.
Từ đầu thế kỷ 21, các tập đoàn công nghệ lớn như Google, Apple đã cho ra đời những thiết bị và phần mềm thông minh phục vụ cho đào tạo, những thiết bị này giúp phát triển tư duy và kích thích sự sáng tạo của người học.
Việc học không còn đơn thuần triển khai trên giấy bút, giờ đây đã có thể thực hiện hoàn toàn trên các thiết bị điện tử. Một trong những đột phá về khoa học công nghệ đó là sự ra đời và phát triển của các thiết bị thông minh như smartphone, SmartTV, con người được tận hưởng những tiện ích của kỷ nguyên Internet vừa góp phần thỏa mãn nhu cầu giải trí vừa giúp tăng năng suất xử lý công việc.
Giáo viên tương lai sẽ phải dạy trẻ tự học, tự tiến bộ, tự tư duy. Điều đáng nói, phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp, mà là giá trị mỗi người tạo ra cho xã hội. Sự cạnh tranh sẽ không còn từ quốc gia này với quốc gia nọ, mà các công dân trên toàn cầu thi đua mọi nơi mọi lúc. Chúng ta không phải chỉ cần đào tạo ra những cán bộ kế toán, cán bộ tài chính – ngân hàng, kỹ sư xây dựng… mà phải hướng tới việc đào tạo toàn diện, cung cấp cho xã hội đội ngũ công dân toàn cầu. Người lao động phải có những kỹ năng cần thiết nhằm tạo ra càng nhiều giá trị, tiết kiệm càng nhiều vốn, nguồn lực cho thế giới thì phần thưởng  nhận được sẽ càng lớn. Bên cạnh đó, việc cộng tác và làm việc nhóm trở thành yêu cầu bắt buộc khi chúng ta tham gia càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đòi hỏi một phong cách làm việc kỹ lưỡng, chuyên nghiệp, cẩn mật, có óc tổ chức, tư duy thương thảo mỗi lúc, khả năng truyền thông tuyệt vời trong nhiều ngoại ngữ, khả năng giải quyết mâu thuẫn, thậm chí xung đột từ xa… Sẽ không có chỗ cho việc làm tạm bợ, không hiểu hoặc không tôn trọng luật pháp tại nhiều quốc gia; sẽ đòi hỏi một phông văn hóa cao để dễ tìm nguồn thông cảm giữa các chủng tộc, đạo giáo. Đồng thời, hàng trăm ngàn tấm bằng tiến sĩ, thạc sĩ sẽ nằm yên trong tủ, không còn là tấm hộ chiếu cho bất kỳ một chức vị nào.
Để bắt kịp kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, Giáo dục Việt Nam cần phải làm gì?
Ngành giáo dục Việt Nam hiện nay mới đang dừng lại ở mức độ "tìm hiểu" và "truyền tai nhau" về cách mạng công nghiệp 4.0 mà chưa có hành động hay chiến lược cụ thể nào cho tiến trình công nghệ hóa giáo dục sắp tới.
Nếu giáo dục Việt Nam không kịp thời và nhanh chóng có những cải cách căn bản, toàn bộ lao động chúng ta đào tạo ra sẽ trở nên lỗi thời, không có khả năng bắt kịp sự phát triển vũ bão của nền sản xuất – thương mại – dịch vụ của thế giới.
Các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Oxford đã lượng hóa tác động của đổi mới công nghệ với tình trạng thất nghiệp bằng cách xếp hạng 702 ngành nghề khác nhau bị nguy cơ tự động hóa đe dọa từ ít nhất đến nhiều nhất, đây là một tham khảo quý giá cho các nhà làm chính sách và chuyên gia ngành giáo dục. Theo đó:
- Những ngành có khả năng tự động hóa nhất gồm: điện thoại viên, người khai thuế, các viên chức trong lĩnh vực thể thao, thư ký và trợ lý hành chính, tiếp viên hàng không, nhà hàng và quán cà phê, môi giới bất động sản, nhà thầu lao động, người đưa thư.
- Những ngành nghề ít khả năng tự động hóa gồm: nhân viên xã hội và chăm sóc bệnh nhân, thầy thuốc và bác sĩ phẫu thuật, nhà tâm lý học, quản lý nhân sự, phân tích hệ thống máy tính, biên đạo múa, nhân chủng học, khảo cổ học, kiến trúc sư, quản lý bán hàng, giám đốc điều hành.
Danh sách này rất dài và có ích để tham khảo, cho thấy trong điều kiện của cách mạng công nghiệp 4.0 thì khả năng dự đoán xu hướng việc làm và nhu cầu kiến thức là vô cùng quan trọng, đó cũng là bài toán đặt ra cho hệ thống giáo dục của bất cứ nước nào, nhất là các nước đang đi tìm một mô hình phát triển phù hợp với hoàn cảnh như chúng ta.
Giải pháp để nâng cao chất lượng nhân lực của Việt Nam chính là phải thay đổi tư duy quá trình dạy và học trong các nhà trường
Theo TS. Nguyễn Đắc Hưng, chúng ta cần định vị một cách cụ thể cách thức, phương pháp của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, sự thay đổi về quan niệm, tư duy của quá trình dạy và học là một trong những yếu tố then chốt để tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện nền GD nói chung và đổi mới theo hướng GD 4.0 nói riêng.
Đối với quá trình dạy, cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học hay là tổ chức một nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng GD nhân cách nói chung sang kết hợp GD nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực.
Còn với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học chỉ trong sách vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án. Đặc biệt, với học sinh, sinh viên là người lao động trong tương lai cần thay đổi suy nghĩ học một lần cho cả đời bằng việc học cả đời để làm việc cả đời.
Như vậy, nền GD cần chuyển đổi cách thức GD từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Trên cơ sở đó chương trình GD phổ thông mới cần xác định các chuẩn năng lực chung và năng lực chuyên môn; các hình thức tích hợp hoặc phân hóa trong chương trình dạy học tùy theo cấp học.
Tức là phương pháp GD cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc tổ chức GD qua Internet. Qua đó, hình thức GD sẽ linh hoạt về thời gian, không gian, phù hợp với điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển E-learning hay sử dụng ứng dụng công nghệ điện toán đám mây cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu học tập cho người học và thu thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía người học một cách liên tục và linh hoạt.
Đối với lĩnh vực GD đại học, nơi đào tạo trực tiếp nguồn nhân lực cho cuộc CMCN 4.0 thì cần phải nhanh chóng đổi mới mô hình, chương trình và phương thức đào tạo, từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng, nhất là đánh giá sinh viên tốt nghiệp.
Giáo dục phổ thông thời đại 4.0 cần tìm cách để phát triển những con người tự do biết cách sử dụng trí tuệ của mình và có thể độc lập suy nghĩ. Mục đích hàng đầu của nó không phải là phát triển khả năng chuyên môn, mặc dù nó là không thể thiếu được đối với bất kỳ một nghề chuyên môn về đầu óc nào...
Vấn đề giáo dục là làm thế nào để sản sinh ra những con người tự do, chứ không phải những nhà kỹ thuật được đào tạo mà không có tri thức. Và giáo dục hiện đại phải loại trừ việc chỉ đơn thuần đào tạo kỹ thuật và ngành nghề.
6. Cách mạng 4.0 ảnh hưởng tới giáo viên trong nhà trường :
Các hiệu ứng cơ bản của môi trường số hóa đối với quá trình dạy-học:
- Cải tiến chất lượng làm việc của trò và thực hành thông qua nghe nhìn;
- Cải tiến kỹ năng viết tay và ngôn ngữ qua xử lý từ ngữ;
- Thúc đẩy tốc độ riêng để nâng cao năng lực học cá nhân khi sinh viên có thể theo kịp tiến độ và học tăng cường phù hợp với nhu cầu của họ.
- Giúp học hợp tác với chỉ dẫn đôi chút cho đối tượng người học cá biệt;
- Khuyến khích kèm cặp và kiểm tra theo cặp đôi đồng nghiệp;
- Phát triển kỹ năng giao tiếp và nhận thức của đối tượng nghe;
- Tác động đến việc học dựa vào nguồn lực truy cập thông tin qua trang Website;
- Tăng cường thông tin liên tục, bổ sung chuẩn xác vào độ xác thực của nhiệm vụ học tập và thông tin nâng cao;
- Gia tăng động cơ người học qua hoạt động thực tế, nghe nhìn trực quan và cải tiến lối trình bày diễn đạt;

- Thúc đẩy học độc lập và những ưa thích cá nhân để xử lý, phác thảo, cách thiết kế bài giảng;

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM

 “Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Đó là khẳng định của GS. Klaus Schwab, người Đức, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos, người đã đưa ra khái niệm Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4 và đó cũng là chủ đề chính của diễn đàn kinh tế lớn nhất thế giới năm 2016.

Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2016 - Diễn đàn Davos mùa Hè lần thứ 10 đã được khai mạc ngày 27/6/2016 tại Thiên Tân, Trung Quốc có chủ đề "Cuộc CMCN lần thứ 4 và những tác động" có sự tham dự của khoảng 1.700 chính trị gia, doanh nhân, học giả và đại diện truyền thông đến từ hơn 90 quốc gia và khu vực.
Vậy thực chất cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là gì?
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học.
  

I. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1.1. Quá trình định hình các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:
Cuộc CMCN lần thứ Nhất sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất.
Nổ ra vào khoảng năm 1784. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất này là việc sử dụng năng lượng nước, hơi nước và cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp này được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng là việc James Watt phát minh ra động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ khí, cơ giới hóa.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại nông nghiệp (kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp (lao động thủ công), sức nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng mới là sắt và than đá. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, tạo nên tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. Đây là giai đoạn quá độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất cơ giới trên cơ sở khoa học. Tiền đề kinh tế chính của bước quá độ này là sự chiến thắng của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, còn tiền đề khoa học là việc tạo ra nền khoa học mới, có tính thực nghiệm nhờ cuộc cách mạng trong khoa học vào thế kỷ XVII.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ra đời từ khoảng năm 1870 đến khi Thế Chiến I nổ ra.
Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên quy mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt) là sản xuất và tiêu dùng hàng loạt.
Cuộc CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền đề mới và cơ sở vững chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa.
Cuộc cách mạng này được chuẩn bị bằng quá trình phát triển 100 năm của các lực lượng sản xuất trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ khí và bằng sự phát triển của khoa học trên cơ sở kỹ thuật. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng này là chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện – cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học thuần túy, biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách này đã mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa thậm chí còn lan rộng hơn tới Nhật Bản sau thời Minh Trị Duy Tân, và thâm nhập sâu vào nước Nga, nước đã phát triển bùng nổ vào đầu Thế Chiến I.
Về tư tưởng kinh tế - xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra những tiền đề thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở quy mô thế giới.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969, với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT). Cuộc CMCN lần thứ 3 sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất.
Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiện các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng.
Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi cơ cấu của nền sản xuất xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực I (nông - lâm - thủy sản), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của nền sản xuất xã hội.
Làm thay đổi tận gốc các lực lượng sản xuất, cuộc Cách mạng KH&CN hiện đại đã tác động tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội loài người, nhất là ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vì đây chính là nơi phát sinh của cuộc cách mạng này 
 1.2. Khái niệm của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Thuật ngữ "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" đã được áp dụng cho sự phát triển công nghệ quan trọng một vài lần trong 75 năm qua, và là để thảo luận về học thuật.
Khái niệm Công nghiệp 4.0 hay nhà máy thông minh lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover tại Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 2011. Công nghiệp 4.0 nhằm thông minh hóa quá trình sản xuất và quản lý trong ngành công nghiệp chế tạo. Sự ra đời của Công nghiệp 4.0 tại Đức đã thúc đẩy các nước tiên tiến khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ thúc đẩy phát triển các chương trình tương tự nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh của mình.
Năm 2013, một từ khóa mới là "Công nghiệp 4.0" (Industrie 4.0) bắt đầu nổi lên xuất phát từ một báo cáo của chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người.
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 46 đã chính thức khai mạc tại thành phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề “Cuộc CMCN lần thứ 4”, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công nghiệp 4.0 của Đức. Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Quy mô, phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống như bất kỳ điều gì mà loài người đã từng trải qua.
Cụ thể, đây là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS).
Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều nước và trở thành một phần quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,...
Cuộc CMCN thứ 4 hay Công nghiệp 4.0, là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện toán đám mây.
Cuộc CMCN lần thứ 4 không chỉ là về các máy móc, hệ thống thông minh và được kết nối, mà còn có phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đồng thời là các làn sóng của những đột phá xa hơn trong các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo tới tính toán lượng tử.
Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các "nhà máy thông minh" hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, và thông qua IoS thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này.
Giờ đây, nhân loại đang bước vào cuộc CMCN lần thứ 4, được xây dựng trên cuộc CMCN thứ 3, đó là cuộc cách mạng kỹ thuật số đã được xuất hiện từ giữa thế kỷ trước, là sự hợp nhất các công nghệ làm mờ đi ranh giới giữa các các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học.
Chúng ta vẫn chưa biết làm thế nào đế cuộc CMCN lần thứ 4 có thể mở ra, nhưng có một điều rõ ràng là: việc ứng biến với cuôc cách mạng này đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn diện và đồng bộ liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân, chính thể trên thế giới, từ khu vực công và tư tới giới khoa học học và toàn xã hội.
5 yếu tố cơ bản của​ cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư:
1. Đức là quốc gia đầu tiên lên chương trình nghị sự của Chính phủ như “một chiến lược công nghệ cao".
2. Dựa trên hệ thống mạng - vật lý, kết hợp giữa cơ sở hạ tầng vật chấtvới các phần mềm, các bộ cảm biến, công nghệ nano, công nghệ truyền thông kỹ thuật số.
3. Mạng internet sẽ đóng một vai trò quan trọng.
4. Cho phép nền kinh tế toàn cầu có thêm 14,2 tỷ USD thu nhập trong 15 năm tới.
5. Sẽ làm thay đổi hoàn toàn tới việc làm trong tương lai và tác động đến các ngành công nghiệp trên toàn thế giới.



Chuyến thăm của Thủ tướng Markel
Quá trình sản xuất tại Nhà máy Điện tử Amberg được kiểm soát bởi thiết bị điều khiển Simatic. Theo thống kê, hệ thống vận chuyển hoàn toàn tự động đảm bảo nguyên liệu được đưa từ nhà kho đến máy sản xuất trong vòng 15 phút; Nhà máy vận hành 3 ca mỗi ngày, với hơn 3.000.000 sản phẩm được xuất xưởng mỗi năm; mặc dù diện tích sản xuất không đổi (10.000m²) và số lao động hầu như không đổi, nhưng nhà máy đã tăng sản lượng gấp 8 lần; Nhà máy sản xuất khoảng 15 triệu sản phẩm Simatic mỗi năm và mỗi ngày có khoảng 60.000 sản phẩm được phân phối cho khách hàng trên toàn thế giới. Tại EWA, máy móc và máy tính đã xử lý tới 75% chuỗi giá trị sản phẩm, còn con người chủ yếu lo phát triển sản phẩm và khởi động quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất này được tự động hóa thông qua khoảng 1.000 bộ điều khiển Simatic để kiểm soát, từ lúc bắt đầu cho tới khâu phân phối và chắc chắn là có sự tham gia của kỹ thuật IT. Nhờ đó mà các sản phẩm ra đời với năng suất và chất lượng vượt trội, đạt tới 99,9988%.
Trong video bà Merkel có nói:
Tôi tới đây để xem nền sản xuất công nghiệp của tương lai
Ở nhà máy này, người ta không chỉ nói về CÔNG NGHIỆP 4.0 mà còn thực hiện nó thực sự (JOE KAESER – CEO Siemens) - Ông bày tỏ niềm vui mừng được đón Thủ tướng tới để cho bà thấy chi tiết làm cách nào các sản phẩm được tạo ra/định hình
JOE nhấn mạnh đây là một nhà máy số ở quy mô lớn được xây dựng hiện thực, ở đây máy móc làm chính xác những gì con người muốn chúng làm
Bà Merkel bày tỏ muốn thấy nước đức trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực này (CÔNG NGHIỆP 4.0) và tin rằng Siemens sẽ trở thành người dẫn đầu thị trường

Các chuyên gia cho rằng siêu kết nối thông qua sự phổ biến của IoT và điện toán đám mây sẽ cho phép việc truyền thông tin và giao tiếp phổ quát, toàn cầu và gần như tức thời. Nó là tiền đề ra đời những mô hình kinh doanh mới và mở ra những cách thức cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà trước đây là điều không tưởng
Các dịch vụ như Facebook, WhatsApp, Pinterest, Snapchat Twitter và Instagram đã đóng một vai trò then chốt trong sự tương tác xã hội của các công dân trên toàn thế giới. Siêu tự động hóa cũng có thể được kết hợp với siêu kết nối, cho phép hệ thống máy tính kiểm soát và quản lý các quá trình vật lý và phản ứng một cách “con người” hơn bao giờ hết. Nhờ siêu tự động hóa, "hệ thống mạng vật lý" ra đời, cho phép robot và các cỗ máy thông minh tăng khả năng kết nối để "vượt qua vực thẳm" giữa công nghệ-kỹ thuật, thế giới tự nhiên và thế giới con người.



Cách mạng công nghiệp có lợi cho ai?
Những quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất là những nước tiên tiến,cổ vũ cho sự thay đổi nhanh chóng và sâu sắc. Nhưng các chuyên gia cho rằng những nước có nền kinh tế mới nổi cũng sẽ được hưởng nhiều lợi ích.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tiềm năng nâng cao mức thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng cuộc sống cho dân trên những khu vực rộng lớn. Với sự xuất hiện của thế giới kỹ thuật số, những người hưởng lợi có thể chi trả thanh toán dịch vụ, nghe nhạc hoặc gọi taxi từ một điện thoại di động phổ thông rẻ tiền. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi sẽ chỉ có lợi cho những người có khả năng thích nghi với sự đổi mới.

Tác động đối với Chính phủ
Khi thế giới vật chất, kỹ thuật số, và sinh học tiếp tục hội tụ, công nghệ mới và các nền tảng sẽ ngày càng cho người dân cơ hội tham gia với các chính phủ, nói lên ý kiến của mình, phối hợp các nỗ lực của họ, và thậm chí phá vỡ sự giám sát của cơ quan công quyền. Đồng thời, chính phủ sẽ có được sức mạnh công nghệ mới để tăng quyền lực kiểm soát xã hội, dựa trên các hệ thống giám sát phổ biến và khả năng kiểm soát cơ sở hạ tầng kỹ thuật số.
Nhìn chung và tuy nhiên, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải thay đổi cách tiếp cận hiện tại của họ để cam kết và hoạch định chính sách, cũng như vai trò trung tâm của họ về thực hiện chính sách sẽ giảm dần do sự cạnh tranh của các công nghệ có khả năng làm tốt việc tái phân phối và phân quyền.
Cuối cùng, khả năng thích ứng của hệ thống chính phủ và các cơ quan công quyền sẽ quyết định sự sống còn của họ. Nếu họ chứng minh được khả năng kiểm soát một thế giới thay đổi đột phá, xây dựng được các cấu trúc của họ đến mức độ minh bạch và hiệu quả để cho phép họ duy trì lợi thế cạnh tranh, thì họ sẽ tồn tại. Nếu không như thế, họ sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều khó khăn.
Điều này sẽ đặc biệt đúng trong lĩnh vực điều hành. Các hệ thống hiện tại của chính sách công và quá trình ra quyết định phát triển cùng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, khi đưa ra quyết định cần có thời gian để nghiên cứu một vấn đề cụ thể và phát triển các phản ứng cần thiết hoặc khung pháp lý thích hợp. Toàn bộ quá trình được thiết kế để trở tuyến tính và cơ học, theo một phương pháp tiếp cận nghiêm ngặt “từ trên xuống”.
Tuy nhiên, một cách tiếp cận như vậy không còn khả thi. Với tốc độ nhanh chóng của sự thay đổi và quy mô rộng trong cuộc cách mạng lần thứ 4, các nhà lập pháp và nhà quản lý đang bị thách thức ở một mức độ chưa từng có và đa phần được chứng minh là không thể đối phó.
Vậy làm thế nào họ có thể bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và công chúng trong khi tiếp tục hỗ trợ đổi mới và phát triển công nghệ? Bằng cách thay đổi cách quản trị “năng động”, giống như khu vực tư nhân ngày càng thông qua phản ứng nhanh nhạy để ứng phó với sự phát triển của phần mềm và các hoạt động kinh doanh nói chung.
Điều này có nghĩa là nhà quản lý phải liên tục thích ứng với những thay đổi nhanh chóng về môi trường, tái phát minh bản thân để họ có thể thực sự hiểu những gì họ đang điều chỉnh. Để làm như vậy, chính phủ và các cơ quan quản lý sẽ cần phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp và xã hội dân sự.
Cuộc cách mạng công nghiệp thứ 4 cũng sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến bản chất của an ninh quốc gia và quốc tế, ảnh hưởng đến cả khả năng và bản chất của các cuộc xung đột. Lịch sử của chiến tranh và an ninh quốc tế là lịch sử của sự đổi mới công nghệ, và hôm nay cũng không ngoại lệ.
Xung đột hiện đại có xu hướng “lai tạp” giữa các kỹ thuật truyền thống với những yếu tố phi truyền thống. Sự khác biệt giữa chiến tranh và hoà bình, chiến binh và dân thường, và thậm chí bạo lực và bất bạo động (như chiến tranh mạng) đang ngày càng mong manh.
Khi quá trình này diễn ra và các công nghệ mới như vũ khí tự trị hoặc sinh học trở nên dễ dàng hơn để sử dụng, cá nhân và các nhóm nhỏ sẽ càng có khả năng tham chiến và gây hại hàng loạt. Lỗ hổng mới này dẫn đến những lo ngại mới. Nhưng cùng lúc đó những tiến bộ trong công nghệ sẽ tạo ra khả năng giảm quy mô hoặc tác động của bạo lực, thông qua sự phát triển của hệ thống bảo vệ mới, ví dụ như khả năng nhắm mục tiêu chính xác hơn.

Tác động tới doanh nghiệp
Về phía cung, nhiều ngành công nghiệp đang thấy sự ra đời của các công nghệ mới tạo ra những phương thức hoàn toàn mới đáp ứng các nhu cầu hiện tại và phá vỡ đáng kể các chuỗi giá trị công nghiệp hiện có. Sự phá hủy cũng xuất hiện từ những đối thủ cạnh tranh sáng tạo, nhanh nhạy, những người nhờ tiếp cận với các nền tảng kỹ thuật số toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai, tiếp thị, bán hàng và phân phối, có thể lật đổ những người đương nhiệm nhanh hơn bao giờ hết bằng cách cải thiện chất lượng, tốc độ, hay giá cả đối với giá trị cung cấp. Những thay đổi lớn về phía cầu cũng đang xảy ra, như minh bạch ngày càng tăng, sự tham gia của người tiêu dùng, và các hình mẫu mới về hành vi của người tiêu dùng (ngày càng được xây dựng dựa trên sự truy cập vào các mạng di động và dữ liệu) buộc các công ty thích nghi với cách họ thiết kế, tiếp thị và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ. Một xu hướng chính là sự phát triển của các nền tảng công nghệ tạo khả năng, cho phép kết hợp cả cung và cầu để phá vỡ cấu trúc ngành công nghiệp hiện có
Những nền tảng công nghệ, dễ dàng sử dụng với các điện thoại thông minh, tập hợp con người, tài sản, và dữ liệu - do đó tạo ra những cách thức tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ hoàn toàn mới trong quá trình này. Ngoài ra, chúng hạ thấp các rào cản đối với các doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra sự giàu có, làm thay đổi môi trường cá nhân và chuyên môn của người lao động. Các doanh nghiệp nền tảng mới này đang nhanh chóng nhân ra nhiều dịch vụ mới, từ giặt là đến mua sắm, từ việc nhà đến đỗ xe, từ thư giãn đến du lịch.

Tác động đối với con người
Cuộc cách mạng công nghiệp thứ 4, cuối cùng, sẽ thay đổi không chỉ những gì chúng ta làm, mà còn cả việc chúng ta là ai. Nó sẽ ảnh hưởng đến danh tính của chúng ta và tất cả các vấn đề liên kết với nó: ý thức của chúng ta về sự riêng tư, ý niệm của chúng ta về quyền sở hữu, mô hình tiêu thụ của chúng ta, thời gian chúng ta dành để làm việc và giải trí, và làm thế nào chúng ta phát triển sự nghiệp, trau dồi kỹ năng của mình, gặp gỡ mọi người, và nuôi dưỡng các mối quan hệ. Nó đã được thay đổi sức khỏe của chúng ta và dẫn đến tự “định lượng”, và sớm hơn chúng ta nghĩ rằng nó có thể dẫn đến tăng thêm nhân lực. Danh sách này là vô tận bởi vì nó phụ thuộc trí tưởng tượng của chúng ta.
Chúng ta là người đam mê tuyệt vời với công nghệ, nhưng đôi khi tự hỏi liệu sự hội nhập không mủi lòng của công nghệ trong cuộc sống của chúng ta có thể giảm bớt một số năng lực tinh hoa trong con người chúng ta, chẳng hạn như lòng từ bi và hợp tác.
Mối quan hệ của chúng ta với điện thoại thông minh của là một trường hợp điển hình. Kết nối liên tục có thể tước đi của chúng ta một trong những tài sản quan trọng nhất của cuộc sống: thời gian để dừng lại, phản ánh, và tham gia vào các cuộc đối thoại có ý nghĩa.
Một trong những thách thức cá nhân lớn nhất gây ra bởi sự phát triển công nghệ thông tin là sự riêng tư. Chúng ta theo bản năng hiểu được lý do tại sao nó là rất cần thiết, nhưng việc theo dõi và chia sẻ thông tin về chúng ta là một phần quan trọng của các kết nối mới.
Cuộc tranh luận về các vấn đề cơ bản như tác động vào đời sống nội tâm về sự mất kiểm soát dữ liệu của chúng ta sẽ chỉ tăng trong những năm tới. Tương tự như vậy, những cuộc cách mạng xảy ra trong công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ định nghĩa lại ngưỡng hiện tại của tuổi thọ, sức khỏe, nhận thức, khả năng, và sẽ buộc chúng ta phải xác định lại vấn đề đạo đức ranh giới đạo đức của chúng ta.










II. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VỚI NỀN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM

Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy: quốc gia nào thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, quốc gia đó có những bước phát triển đột phá và vượt trội. Đơn cử Singapore, không chỉ là quốc đảo nổi tiếng sạch và đẹp mà còn là điểm đến của nhiều học sinh, sinh viên mong muốn tìm kiếm một nền giáo dục tiên tiến.
Ở thế kỷ XXI, người ta tính rằng, cứ 6 - 7 năm, toàn bộ tri thức nhân loại lại tăng gấp đôi và từ 15 - 20 năm sau khi ra đời, các quy trình công nghệ lại trở nên lạc hậu. Trong bối cảnh đó, GD cần phải đi trước một bước để đón đầu và theo sát sự phát triển XH. Vì vậy, xây dựng một nền GD mở là đòi hỏi cấp thiết của mọi quốc gia trong XH đương đại.
Tại Việt Nam, với hơn 80% lao động quốc gia vẫn còn ở trình độ giản đơn, không ít người chỉ muốn đi làm thuê, đi xuất khẩu lao động hoặc có tư tưởng đợi ai đó sai khiến ra lệnh, thì đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta đang phải đối mặt với quá nhiều thử thách.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo như: “Đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới…”; “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ  yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi  đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”; “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo”; “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”…
Đánh giá về thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay, có thể thấy tồn tại những điểm sau:
Một là, mục tiêu GD (nhìn chung, các mục tiêu đó đều hướng tới việc đào tạo người học thành người lao động, phát triển toàn diện, "đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"). Đây là những mục tiêu mang tính “khuôn mẫu”, cơ bản và chung nhất cho nhiều nền GD, không chỉ của nước ta trước đây, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế - xã hội còn có những hạn chế.
Hai là, nội dung GD. Nội dung GD ở nước ta vẫn được thể hiện chủ yếu ở chương trình, nội dung dạy học trong giáo trình và sách giáo khoa. Hầu hết giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta hiện nay đang được trình bày đầy đủ theo một hệ thống đóng. Mặt khác, đa số nội dung trong giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta  vẫn còn mang nặng tính hàn lâm, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Ấy là chưa kể đến sự lạc hậu, khép kín liên quan đến việc chậm đổi mới, bổ sung theo thời gian…
Ba là, chủ thể - khách thể GD. Hầu hết các lớp học chính quy của ta lâu nay dường như vẫn trung thành với hình thức lớp - bài. Thầy phải được đào tạo chính ngạch, trò phải có đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định mới được theo học và phải tham gia đầy đủ các buổi lên lớp.
Bốn là, phương pháp GD. Nền GD của chúng ta, từ phổ thông đến đại học, lâu nay vẫn sử dụng phương pháp “thuyết trình” “đọc-chép” là chủ yếu; hầu hết người dạy và người học vẫn tiếp cận nội dung bài học ở trạng thái tĩnh; để nắm được nội dung kiến thức, kỹ năng của bài học, cả thầy và trò đều đi theo một lộ trình độc đạo, nhất thể hóa kết quả dạy học. Các sách cho giáo viên, sách thiết kế bài dạy ở phổ thông hiện nay thể hiện rõ điều đó. Cách làm này có ảnh hưởng lớn tới tính chủ thể, sáng tạo, hạn chế tính phát triển của cả người dạy lẫn người học.
Năm là, hình thức tổ chức GD, dạy học. Ở tầm vĩ mô, chúng ta đã có một hệ thống GD Quốc dân hoàn chỉnh với các hình thức đào tạo và hệ thống trường học, tuy nhiên số lượng các trường đạt chuẩn quốc tế hoặc liên doanh với quốc tế còn rất ít, khiến quá trình giao lưu, mở rộng học hỏi với các nước và cạnh tranh quốc tế còn hạn chế, thiếu tính đa dạng. Ở tầm vi mô, hình thức giảng dạy ở mỗi bậc học, cấp học cụ thể vẫn còn hạn chế về tính phong phú, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của người dạy và người học; các hình thức ximina, nghiên cứu thực tế, chuyên đề, thí nghiệm, học theo nhóm - tổ… đa số vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ; việc hướng dẫn người học tự nghiên cứu bài học trước khi lên lớp phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy học tích cực.
Sáu là, đánh giá kết quả GD. Việc đánh giá kết quả GD lâu này vẫn là một trong những công việc của ngành GD. Xét ở nhiều khía cạnh thì điều này phần nào còn hạn chế về tính khách quan trong quá trình nhận định, đánh giá.

Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới giáo dục như thế nào?
Gần đây McDonald công bố sẽ xây thêm 25.000 nhà hàng mới, hoạt động hầu như bằng robots và tự động hóa nên có thể cắt giảm hàng trăm ngàn người lao động. Hay mới đây thông tin Foxconn Technology Group, công ty cung cấp linh kiện cho hãng Apple và Samsung, cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng robots.
Do áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0, khi đó nhiều lĩnh vực công nghiệp được tự động hóa thay thế con người và các yêu cầu về kỹ năng của người lao động sẽ cao. Khi đó nếu người lao động không nâng cao năng lực, kỹ năng để thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất thì bị loại khỏi thị trường lao động.
Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước đang phát triển trong khu vực và thế giới đều đang phải đối mặt với những thách thức lớn về sự thiếu hụt lao động có trình độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho cuộc CMCN 4.0. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra không chỉ với nền giáo dục (GD) Việt Nam mà của cả thế giới là làm thế nào để đào tạo ra nguồn nhân lực lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới của thế giới.
Phân tích về tính cấp bách và quan trọng của vấn đề này, TS. Nguyễn Đắc Hưng  (Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề - Ban Tuyên giáo Trung ương) cho rằng, muốn hòa nhập vào cuộc CMCN 4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực. Chúng ta cần cải cách hệ thống GD, đào tạo để tạo ra công dân toàn cầu. Do đó, nền GD Việt Nam nói chung và các trường đại học, nơi cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực, lao động sẽ phải đào tạo theo chuẩn GD 4.0 theo hướng bảo đảm khối kiến thức nền tảng vững chắc cho học sinh.

Vậy mường tượng như thế nào về ngành giáo dục trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0?
Ngành giáo dục trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, học sinh tiểu học sẽ không còn phải nghỉ học vì trời quá lạnh, quá nắng hay do bị đau chân không đến lớp được? Công nghệ thực tế ảo sẽ tái hiện toàn bộ không gian của lớp học một cách hoàn toàn sống động và rất thực tế và bé chẳng bỏ lỡ bất kì buổi học nào.
Việc điểm danh tại lớp cũng có thể sử dụng công nghệ thực tế ảo, thầy giáo có thể dạy từ Anh với học trò đến từ khắp các châu lục và vẫn có thể tương tác với nhau như đang ngồi trong cùng một nơi, khoảng cách về địa lý, không gian và thời gian đã bị xóa nhòa.
Công nghệ giúp giờ học sống động và hấp dẫn hơn bằng những đoạn phim tái hiện quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, từ trực quan sinh động sẽ dẫn đến tư duy trừu tượng và rất khó bị quên bài. Điều này vừa đòi hỏi tính tự học của học trò, vừa đòi hỏi các thầy cô giáo tương lai phải nỗ lực áp dụng công nghệ để các giờ học trở nên hấp dẫn.
Từ đầu thế kỷ 21, các tập đoàn công nghệ lớn như Google, Apple đã cho ra đời những thiết bị và phần mềm thông minh phục vụ cho đào tạo, những thiết bị này giúp phát triển tư duy và kích thích sự sáng tạo của người học.
Việc học không còn đơn thuần triển khai trên giấy bút, giờ đây đã có thể thực hiện hoàn toàn trên các thiết bị điện tử. Một trong những đột phá về khoa học công nghệ đó là sự ra đời và phát triển của các thiết bị thông minh như smartphone, SmartTV, con người được tận hưởng những tiện ích của kỷ nguyên Internet vừa góp phần thỏa mãn nhu cầu giải trí vừa giúp tăng năng suất xử lý công việc.
Giáo viên tương lai sẽ phải dạy trẻ tự học, tự tiến bộ, tự tư duy. Điều đáng nói, phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp, mà là giá trị mỗi người tạo ra cho xã hội. Sự cạnh tranh sẽ không còn từ quốc gia này với quốc gia nọ, mà các công dân trên toàn cầu thi đua mọi nơi mọi lúc. Chúng ta không phải chỉ cần đào tạo ra những cán bộ kế toán, cán bộ tài chính – ngân hàng, kỹ sư xây dựng… mà phải hướng tới việc đào tạo toàn diện, cung cấp cho xã hội đội ngũ công dân toàn cầu. Người lao động phải có những kỹ năng cần thiết nhằm tạo ra càng nhiều giá trị, tiết kiệm càng nhiều vốn, nguồn lực cho thế giới thì phần thưởng  nhận được sẽ càng lớn. Bên cạnh đó, việc cộng tác và làm việc nhóm trở thành yêu cầu bắt buộc khi chúng ta tham gia càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đòi hỏi một phong cách làm việc kỹ lưỡng, chuyên nghiệp, cẩn mật, có óc tổ chức, tư duy thương thảo mỗi lúc, khả năng truyền thông tuyệt vời trong nhiều ngoại ngữ, khả năng giải quyết mâu thuẫn, thậm chí xung đột từ xa… Sẽ không có chỗ cho việc làm tạm bợ, không hiểu hoặc không tôn trọng luật pháp tại nhiều quốc gia; sẽ đòi hỏi một phông văn hóa cao để dễ tìm nguồn thông cảm giữa các chủng tộc, đạo giáo. Đồng thời, hàng trăm ngàn tấm bằng tiến sĩ, thạc sĩ sẽ nằm yên trong tủ, không còn là tấm hộ chiếu cho bất kỳ một chức vị nào.

Để bắt kịp kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, Giáo dục Việt Nam cần phải làm gì?
Ngành giáo dục Việt Nam hiện nay mới đang dừng lại ở mức độ "tìm hiểu" và "truyền tai nhau" về cách mạng công nghiệp 4.0 mà chưa có hành động hay chiến lược cụ thể nào cho tiến trình công nghệ hóa giáo dục sắp tới.
Xét về thực trạng giáo dục trong nước, dù đã có nhiều cuộc hội thảo thu hút các nhà nghiên cứu và giới làm ăn, đó là dịp tiếp cận với khái niệm “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (cách mạng công nghiệp 4.0) đang diễn ra với tốc độ nhanh và hiệu suất cao. Thế nhưng có vẻ như ngành giáo dục với chức năng đào tạo nhân lực đáp ứng chiến lược phát triển của đất nước lại chưa cho thấy một sự quan tâm đến đề tài này, chưa có một cuộc hội thảo nào được tổ chức với quy mô lớn để bàn về một vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm của mình. Điều đáng quan tâm là đầu ra của ngành giáo dục chính là đào tạo lao động cho xã hội – với nhu cầu ngày càng thay đổi chóng mặt. Nếu giáo dục Việt Nam không kịp thời và nhanh chóng có những cải cách căn bản, toàn bộ lao động chúng ta đào tạo ra sẽ trở nên lỗi thời, không có khả năng bắt kịp sự phát triển vũ bão của nền sản xuất – thương mại – dịch vụ của thế giới.
Các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Oxford đã lượng hóa tác động của đổi mới công nghệ với tình trạng thất nghiệp bằng cách xếp hạng 702 ngành nghề khác nhau bị nguy cơ tự động hóa đe dọa từ ít nhất đến nhiều nhất, đây là một tham khảo quý giá cho các nhà làm chính sách và chuyên gia ngành giáo dục. Theo đó:
- Những ngành có khả năng tự động hóa nhất gồm: điện thoại viên, người khai thuế, các viên chức trong lĩnh vực thể thao, thư ký và trợ lý hành chính, tiếp viên hàng không, nhà hàng và quán cà phê, môi giới bất động sản, nhà thầu lao động, người đưa thư.
- Những ngành nghề ít khả năng tự động hóa gồm: nhân viên xã hội và chăm sóc bệnh nhân, thầy thuốc và bác sĩ phẫu thuật, nhà tâm lý học, quản lý nhân sự, phân tích hệ thống máy tính, biên đạo múa, nhân chủng học, khảo cổ học, kiến trúc sư, quản lý bán hàng, giám đốc điều hành.
Danh sách này rất dài và có ích để tham khảo, cho thấy trong điều kiện của cách mạng công nghiệp 4.0 thì khả năng dự đoán xu hướng việc làm và nhu cầu kiến thức là vô cùng quan trọng, đó cũng là bài toán đặt ra cho hệ thống giáo dục của bất cứ nước nào, nhất là các nước đang đi tìm một mô hình phát triển phù hợp với hoàn cảnh như chúng ta.






Giải pháp để nâng cao chất lượng nhân lực của Việt Nam chính là phải thay đổi tư duy quá trình dạy và học trong các nhà trường
Theo TS. Nguyễn Đắc Hưng, chúng ta cần định vị một cách cụ thể cách thức, phương pháp của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, sự thay đổi về quan niệm, tư duy của quá trình dạy và học là một trong những yếu tố then chốt để tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện nền GD nói chung và đổi mới theo hướng GD 4.0 nói riêng.
Đối với quá trình dạy, cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học hay là tổ chức một nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng GD nhân cách nói chung sang kết hợp GD nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực.
Còn với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học chỉ trong sách vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án. Đặc biệt, với học sinh, sinh viên là người lao động trong tương lai cần thay đổi suy nghĩ học một lần cho cả đời bằng việc học cả đời để làm việc cả đời.
Như vậy, nền GD cần chuyển đổi cách thức GD từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Trên cơ sở đó chương trình GD phổ thông mới cần xác định các chuẩn năng lực chung và năng lực chuyên môn; các hình thức tích hợp hoặc phân hóa trong chương trình dạy học tùy theo cấp học.
Tức là phương pháp GD cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc tổ chức GD qua Internet. Qua đó, hình thức GD sẽ linh hoạt về thời gian, không gian, phù hợp với điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển E-learning hay sử dụng ứng dụng công nghệ điện toán đám mây cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu học tập cho người học và thu thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía người học một cách liên tục và linh hoạt.
Đối với lĩnh vực GD đại học, nơi đào tạo trực tiếp nguồn nhân lực cho cuộc CMCN 4.0 thì cần phải nhanh chóng đổi mới mô hình, chương trình và phương thức đào tạo, từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng, nhất là đánh giá sinh viên tốt nghiệp.




2.1. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

Cuộc cách mạng công nghệ mới hiện nay tạo ra những cơ hội ngang nhau trên phạm vi toàn cầu. Điều quan trọng nhất là ai nắm bắt được cơ hội sớm thì sẽ thành công cao hơn. Vì vậy, chúng ta cần hiểu doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có nhu cầu như thế nào thì sinh viên sẽ hướng tới tìm học những nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Các trường Đại học, Cao đẳng không đáp ứng được nhu cầu thị trường của kỷ nguyên Công nghiệp 4.0 sẽ không có sinh viên. Việc đào tạo của ngành giáo dục hiện nay cần hướng đến cả các mục tiêu trước mắt và lâu dài, đào tạo nhân lực theo hai hướng, một là đáp ứng yêu cầu của các nhà máy, các công ty công nghiệp, hai là phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp– thế mạnh của Việt Nam hiện nay theo hướng áp dụng công nghệ cao.
Việc giáo dục ở bậc THCS và THPT cũng không được đứng ngoài cuộc cách mạng công nghiệp, giáo dục phải là công cụ giải phóng người học, không trói buộc họ vào những môn học nào đó, kiểu như triết học, lịch sử, văn chương, âm nhạc, nghệ thuật, và những môn được gọi là “khoa học nhân văn” khác. Giáo dục phổ thông thời đại 4.0 cần tìm cách để phát triển những con người tự do biết cách sử dụng trí tuệ của mình và có thể độc lập suy nghĩ. Mục đích hàng đầu của nó không phải là phát triển khả năng chuyên môn, mặc dù nó là không thể thiếu được đối với bất kỳ một nghề chuyên môn về đầu óc nào...
Vấn đề giáo dục là làm thế nào để sản sinh ra những con người tự do, chứ không phải những nhà kỹ thuật được đào tạo mà không có tri thức. Và giáo dục hiện đại phải loại trừ việc chỉ đơn thuần đào tạo kỹ thuật và ngành nghề.
Mặc dù hiện nay CTGDPT tổng thể đã được công bố và các trường sư phạm đã bám sát tư tưởng, những định hướng cơ bản ban đầu của chương trình, những điểm mới trong tư tưởng đổi mới đã và đang triển khai trong thực tiễn. Các trường đã chủ động vào cuộc, thay đổi phương thức đào tạo giáo viên.

 

2.2. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Thời đại đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ liệu. Đây cũng là những kỹ năng mà sinh viên Việt Nam đang thiếu nhiều nhất. Để giải quyết vấn đề này, GD 4.0 sẽ là một trong những giải pháp hiệu quả mà GD đại học cần triển khai.
Theo GS.TS Vương Thanh Sơn, Đại học British Columbia (Canada), trường đại học là nơi dẫn dắt tư duy và tạo động lực cho sinh viên cùng kết nối với thị trường và doanh nghiệp. Ngược lại, một doanh nghiệp tích cực vừa là thị trường và cũng vừa là đối tác hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu trong xu hướng cách mạng 4.0.
Chính vì vậy, Việt Nam nên nhanh chóng thử nghiệm và triển khai mô hình đại học (ĐH) thông minh 4.0 trong những dự án thí điểm. Cụ thể là xây dựng những công cụ thông minh, gồm cả công cụ quản lý đại học và săn sóc sinh viên dựa trên thẻ thông minh, phần mềm trí tuệ nhân tạo, bản địa hóa kho tài liệu học và đẩy mạnh liên kết quốc tế.
Mỗi trường ĐH nên có 1 trung tâm hay 1 ban dự án về GD 4.0 nhằm chuẩn bị chủ động đối phó với thách thức và nắm bắt kịp thời cơ hội mà CMCN 4.0 đưa đến, đặc biệt là cơ hội khởi nghiệp cho doanh nghiệp xã hội. Bởi vì, cải cách theo hướng GD 4.0 mới đáp ứng nhu cầu và tính cạnh tranh cao của nguồn nhân lực cho xã hội và đó mới là xu hướng của thời đại toàn cầu.
Tuy nhiên, theo GS.TS Vương Thanh Sơn, mặc dù rất cấp thiết nhưng ngành GD cũng như các trường đại học không nên quá vội vàng, vấp váp chạy theo xu hướng bên ngoài mà nên có lộ trình để tìm hiểu, đánh giá và áp dụng một cách đồng nhịp, phù hợp với thực tế và bối cảnh của kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Phân tích cụ thể hơn về mô hình của quá trình đổi mới GD theo hướng GD 4.0, TS. Nguyễn Đắc Hưng chỉ rõ, CMCN 4.0 sẽ đặt các trường ĐH đứng trước thách thức rất lớn, cạnh tranh nguồn lực chất lượng cao không chỉ trong nước mà nó còn mang tính toàn cầu. Người lao động lúc này phải có tư duy sáng tạo, có khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi liên tục trong thị trường lao động trong nước, khu vực và quốc tế, tránh nguy cơ bị mất việc làm.
Do đó, để có được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thị trường, các trường ĐH cần giảng dạy những kiến thức tích hợp giữa nhiều kiến thức, đồng thời rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, tự học, biết cách tìm hiểu và tra cứu tài liệu, biết cách xử lý thông tin để trở thành tri thức của mình.
Cụ thể, cần áp dụng mô hình GD mới như phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo, phòng thí nghiệm, thư viện ảo… dưới sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh; tạo điều kiện và yêu cầu sinh viên từ năm thứ 3 phải tham gia các nhóm nghiên cứu, và các đề tài này phải gắn liền với giải quyết một vấn đề cụ thể trong chuyên môn, hoặc hoặc trong đời sống kinh tế, xã hội...
Cách tốt nhất là các trường ĐH nên liên danh với DN lớn để hình thành mô hình ĐH mới - ĐH doanh nghiệp.Thay đổi từ chỗ “dạy những gì giới học thuật sẵn có” sang cách “dạy những gì thị trường cần, DN cần”, hoặc thậm chí xa hơn là “dạy những gì thị trường và DN sẽ cần”.
Về mặt quản lý, các cơ sở GD cần chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ chức và hoạt động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngoài, mở rộng các hoạt động đầu tư liên danh, liên kết trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu khoa học. Gỡ bỏ các rào cản để hướng sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào GD đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước.

 

2.3. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP

Theo Thạc sĩ Lâm Văn Quản, với phương pháp, tư duy đào tạo hiện nay, giáo dục nghề nghiệp mới chỉ thiên về lý thuyết mà chưa chú trọng đến lao động thực hành của người học. Vì vậy, những kiến thức, kỹ năng học sinh, sinh viên học được chưa đáp ứng yêu cầu công việc theo nền tảng kinh tế của cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 và không thể ứng dụng vào làm việc trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Cùng quan điểm, ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, điểm yếu của lao động Việt Nam hiện nay, kể cả lao động đã qua đào tạo nghề là kỹ năng, ngoại ngữ và tác phong làm việc công nghiệp. Trong khi đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm giảm nhu cầu lao động ở các nhóm ngành thâm dụng lao động và tạo ra nhiều việc làm ở các ngành nghề đòi hỏi trình độ tư duy, sáng tạo cao như công nghệ thông tin, thiết kế, hóa học...
Theo Tiến sỹ Nguyễn Thành Nam, Hiệu trưởng trường Đại học trực tuyến FUNiX, cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhiều thách thức nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện để con người đổi mới tư duy và phương pháp đào tạo, học tập thông qua kết nối các thiết bị thông minh, các lớp học ảo, lớp học trực tuyến… Trong bối cảnh khoa học, công nghệ thay đổi từng giây thì việc giáo dục nghề nghiệp cũng phải đạt những chuẩn mực chung nhất định. Bên cạnh những môn học mang tính đặc thù của từng ngành thì tất cả lao động cần được trang bị những kiến thức, kỹ năng căn bản như làm chủ các thiết bị công nghệ và mạng internet; kỹ năng giao tiếp, giải quyết các tình huống thực tế trong lao động, sản xuất.
Như vậy, trong cuộc cách mạng 4.0, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa chất lượng cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động. Khi tự động hóa thay thế con người trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, người lao động chắc chắn sẽ phải thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa, bị thất nghiệp. Theo một số dự báo, trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của Robot, số lượng nhân viên sẽ giảm đi 1/10 so với hiện nay. Như vậy, 9/10 nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Cuối năm 2015, Ngân hàng Anh Quốc đưa ra một dự báo: sẽ có khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc trong vòng 10 -20 năm tới chỉ riêng tại Mỹ và Anh - tương đương 50% lực lượng lao động tại hai nước này và ở các quốc gia khác cũng sẽ có tình trạng tương tự. Hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay thế vào đó là những nghề nghiệp mới. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có kỹ năng thấp và nhóm lao động có kỹ năng cao. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung (trung cấp, cao đẳng) cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0.
Những sự thay đổi này của sản xuất và cơ cấu nhân lực trong thị trường lao động tương lai, đặt ra nhiều vấn đề đối với giáo dục nghề nghiệp, đó là:
- Thứ nhất, để đáp ứng được nhu cầu nhân lực có chất lượng cao và đa dạng ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế 4.0, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới mạnh mẽ từ hoạt động đào tạo đến quản trị nhà trường để tạo ra những “sản phẩm”- người lao động tương lai có năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh.. Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến TTLĐ thì các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nơi cung cấp nhân lực kỹ thuật chủ yếu cho nền kinh tế, vẫn đào tạo theo cách đã cũ. Học sinh, sinh viên với các kiến thức, kỹ năng đang được dạy trong nhà trường hiện nay còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế 3.0 hiện tại, có thể hoàn toàn không hữu dụng với nền kinh tế 4.0 hoặc đang dễ dàng bị robot thay thế trong tương lai gần.
- Thứ hai, để đáp ứng nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là phương thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện đảm bảo cho sự thay đổi này vẫn còn hạn chế. Hiện nay, ở đa số các các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, sự đổi mới phương thức và phương pháp dạy và học còn khá chậm trễ; hạ tầng CNTT còn lạc hậu (ngoại trừ một số cơ sở được đầu tư thành trường chất lượng cao) và không đồng bộ. Trong một số năm gần đây, trong khuôn khổ của chương trình MTQG, ngành dạy nghề đã triển khai các hoạt động của dự án ứng dụng CNTT trong quản lý, hoạt động dạy và học nghề. Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dạy nghề được thiết kế, xây dựng cho phép thu thập, xử lý, cập nhật, đồng bộ thông tin dữ liệu về dạy nghề trên toàn quốc và hỗ trợ công tác tìm kiếm, thống kê, báo cáo, phân tích dự báo phục vụ cho công tác điều hành, quản lý về dạy nghề từ Trung ương đến bộ, ngành, địa phương, CSDN trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, kết quả của dự án còn hạn chế, do mới chỉ đẩu tư lắp đặt hạ tầng đồng bộ cho 26 trường CĐN. Bên cạnh đó, , hiện nay Tổng cục dạy nghề đang triển khai thí điểm số hóa bài giảng, mô phỏng thực hành nghề để hình thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện tử nhằm hiện đại hóa công tác dạy và học nghề, tiến tới hình thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện điện tử, tài nguyên xây dựng bài giảng điện tử hỗ trợ cho công tác giảng dạy các nghề.
- Thứ ba, sự thay đổi trong quản trị nhà trường.. Đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp trong tương lai. Điều này tác động đến bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Đội ngũ này phải được chuyên nghiệp hóa và có khả năng sáng tạo cao, có phương pháp đào tạo hiện đại với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT và điều này dẫn đến sự thay đổi về quy mô và cơ cấu giáo viên (cả về trình độ và kỹ năng), sẽ xuất hiện hiện tượng thừa và thiếu nhân lực.
- Thứ tư, song song với việc nâng cao chất lượng “máy cái”, đổi mới mô hình nhà trường là giải pháp rất cần thiết. Cần chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần” và hướng tới chỉ đào tạo “những gì thị trường sẽ cần”.Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp là yêu cầu được đặt ra; đồng thời, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để chia sẻ các nguồn lực chung: cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực, quan trọng hơn là rút ngắn thời gian chuyển giao từ kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp; giữa đào tạo và sử dụng nhân lực qua đào tạo vẫn còn rất ‘lỏng lẻo, chưa trở thành “trách nhiệm xã hội” của các doanh nghiệp.
- Thứ năm, vấn đề đổi mới quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở đối với giáo dục nghề nghiệp. Với sự xuất hiện ở những lớp học ảo, nghề ảo, chương trình ảo, và những yêu cầu của thị trường lao động với những kỹ năng sáng tạo mới, đòi hỏi có sự quản lý chung để một mặt hướng tới sự đảm bảo “mặt bằng” chất lượng; mặt khác, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế sáng tạo và cạnh tranh. Tuy nhiên, điều này cũng đang là vấn đề của công tác quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở, khi hệ thống cơ sở pháp lý đang trong quá trình bổ sung, hoàn thiện. Mặt khác, về mặt quản lý, sự chưa đồng bộ; sự chưa rạch ròi giữa các chức năng QLNN và quản trị nhà trường là những hạn chế đã được chỉ ra và gần đây mới bước đầu được khắc phục.
Từ những vấn đề nêu trên, để nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế sáng tạo, trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, theo chúng tôi, cần thực hiện những giải pháp sau:
(1) Đổi mới về cơ chế chính sách
- Hoàn thiện các cơ chế chính sách, phù hợp với thực tiễn đối với đội ngũ nhà giáo, người học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, người lao động trước khi tham gia TTLĐ, doanh nghiệp tham gia đào tạo; hoàn thiện các cơ chế chính sách về phân bổ và sử dụng tài chính trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Trong đó, đối với nhà giáo, cần xây dựng các chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm ở các cấp trình độ, kỹ năng ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng. Đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo giáo dục nghề nghiệp. Đổi mới chính sách tiền lương đối với giáo viên giáo dục nghề nghiệp phù hợp để thu hút người có kiến thức kỹ năng làm nhà giáo giáo dục nghề nghiệp.
- Đổi mới cơ chế, chính sách đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Tăng cường tình tự chủ trong hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường đối với các cơ sơ giáo dục nghề nghiệp, nhằm tạo sự linh hoạt thích ứng với sự thay đổi của KH-CN và yêu cầu của TTLĐ. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự chịu trách nhiệm về phát triển đổi ngũ theo hướng tinh gọn, năng động, có khả năng làm việc trong môi trường cạnh tranh cao.
(2) Đổi mới quản lý giáo dục nghề nghiệp, ứng dụng CNTT trong quản lý
- Cần hoàn thiện cơ chế, bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, gắn với trách nhiệm; giảm dần sự can thiệp của các cơ quan chủ quản vào các hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường; chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ quản lý giáo dục nghề nghiệp ở các cấp, nhất là ở cấp địa phương; tăng cường các công cụ quản lý.
- Ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong công tác quản lý giáo dục nghề nghiệp; đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục nghề nghiệp; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục nghề nghiệp.
- Hiện đại hóa hạ tầng CNTT trong toàn bộ hệ thống, từ trung ương tới địa phương phục vụ công tác quản lý và điều hành lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu; trung tâm quản lý, điều hành tổng thể về giáo dục nghề nghiệp; đầu tư các thiết bị, hệ thống thông tin quản lý; ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý dạy, học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Xây dựng thư viện điện tử, hệ thống đào tạo trực tuyến; khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị ảo mô phỏng, thiết bị thực tế ảo, thiết bị dạy học thuật và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong dạy học cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Triển khai các hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực và nhu cầu đào tạo theo cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo từng giai đoạn.
(3) Đổi mới hoạt động đào tạo
- Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người học, người sử dụng lao động và môi trường làm việc (bao gồm cả môi trường làm việc ảo), đòi hỏi các hoạt động đào tạo phải thay đổi căn bản. Sẽ không còn khái niệm đào tạo theo niên chế và không gian đào tạo cũng sẽ thay đổi. Chương trình đào tạo phải được thiết kế linh hoạt, một mặt đáp ứng chuẩn đầu ra của nghề; mặt khác, tạo sự liên thông giữa các trình độ trong một nghề và giữa các nghề.
- Trong môi trường 4.0, phương pháp đào tạo cần phải thay đổi căn bản trên cơ sở lấy người học làm trung tâm và sự ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng và truyền đạt bài giảng. Cùng với đó là sự đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra trong giáo dục nghề nghiệp theo hướng đáp ứng năng lực làm việc và tính sáng tạo của người học.
(4) Nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp
- Để đáp ứng yêu cầu đào tạo trong môi trường mới, đội ngũ giáo viên giáo dục nghề nghiệp phải có những năng lực mới, năng lực sáng tạo và do đó đòi hỏi phải có những phẩm chất mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua các hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng sư phạm và những kỹ năng mềm cần thiết khác.
- Đổi mới chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo về nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề trên cơ sở chuẩn nhà giáo giáo dục nghề nghiệp.
- Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề cho đội ngũ giáo viên giáo dục nghề nghiệp ở nước ngoài và các chương trình tiên tiến ở trong nước.
- Đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp, cũng cần được chuẩn hóa, trên cơ sở chức danh nghề nghiệp, gắn với vị trí việc làm. Đội ngũ này phải có đủ năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm. Do vậy, cần tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cả trong nước và ngoài nước để đáp ứng được yêu cầu công việc. Đồng thời có cơ chế sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ và hiệu quả công tác.
(5) Phát triển đào tạo tại doanh nghiệp và gắn kết với doanh nghiêp trong hoạt động đào tạo
Như trên đã phân tích, trong môi trường 4.0, các hoạt động đào tạo cần phải được gắn kết với doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển khai. Vì vậy, một mặt đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp. Mặt khác, tăng cường việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp, trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng tới doanh nghiệp thực sự là “cánh tay nối dài” trong hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhằm sử dụng có hiệu quả trang thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học trong quá trình đào tạo và thực tập tại doanh nghiệp.
(6) Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ
- Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu công nghệ, phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý đào tạo.
- Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở. Chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác người - máy.
- Tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm với các Viện nghiên cứu giáo dục nghề nghiệp ở một số nước. Hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp giữa các Viện, trường trong nước với các Viện, trường nước ngoài ở các nước tiên tiến như Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc và các nước trong ASEAN và Châu Á khác.
(7) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp
- Tăng cường các hoạt dộng hợp tác đa phương, song phương trong các lĩnh vực của giáo dục nghề nghiệp như nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý; quản trị nhà trường…
- Tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý và xã hội để các nhà đầu tư nước ngoài mở cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao tại Việt Nam; thực hiện liên kết, hợp tác tổ chức đào tạo nghề nghiệp.

 

2.4. CMCN 4.0 ẢNH HƯỞNG TỚI GIÁO VIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG

Các hiệu ứng cơ bản của môi trường số hóa đối với quá trình dạy-học:
- Cải tiến chất lượng làm việc của trò và thực hành thông qua nghe nhìn;
- Cải tiến kỹ năng viết tay và ngôn ngữ qua xử lý từ ngữ;
- Thúc đẩy tốc độ riêng để nâng cao năng lực học cá nhân khi sinh viên có thể theo kịp tiến độ và học tăng cường phù hợp với nhu cầu của họ.
- Giúp học hợp tác với chỉ dẫn đôi chút cho đối tượng người học cá biệt;
- Khuyến khích kèm cặp và kiểm tra theo cặp đôi đồng nghiệp;
- Phát triển kỹ năng giao tiếp và nhận thức của đối tượng nghe;
- Tác động đến việc học dựa vào nguồn lực truy cập thông tin qua trang Website;
- Tăng cường thông tin liên tục, bổ sung chuẩn xác vào độ xác thực của nhiệm vụ học tập và thông tin nâng cao;
- Gia tăng động cơ người học qua hoạt động thực tế, nghe nhìn trực quan và cải tiến lối trình bày diễn đạt;
- Thúc đẩy học độc lập và những ưa thích cá nhân để xử lý, phác thảo, cách thiết kế bài giảng;
- Trang bị cho người học cách tự kiểm soát;
- Để cho người học tự làm ra sản phẩm đa phương tiện chất lượng cao;
- Thay đổi thực hành công cụ lập kế hoạch, chuyên mục đánh giá của giáo viên;
- Tăng cường cơ hội học nâng cao, kinh nghiệm cho học viên có kết quả học tập;
- Truyền cảm hứng để sinh viên cam kết học và đóng góp vào hoạt động học tập;
- Phát triển tư duy của sinh viên ở bậc cao hơn: năng lực ứng dụng kiến thức và kỹ năng phân tích vấn đề thách thức, nắm bắt khái niệm rộng, đưa ra ý tưởng và giải pháp mới.
Trong kỷ nguyên số hóa người thầy làm việc ở cơ sở giáo dục Đại học phải hiểu được sự khác nhau giữa “học về” và “học để”; phải thực hiện cái “học để” nhằm đạt kết quả đầu ra hiệu suất trong sinh viên. 
Việc lôi cuốn đúng đắn người học đảm bảo theo ngành môn học nhằm mục đích “học để”, nghĩa là, nếu sinh viên được tuyển vào chương trình đào tạo sư phạm thì họ phải bộc lộ được các kỹ năng dạy học. 
Việc ngoại biên số hóa có thể sẵn sàng giúp sinh viên khai thác nội dung làm việc bên ngoài bài giảng dưới dạng số hóa và vai trò người thầy trên quan điểm kỹ thuật dạy học là có quan trọng cốt yếu.
Giáo viên phải tìm ra các phương thức và cấu trúc hỗ trợ sinh viên phát triển các kỹ năng học tương tác, học cộng tác và học độc lập với nhau. 
Vai trò giáo viên mở rộng sang nuôi dưỡng lối tư duy phê phán, óc sáng tạo và nhiệt tình khoa học trong sinh viên để làm cho họ trở thành người biết cách tự học và tự đổi mới suốt đời.
Ví dụ, giáo viên trong hệ thống giáo dục Đại học Indiana, Hoa Kỳ, họ đều quản lý các công nghệ, phương tiện có sẵn để dạy học hiệu suất - phòng thí nghiệm ảo, nguồn lực điện toán từ Chương trình quốc gia học tập theo công nghệ tiên tiến (NPTEL) với sứ mệnh quốc gia về Giáo dục bằng ICT (NME-ICT), nguồn lực giáo dục mở, giáo dục qua mobile,…
Thầy giáo được trang bị lệnh kỹ thuật số để nuôi dưỡng tư duy phê phán, óc sáng tạo và nhiệt tình khoa học cho sinh viên trở thành tự học và tự đổi mới suốt đời. 
Theo khuyến nghị của các chuyên gia quốc tế, vai trò giáo viên trong thế kỉ XXI trở nên phức tạp ở một thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu như vô tận. Dạy học phân hóa là quan điểm phải được quan tâm đặc biệt. Người thầy phải quan tâm đến từng người, nhu cầu họ rất khác nhau trong lớp học không đồng nhất, nhiệm vụ chính của giáo viên là tạo môi trường học tập, tạo điều kiện để họ có cơ hội học tập theo phương pháp tích cực và sáng tạo.
Các trường đại học, trong đó các trường sư phạm đang đối diện nhiều cơ hội và thách thức to lớn. Sự biến đổi lớn về vai trò người dạy - truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối, họ phải chuyển sang chức năng hướng dẫn người học.
Trong xã hội thông tin, giảng viên phải giúp sinh viên điều chỉnh định hướng về chất lượng và ý nghĩa của nguồn thông tin, phải là nhà giáo dục chuyên nghiệp có đầu óc sáng tạo, biết phê phán, tư duy độc lập, năng lực hợp tác tích cực và hỗ trợ có hiệu quả giữa người học với những gì họ muốn biết, là người cung cấp cách hiểu mới cho người học.
Kĩ năng quan trọng nhất là kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo và xóa mù thông tin. Cách dạy cũ không thể tạo ra những công dân thích hợp cho thế kỉ XXI –những công dân toàn cầu. Vậy vai trò của người thầy sẽ là gì để giúp cho chính họ và sinh viên điều chỉnh những thay đổi xã hội?
Chúng ta đào tạo giáo viên là chuyên gia truyền đạt kiến thức hay chuyên gia giáo dục? Người ta đã bắt đầu quan tâm đến câu hỏi của người học: đến trường để làm gì nếu không có gì mới hơn sách điện tử, công nghệ dạy học được trang bị đầy đủ với không gian rộng hơn rất nhiều lớp học và vô số ‘ông thầy” ngoài người thầy (là duy nhất) trong lớp học kiểu cũ; đối tượng giao tiếp sẽ lớn hơn rất nhiều so với số lượng bạn bè trong lớp học…
Quan niệm “đến trường” là “đi học”, không đến trường là "không đi học" hình như đã tỏ ra lạc hậu trong kỉ nguyên mới. Đương nhiên, chức năng định hướng và dẫn dắt của nhà trường không thay đổi nhưng không thể thực hiện theo mô hình dạy học cũ. Cần xác định lại vai trò người thầy trong học tập kết nối mạng.
Người thầy đóng vai trò chủ chốt trong đào tạo ra kho chứa hoàn chỉnh gồm học thuật hỗ trợ tâm lý con người và tâm lý xã hội, các dịch vụ hướng dẫn (tư vấn, cố vấn và hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn) để cung cấp cho sinh viên. 
Người thầy bắt buộc phải sử dụng nguồn lực thư viện điện tử để gia tăng quá trình dạy-học. Đó là chức năng sống còn của người thầy am hiểu công nghệ nhằm trao quyền và cho phép bản thân họ cũng như học trò sử dụng công cụ và công nghệ khác nhau để cải tiến dạy-học. 
Họ phải mài sắc kỹ năng của mình trên quan điểm, phương pháp dạy-học có tính cạnh tranh với công nghệ số. 
Việc quản lý nội dung và kiến thức là tài khéo tay biết xoay sở chủ yếu để giáo viên tồn tại trong môi trường số. Họ phải chọn lựa, phát triển và làm giàu tư liệu dạy-học với cấu trúc số hóa theo phương thức ở bất kỳ mọi nơi, mọi lúc. 
Giờ đây vai trò người thầy đã thay đổi nhờ nâng cao công nghệ, và việc đánh giá học tập của sinh viên đã vượt ra ngoài 4 bức tường lớp học. 
Một khi sinh viên lấy được thông tin và tri thức qua cửa sổ kỹ thuật số, thì việc đánh giá họ sẽ phải được thiết kế bằng chính hình thức đó. Ở đây vai trò người thầy là cộng tác với sinh viên cũng như các cố vấn và giáo viên khác trên thế giới.
Cuối cùng, chúng ta cần nhớ rằng không cần thiết và không thể nào nắm giữ được mọi thông tin trong cuộc sống hàng ngày, nhưng luôn phải sẵn sàng chia sẻ và tham gia. 
Shah (1) đã nói rằng một khi người thầy và sách giáo khoa bị thay thế bằng nguồn lực số cho học tập, có nhiều ý định cố gắng mở rộng quy mô thông tin và thư mục của người thầy với niềm tin rằng bảng thông minh và kết nối số lớp học là một giải pháp. 
Tuy nhiên, điều rõ ràng là bất kỳ ai có khả năng nghe dư luận dân chúng đều thấy là chúng ta cần đánh giá lại vai trò của người giáo viên, kết cấu lại các hệ thống giáo dục của chúng ta, không phải cứ đi làm những bắt chước lu mờ trong lớp học cũ rích, một khi chúng ta nhìn thấy sự đi lên của phần mềm dạy học online đại chúng. 
Chúng ta không nên làm kinh hoàng hay chém gió việc học tập. Cái chúng ta cần làm là đưa sự tự xem xét nội tâm vào vai trò giáo viên, không cạnh tranh với Internet, mà giúp sinh viên học, tư duy, phản ánh và thực thi kiến thức của họ, một khi họ hợp tác là có “học trên Internet“. 
Cải cách, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm
Thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức do toàn cầu hoá, số hóa và ICT. Không còn cách nào khác là phải tiến hành cải cách triệt để đổi mới sư phạm. 
Do vậy, cần đề xuất các giải pháp mới, thiết thực và hữu hiệu trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm nhằm thực sự nâng cao vai trò, vị thế của ngành sư phạm trong công cuộc đổi mới giáo dục. 
Một thuận lợi lớn là ngành sư phạm được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu; Đảng luôn đánh giá cao vai trò người thầy trên mặt trận giáo dục; Đảng luôn chỉ đạo kịp thời, sắc bén và ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và hợp lý. 
Vào tháng 10/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI thông qua Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, nhấn mạnh: “Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại” (2). 
Đội ngũ giảng viên các trường sư phạm ngày càng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, thầy cô giáo vốn yêu nghề tha thiết, luôn coi trọng tri thức, chăm lo dìu dắt thế hệ trẻ, lấy dạy chữ, dạy người làm lẽ sống của mình, luôn coi trọng danh dự, lương tâm, giữ khí tiết, tài năng, đức độ, học vấn và thái độ tận tụy cống hiến.
Tuy nhiên, chúng ta đang đương đầu với khó khăn, thách thức không nhỏ của toàn cầu hóa, quốc tế hóa và cách mạng số.
Trong kỷ nguyên số hóa này, bên cạnh cơ hội tích cực là những thách thức có tác động sâu sắc đến giáo dục và đào tạo, mà trước hết là đào tạo giáo viên. 
Hiện nay, các trường sư phạm đang đứng trước một số khó khăn như: Sức ì trong nhận thức của giảng viên và cán bộ quản lý do quán tính cũ trong thời gian dài; Nguồn lực vật chất và tài chính còn hạn hẹp; Chưa tuyển được người có năng lực phù hợp vào học sư phạm; Cùng với đó là vấn đề giải quyết việc làm cho sinh viên sư phạm sau khi ra trường đang ngày một gay gắt... 
Nguyên nhân sâu xa là do xã hội thiếu tin tưởng vào đội ngũ giáo viên, nhà trường và công tác quản lý giáo dục của các cấp. Ngay giữa các Đại học, Cao đẳng sư phạm cũng nảy sinh nhiều xáo trộn. Hầu hết các trường sư nhỏ lẻ, manh mún và thiếu liên kết hệ thống địa phương tới trung ương. 
Số lượng trường sư phạm quá nhiều: 63 tỉnh thành đều có cao đẳng sư phạm, trong khi đại học sư phạm lại đang ở tình trạng đứng ở ngã ba đường. Có một số đại học sư phạm chuyển sang đa ngành như Đại học sư phạm Vinh, Quy Nhơn, Hải Phòng…; Đại học Quốc gia Hà Nội có riêng trường Khoa học Giáo dục nhưng cũng tham gia đào tạo giáo viên. Các khoa sư phạm trong các đại học đa ngành hay chuyên ngành mười năm trước cũng “trăm hoa đua nở ” ở các trường thuộc nhiều bộ ngành khác. 
Một số tỉnh có cả đại học sư phạm lẫn cao đẳng sư phạm cùng thực hiện nhiệm vụ đào tạo giáo viên phổ thông. 
Tình hình trên dẫn đến chồng chéo, liên kết lỏng lẻo mang tính chất tự phát, hỗn độn của toàn ngành sư phạm. Sự phát triển này không có định hướng rõ và quy hoạch hệ thống tổng thể. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng giáo dục thấp, và tất nhiên làm hạn chế chất lượng đội ngũ thầy giáo.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, ICT hóa và số hóa của nền kinh tế 4.0, các trường sư phạm phải nhanh chóng đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp dạy-học, phương thức đánh giá kết quả đầu ra sinh viên, bồi dưỡng giáo viên theo hướng thực học, thực nghiệp và định hướng vào công nghệ. 
Cần đầu tư nhiều hơn về công nghệ giáo dục tiên tiến, áp dụng đào tạo online, kết nối mạng để bồi dưỡng năng lực nghề sư phạm cho sinh viên, giáo viên, giáo sinh tập sự trong hệ thống nối mạng thống nhất trong toàn quốc và trên toàn cầu. Chỉ có như vậy mới có thể tiếp tục đổi mới giải pháp chiến lược quốc gia cho đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. 
Các trường sư phạm phải gắn với thực tiễn dạy-học ở phổ thông; Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy- học tiên tiến; kiện toàn công tác quản lý nhà giáo, nhà trường; nâng cao đãi ngộ người thầy có trình độ, am hiểu ứng dụng công nghệ; 
Và tăng cường hội nhập quốc tế, hợp tác với các cơ sở đào tạo sư phạm hàng đầu trên thế giới và trong khu vực; Tôn vinh nghề dạy học đi đôi với đề cao đổi mới vai trò người thầy; 
Đồng thời, xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút và sử dụng mạnh mẽ các nguồn đầu tư nước ngoài có sẵn cho đào tạo giáo viên nhằm nâng cao năng lực nghề dạy học trong kỷ nguyên số hóa.



 Ngày 14 tháng 8 năm 2017
Bản quyền thuộc trường Đại học Vinh