1. Thi trắc nghiệm hằng tuần:
Người dự thi truy cập vào địa chỉ : Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam: http://vietlao.dangcongsan.vn
Trả lời câu hỏi thi:
Mỗi tuần, Ban Tổ chức Cuộc thi đưa ra 3 câu hỏi. Mỗi câu hỏi thi
có 3 đáp án trả lời trắc nghiệm, trong đó có 1 đáp án đúng. Thao tác như sau:
Điền các thông tin cá nhân (Họ và tên; chứng minh thư nhân dân;
số điện thoại; địa chỉ liên hệ; E-mail...) theo yêu cầu và trả lời các câu hỏi
bằng cách lựa chọn một phương án đúng, sau đó điền vào ô “Dự đoán” số người trả
lời đúng, nhập “Mã xác thực” và bấm vào ô “Trả lời”.
- Thời gian thi trắc nghiệm được tiến hành hàng tuần, bắt đầu từ
ngày 2/5/2017 và kết thúc vào ngày 22/12/2017.
- Thời gian thi mỗi tuần được tính từ 10h00 thứ ba hằng tuần và
kết thúc vào 9h30 thứ ba tuần kế tiếp.
2. Thi viết:
- Bài dự thi của tác giả phải là các tác phẩm chưa được công bố
ở bất kỳ báo, tạp chí, sách.... và phải chuyển tải được một trong các chủ đề
gợi ý của Ban Tổ chức cuộc thi.
- Bài dự thi có thể viết tay hoặc đánh máy, với dung lượng tối
đa 5.000 từ. Khuyến khích đánh
máy và in trên giấy A4, cỡ chữ 14, nếu là tiếng Việt thì sử dụng font chữ Time
New Roman. Có thể sử dụng ảnh để minh họa phong phú thêm bài viết (ghi rõ
nguồn, tên tác giả của ảnh).
- Bài dự thi phải ghi rõ và đầy đủ họ, tên, tuổi (ngày, tháng,
năm sinh), giới tính, nghề nghiệp, thành phần dân tộc, tôn giáo, đơn vị học
tập, công tác, nơi thường trú; số điện thoại liên hệ.
Bài thi
viết nộp về Ban Tuyên giáo Huyện ủy trước
ngày 05/8/2017.
GỢI
Ý
BÀI DỰ THI “TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
BÀI DỰ THI “TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT
NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM"
(Có 12 chủ đề, người
tham gia chọn 1 trong các chủ đề để viết bài, hoặc đánh máy. Nội dung các chủ đề xem ở cuối bài đăng)
CHỦ ĐỀ 2: Phát triển
liên minh chiến đấu, đánh thắng các chiến lược chiến tranh của Đế quốc Mỹ,
giành thắng lợi hoàn toàn (1963-1975).
Sau khi giành lại được chính
quyền, nhân dân hai nước Việt Nam, Lào hơn lúc nào hết, chỉ mong muốn được sống
trong hòa bình, tiếp tục hợp tác, cùng nhau bảo vệ nền độc lập và xây dựng lại
đất nước. Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào –
Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân
Lào - Việt , đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ
và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt - Lào.
Bất chấp nguyện vọng chính
đáng của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, thực dân Pháp ngang nhiên gây chiến
tranh hòng áp đặt lại ách thống trị của chúng ở Đông Dương. Mặc dù Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương luôn nêu cao thiện chí, tìm mọi cách ngăn
chặn chiến tranh, nhưng thực dân Pháp hiếu chiến vẫn lấn tới, quyết chiếm lại
Đông Dương.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945,
thực dân Pháp được sự đồng lõa của quân Anh, nổ súng đánh chiếm thành phố Sài
Gòn. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ của Việt
Nam, sang Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương.
Trước nguy cơ tồn vong nền
độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam – Lào - Campuchia, ngày 25-11-1945, Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống nhất mặt trận Việt- Miên- Lào chống Pháp xâm
lược” và nêu rõ nhiệm vụ: “Tăng cường công tác vũ trang tuyên truyền vận động
quần chúng nhân dân ở thôn quê, làm cho mặt trận kháng Pháp của Lào – Việt lan
rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê, đặng bao vây lại quân Pháp ở nơi
sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào”
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Đảng đã xác định những
nét cơ bản về đường lối, chủ trương kháng chiến chống thực dân Pháp dựa trên cơ
sở liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào – Campuchia.
Theo tinh thần đó, quân và
dân các địa phương vùng giáp ranh biên giới Việt Nam – Lào phối hợp đánh quân
Pháp ở nhiều nơi. Uỷ ban Kháng chiến hành chính và Bộ chỉ huy Chiến khu 4(Việt
Nam) thành lập Ban chỉ huy các mặt trận đường 8, đường 9 và cử một số đơn vị
phối hợp với bộ đội Lào, vừa đánh địch ở Na Pê, Xê Pôn, huyện lỵ Căm Cớt...
,vừa làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân gây dựng cơ sở, lực lượng
kháng chiến. Hội Việt kiều cứu quốc ở các tỉnh, thành phố của Lào động viên,
kêu gọi thanh niên tích cực gia nhập lực lượng Liên quân Lào- Việt. Chỉ trong
một thời gian ngắn, Liên quân Lào- Việt được thành lập ở nhiều nơi, trở thành
lực lượng vũ trang cách mạng, hăng hái chiến đấu chống quân xâm lược.
Cùng với chiến thắng Điện
Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơ ne vơ là một thắng lợi quan trọng của sự
nghiệp đoàn kết kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung, của hai
nước Việt Nam, Lào nói riêng trong cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ. Thắng lợi đó thể hiện nghị lực, quyết tâm của Việt Nam và Lào
trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, kết tinh sức mạnh đoàn kết đặc biệt,
liên minh chiến đấu giữa nhân dân và quân đội hai nước, tạo nền móng vững chắc
cho sự phối hợp, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam và Lào ngày càng nâng cao
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975).
PHÁT TRIỂN LIÊN MINH CHIẾN
ĐẤU VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1954 – 1975).
Với việc ký kết Hiệp định
Giơnevơ 1954, cách mạng hai nước Việt Nam, Lào bước vào thời kỳ mới: thời kỳ
tập trung xây dựng lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh để giữ vững hòa bình và giành
độc lập, thống nhất ở mỗi nước. Song, đế quốc Mỹ vẫn nuôi tham vọng xâm lược,
ra sức can thiệp vào miền Nam Việt Nam và Lào, âm mưu biến nơi đây thành thuộc
địa kiểu mới và căn cứ quân sự, để làm bàn đạp tiến công các nước xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào tiếp tục phối hợp đấu tranh để
bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.
Trước tình hình trên, Hội
nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (19-10-1954)
và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (11-1954) ra nghị
quyết khẳng định tiếp tục tăng cường tình hữu nghị và đoàn kết giữa nhân dân hai
nước Việt Nam, Lào và đề ra yêu cầu phối hợp hai bên cùng thực hiện các nhiệm
vụ, trước mắt tập trung xây dựng lực lượng vũ trang Lào; xây dựng, củng cố hai
tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ thành căn cứ đấu tranh của Lào; đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ cho cách mạng Lào…Đồng thời, tháng 11- 1954, Hội nghị Trung ương
Mặt trận Lào Íxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào xác định nhiệm vụ trung tâm của
cách mạng Lào trong giai đoạn hiện tại là: Bảo vệ và xây dựng hai tỉnh tập kết
thành căn cứ cách mạng của cả nước, xây dựng, phát triển các lực lượng vũ
trang. Chính phủ Kháng chiến và Bộ Quốc phòng Lào đề nghị Việt Nam xây dựng kế
hoạch và cử đoàn cố vấn quân sự giúp Lào củng cố, xây dựng Quân đội Pathết Lào.
Nội dung các quan điểm nêu
trên của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, của
Trung ương Mặt trận Lào Ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào đã vạch ra những định hướng quan trọng, có ý nghĩa quyết định tạo cơ
sở để thống nhất phương thức hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước
Việt Nam và Lào trong giai đoạn mới, giai đoạn chuyển từ chiến tranh sang hòa
bình.
Thực hiện chủ trương trên,
hai nước Việt Nam, Lào đã phối hợp hoàn thành nhiệm vụ chuyển quân tập kết theo
quy định của Hiệp định Giơnevơ và Hiệp định đình chiến ở Lào 1954. Đồng thời,
Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định thành lập Đoàn Cố vấn quân sự (Đoàn 100) giúp
các đơn vị Quân đội Pathết Lào học tập về chính trị, quân sự, nâng cao trình độ
chiến đấu; phối hợp với Bộ Chỉ huy tối cao Lào nghiên cứu, thống nhất kế hoạch
tác chiến và phương thức tổ chức khu chiến đấu bảo vệ hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxalỳ. Trên cơ sở đó, các cơ quan, đơn vị Pathết Lào ở các khu vực đóng
quân có cố vấn Việt Nam giúp đỡ đã tổ chức các đội chuyên trách làm công tác
xây dựng cơ sở quần chúng, hướng dẫn dân sản xuất, tổ chức khám, chữa bệnh cho
nhân dân, dạy văn hoá cho thanh niên, tuyên truyền về tình đoàn kết quân dân
hai nước Việt - Lào. Các cơ quan chính quyền ở hai tỉnh Sầm Nưa, Phôngxalỳ tích
cực phát động nhân dân tăng gia sản xuất, thực hiện các chủ trương của Chính
phủ Kháng chiến Lào. Nhờ đó, đời sống của nhân dân các bộ tộc Lào trên địa bàn
hai tỉnh được cải thiện đáng kể, cơ sở quần chúng được tăng cường, củng cố ngày
càng vững chắc. Trong số 1572 bản đã có 1327 bản xây dựng được cơ sở đoàn thể
cách mạng và lực lượng du kích. Ở nhiều nơi, nhân dân tích cực đi dân công,
động viên con em tham gia Quân đội Pathết Lào.
Việc các lực lượng Pathết Lào
hoàn thành chuyển quân tập kết, kịp thời triển khai kế hoạch xây dựng, phát
triển lực lượng và sẵn sàng chiến đấu giữ vững địa bàn tập kết đã tạo điều kiện
ban đầu rất quan trọng để củng cố ,tăng cường thực lực cho cách mạng Lào, đồng
thời cũng là nhân tố tích cực để phát huy mối quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào.
Trước sự chuyển biến mới của
cách mạng Lào, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được tiến hành từ ngày 22
tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1955 tại tỉnh Sầm Nưa. Tham dự Đại hội có 19 đại
biểu thay mặt gần 300 đảng viên trong cả nước. Đại hội đã xác định nhiệm vụ
chung trong giai đoạn này là đoàn kết lãnh đạo toàn dân phấn đấu hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện một nước Lào hoà bình, dân chủ, thống nhất
và độc lập. Đại hội đề ra Chương trình hành động 12
điểm, thông qua Báo cáo chính trị; Điều lệ của Đảng và
bầu Ban Chỉ đạo toàn quốc gồm 5 người, do đồng chí Cayxỏn Phômvihản làm Trưởng
ban chỉ đạo.
Việc Đảng Nhân dân Lào ra đời
đã tạo cơ sở vững chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng
Lào, đồng thời là nhân tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Lào - Việt Nam.
Đáp ứng yêu cầu đoàn kết rộng
rãi lực lượng cách mạng trong giai đoạn mới, từ ngày 6 đến 31 tháng 1 năm 1956, Uỷ ban Trung ương
Neo Lào Ítxalạ tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tại tỉnh Sầm
Nưa. Đại hội thông qua Cương lĩnh chính trị 12 điểm, trong đó nêu lên nhiệm vụ
chủ yếu của Mặt trận về đoàn kết toàn dân; giữ vững và phát triển lực lượng yêu
nước; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới
; tích cực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân… Đại hội quyết
định đổi tên Neo Lào Ítxalạ thành Neo Lào Hắc Xạt (Mặt trận Lào yêu nước); đổi
tên tờ báo Lào Ítxalạ, cơ quan ngôn luận của Mặt trận, thành Lào Hắc Xạt. Đại
hội bầu Ban chấp hành Trung ương Neo Lào Hắc Xạt, gồm 47 đại biểu, đại diện các
tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo trong cả nước, do Hoàng thân
Xuphanuvông làm Chủ tịch.
Thành công của Đại hội đại
biểu lần thứ II Neo Lào Hắc Xạt đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng Lào
và mở ra triển vọng mới cho sự tăng cường hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách
mạng hai nước Việt Nam – Lào.
Sau khi Đảng Nhân dân Lào
được thành lập, các lực lượng yêu nước Lào với sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của
các tổ cố vấn quân sự và dân chính Việt Nam đã liên tiếp đánh bại các cuộc tiến
công của các thế lực phái hữu trong chính quyền và quân đội Viêng Chăn vào vùng
căn cứ cách mạng, gây cho địch nhiều thiệt hại. Những thắng lợi đó tác động
tích cực đến xu hướng và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân Lào ở các đô
thị, một vài nơi đã xuất hiện phong trào chống đế quốc Mỹ và tay sai, ủng hộ
đường lối hoà bình, trung lập của Pathết Lào để thống nhất quốc gia.
Trong bối cảnh đó, ngày 2
tháng 11 năm 1957, Hoàng thân Xuphanuvông, đại diện Neo Lào Hắc Xạt và Hoàng
thân Xuvana Phuma, đại diện Chính phủ Vương quốc Lào ký tuyên bố chung thoả
thuận thành lập Chính phủ Liên hiệp, có Neo Lào Hắc Xạt tham gia .Ngày 18 tháng
12 năm 1957, Neo Lào Hắc Xạt tổ chức lễ chuyển giao tỉnh Sầm Nưa và tỉnh
Phôngxalỳ cho Chính phủ Liên hiệp dân tộc. Tiếp đó, ngày 25 tháng 12 năm 1957,
cơ quan đại diện Neo Lào Hắc Xạt chính thức ra mắt và hoạt động công khai, hợp
pháp tại thủ đô Viêng Chăn.
Nhân dịp giành được thắng lợi
trong cuộc đấu tranh thực hiện hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia, thành lập
Chính phủ Liên hiệp, ngày 10 tháng 1 năm 1958, Ban Chỉ
đạo Đảng Nhân dân Lào gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp ành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: « Sở dĩ cách mạng Lào đạt được
những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh anh dũng kiên
cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân
Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn
của cách mạng”
Theo hiệp định được ký kết
giữa 2 bên về tổng tuyển cử bổ sung có Neo Lào Hắc Xạt tham gia và luật bầu cử
sửa đổi tiến bộ do phía Neo Lào Hắc Xạt đề nghị, 7 giờ sáng ngày 4 tháng 5 năm
1958, cả nước Lào tiến hành tuyển cử bổ sung 21 nghị sĩ. Lần đầu tiên tất cả
các cử tri trong toàn quốc được quyền đi bỏ phiếu. Các ứng cử viên của Pathết
Lào và phía hòa bình, trung lập đều giành thắng lợi, với 13/21 ghế trong quốc
hội.
Kết quả trên cùng với việc
thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc lần thứ nhất là thắng lợi quan trọng của
các lực lượng Pathết Lào, đồng thời nêu cao tính hiệu quả của quan hệ đoàn kết,
hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Việt Nam - Lào.
Trong tình thế đó, từ cuối
năm 1958, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đẩy mạnh các hoạt động lật lọng, từng
bước xoá bỏ các hiệp ước hoà hợp dân tộc đã được ký kết để cuối cùng trắng trợn
xoá bỏ Chính phủ liên hiệp và hoà hợp dân tộc. Chúng cho quân bao vây nhằm tước
vũ khí hai tiểu đoàn vũ trang của Pathết Lào, bắt giam một số lãnh tụ Neo Lào
Hắc Xạt và mở nhiều cuộc khủng bố, càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng.
Trước tình hình Lào có nhiều
diễn biến phức tạp, ngày 4 tháng 5 năm 1959, Bộ Chính
trị Đảng Lao động Việt Nam trao đổi ý kiến với đại diện Đảng Nhân dân Lào về
tình hình và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào. Bộ Chính trị của hai Đảng đã
thống nhất về yêu cầu đẩy mạnh đấu tranh ở Lào, trước mắt phải tích cực xây
dựng, phát triển lực lượng mọi mặt để sẵn sàng chuyển sang hoạt động quân sự
rộng rãi trên cả nước; đồng thời tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, trung
lập, hòa hợp dân tộc để tranh thủ dư luận trong và ngoài nước.
Chấp hành chủ trương của
Trung ương Đảng Nhân dân Lào, đêm ngày 17 tháng 5 năm 1959, cán bộ, chiến sỹ
Tiểu đoàn 2 của Neo Lào Hắc Xạt đóng tại Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã dũng
cảm, mưu trí, phá vòng vây địch để rút ra vùng rừng núi phía đông, giáp với
Việt Nam. Trải qua 15 ngày đêm vừa hành quân vừa chiến đấu, được sự hỗ trợ,
giúp đỡ của Việt Nam, Tiểu đoàn 2 đã về căn cứ ở vùng núi Kày Khẳn, biên giới
Lào - Việt Nam an toàn. Sự kiện Tiểu đoàn 2 rút lui thành công, tiếp tục hoạt
động chiến đấu là một thắng lợi của cách mạng Lào, làm tăng thêm lực lượng thực
hiện và phát huy quan hệ đoàn kết, phối hợp đấu tranh giữa quân và dân hai nước
Việt Nam, Lào.
Trước sự can thiệp trắng trợn
của đế quốc Mỹ vào Lào, Hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Lào (3-6-1959) xác
định cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào đang chuyển sang một giai đoạn
mới, giai đoạn từ đấu tranh công khai hợp pháp là chủ yếu, chuyển sang đấu
tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp với các hình thức đấu tranh khác. Thống nhất
với quan điểm trên của Đảng Nhân dân Lào, Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động
Việt Nam (2-7-1959) đề ra chủ trương chi viện cách mạng Lào đáp ứng yêu cầu xây
dựng, phát triển lực lượng trong tình hình mới và coi đây là một nhiệm vụ quốc
tế hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Bộ Chính
trị Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định cử lực lượng giúp Lào xây dựng và phát
triển Tiểu đoàn 2 thành ba tiểu đoàn, đồng thời bổ sung vũ khí, quân trang,
quân dụng và tổ chức huấn luyện về kỹ thuật, chiến thuật cho các đơn vị Pathết
Lào.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa
Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào nói trên là động lực quan trọng
thúc đẩy cách mạng Lào phát triển, góp phần quan trọng vào việc củng cố và phát
triển mối quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa cách mạng hai nước Việt Nam – Lào.
Theo yêu cầu của Trung ương
Đảng Nhân dân Lào về việc giải thoát các đồng chí lãnh đạo của Neo Lào Hắc Xạt
bị chính quyền Phủi Xánánicon bắt giam lỏng tại Viêng Chăn, Quân uỷ Trung ương
Việt Nam quyết định thành lập một tổ công tác đặc biệt gồm 9 người, phối hợp
với các đồng chí Lào hoạt động bí mật trong nội thành để thực hiện nhiệm vụ.
Đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960 dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ Viêng Chăn,
cơ sở nội thành phối hợp với tổ công tác đặc biệt Việt Nam và binh lính, sĩ
quan canh gác đã đưa Hoàng thân Xuphanuvông và 15 đồng chí bị bắt ra khỏi trại
giam Phôn Khênh về căn cứ an toàn.
Việc giải thoát các cán bộ
lãnh đạo Lào thành công là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần to lớn đối với lực
lượng cách mạng và yêu nước Lào, góp phần củng cố, nâng cao ý nghĩa sâu sắc của
tình đoàn kết chiến đấu, giúp đỡ lẫn nhau giữa quân và dân hai nước Việt Nam -
Lào.
Trong khi cách mạng Lào có
bước phát triển mới thì Chính phủ Vương quốc Lào lâm vào khủng hoảng nghiêm
trọng, dẫn đến cuộc đảo chính (9-8-1960) của Tiểu đoàn dù 2 Viêng Chăn, do đại
úy Koongle chỉ huy. Trước tình hình trên, Trung ương Đảng Nhân dân Lào ra chủ
trương: ủng hộ cuộc đảo chính, sẵn sàng hợp tác để thành lập chính phủ đi theo
đường lối hòa bình, trung lập và gấp rút phát triển lực lượng cách mạng về mọi
mặt. Đặc biệt, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào (20-10-1960)
nhấn mạnh yêu cầu: tăng cường lực lượng cách mạng về mọi mặt; mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất; mở rộng khu căn cứ, xây dựng chính quyền cách mạng; tích
cực xây dựng căn cứ địa tỉnh Sầm Nưa…Thống nhất với chủ trương trên của Đảng
Nhân dân Lào, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
(12-11-1960) xác định phương hướng nhiệm vụ quốc tế của Việt Nam ở Lào trong
lúc này tập trung vào: phối hợp chiến đấu bảo toàn lực lượng, kéo dài thời gian
cầm cự để tạo thế tấn công mới; củng cố hậu phương Viêng Chăn, củng cố căn cứ
địa Sầm Nưa…Theo đề nghị của Đảng Nhân dân Lào và Chính phủ của Phu ma do Ủy
ban đảo chính thành lập, Việt Nam đã cử cán bộ và một bộ phận pháo binh sang
Viêng Chăn, đồng thời các Quân khu 4, Quân khu Tây Bắc (Việt Nam) khẩn trương
phối hợp với các lực lượng vũ trang Lào tiến công địch ở sát biên giới, hỗ trợ
tích cực cho cuộc chiến đấu bảo vệ Viêng Chăn.
Thực hiện sự chỉ đạo trên,
các lực lượng vũ trang yêu nước Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam đã phối hợp
chiến đấu dũng cảm, đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của địch vào Thủ đô Viêng
Chăn, đồng thời mở rộng tiến công địch ở nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng rộng
lớn, trong đó có nhiều địa bàn chiến lược quan trọng, như Cánh đồng Chum, Xiêng
Khoảng…Đến đầu năm 1961, lực lượng cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi
mới quan trọng: mở rộng vùng giải phóng từ Cánh đồng Chum tới Sầm Nưa; lực
lượng vũ trang Pathết Lào được tăng cường, phát triển từ 2 tiểu đoàn lên 10
tiểu đoàn, tạo thêm sức mạnh đẩy địch vào thế lúng túng, bị động.
Những kết quả đó là thắng lợi
của đường lối hòa bình, trung lập, hòa hợp dân tộc của Đảng Nhân dân Lào và
cũng là thắng lợi của sự phối hợp, đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân
hai nước Việt Nam – Lào.
Từ đầu năm 1961, đế quốc Mỹ
và quân đội Sài Gòn đẩy mạnh việc đánh phá hòng ngăn chặn việc vận chuyển của
Đoàn 559 trên tuyến Đông Trường Sơn. Để đáp ứng yêu cầu chi viện ngày càng lớn
cho chiến trường miền Nam và cách mạng Lào, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
và Đảng Nhân dân Lào đã thảo luận, thống nhất chủ trương mở đường vận chuyển
chiến lược sang phía Tây Trường Sơn. Được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các
bộ tộc Lào, các đoàn công tác quân sự Việt Nam đã xây dựng được nhiều cơ sở
cách mạng, phục vụ cho việc mở tuyến đường mới dọc Tây Trường Sơn trên đất Lào.
Việc chuyển hướng vận chuyển
chiến lược sang Tây Trường Sơn không chỉ tạo ra thế và lực mới cho cách mạng
hai nước Việt Nam, Lào, mà còn thể hiện ý chí quyết tâm cao của hai Đảng và
nhân dân hai nước Việt - Lào trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc
lập, tự do.
Do sức mạnh đấu tranh của
nhân dân Lào, đế quốc Mỹ và tay sai phải chấp nhận ngừng bắn, mở hội nghị hiệp
thương ba phái (Neo Lào Hắc Xạt, Phuma và Bun Ùm – Phumi) tại Hin Hợp
(3-5-1961), Na Mon (13-5-1961) và Hội nghị quốc tế về Lào tại Giơnevơ
(16-5-1961), nhưng do thái độ ngoan cố của phe Mỹ, Hội nghị quốc tế bàn về vấn
đề thành lập Chính phủ ba phái ở Lào bị bế tắc.
Trước tình hình trên, ngày 9
tháng 7 năm 1961, Trung ương Đảng Nhân dân
Lào và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hội đàm để bàn về phương hướng của
cách mạng Lào và thống nhất một số nguyên tắc trong quan hệ giữa hai Đảng, đặc
biệt trong điều kiện Việt Nam còn có quan hệ với Chính phủ Vương quốc Lào. Tại
Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Nhất trí nhưng không miễn cưỡng, phải
bàn bạc phân minh, nêu cho hết ý kiến nhưng quyết định là Đảng Lào, vì cách
mạng Lào là do người Lào làm lấy... giúp nhiều mấy cũng chỉ được 1/10 còn tự
lực là 9/10”
Nhất trí với quan điểm của
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu, Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào (20-7-1961) và (22-11-1961) xác định
nhiệm vụ: đấu tranh thành lập Chính phủ liên hiệp trên nguyên tắc thực hiện
chính sách hòa bình, trung lập; đồng thời tích cực xây dựng và củng cố lực
lượng vũ trang làm hậu thuẫn, gây áp lực cho đàm phán. Đặc biệt, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào (10-4-1962) nhấn mạnh yêu cầu đẩy mạnh
phối hợp với Việt Nam chiến đấu đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của địch
và mở chiến dịch Nặm Thà nhằm mở rộng vùng giải phóng, tạo đà phát triển cho
cách mạng Lào.
Do bị thất bại nặng nề và
liên tiếp trên các mặt trận, nhất là trong chiến dịch Nặm Thà (5-1962), đế quốc
Mỹ và chính quyền Viêng Chăn phải thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc lần thứ
hai, có lực lượng Pathết Lào tham gia (12-6-1962) và ký kết Hiệp định Giơnevơ
(23-7-1962) với sự tham gia của 14 nước, công nhận nền độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.
Việc ký kết Hiệp định Giơnevơ
1962, giải quyết hoà bình vấn đề Lào ghi nhận bước phát triển vượt bậc của cách
mạng Lào, góp phần củng cố tình đoàn kết hữu nghị, liên minh chiến đấu giữa
nhân dân hai nước Việt Nam, Lào.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1962 về
Lào, ngày 5 tháng 9 năm 1962, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính
phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đầu năm 1963 vua
Lào Xỉxávàng Vắthana dẫn đầu đoàn đại biểu Hoàng gia Lào thăm Việt Nam. Trong
buổi chiêu đãi vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hai dân tộc Việt và
Lào sống bên nhau trên cùng một giải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn.
Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em… Ngày
nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa
láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”.
“Thật là:
Thương nhau mấy núi cũng
trèo.
Mấy sông cũng lội, mấy đèo
cũng qua
Việt – Lào, hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà,
Cửu Long”
Mặc dù Hiệp định Giơnevơ 1962
về Lào được ký kết, đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Lào, tăng cường
viện trợ, giúp chính quyền Viêng Chăn tiến công lấn chiếm vùng giải phóng, đồng
thời ra sức phá hoại Chính phủ liên hiệp, cô lập và vu cáo Neo Lào Hắc Xạt.
Trước tình hình có chiều
hướng phức tạp, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào (15-2-1963)
đề ra nhiệm vụ: đấu tranh bảo vệ Chính phủ liên hiệp, bảo vệ hòa bình và ra sức
củng cố, phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt. Hội nghị xác định quân đội
Pathết Lào phải tích cực hoạt động quân sự làm hậu thuẫn cho đấu tranh chính
trị, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu lấn
chiếm của địch.
Từ ngày 18 đến ngày
24-4-1963, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng Nhân dân Lào
hội đàm để thống nhất các hoạt động phối hợp và giúp đỡ nhau có hiệu quả hơn.
Đặc biệt, tại cuộc hội đàm (7-1963) bàn về phương hướng phát triển của cách
mạng Lào, hai Đảng thống nhất nhiệm vụ đẩy mạnh xây dựng lực lượng cả về quân
sự và chính trị, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài. Trung ương Đảng Nhân dân
Lào đề nghị Việt Nam tăng cường lực lượng chuyên gia giúp Lào toàn diện, từ chủ
trương, chính sách đến tổ chức thực hiện; trong đó, về quân sự, giúp Lào thực
hiện hai nhiệm vụ cơ bản là xây dựng chính trị, tư tưởng, tổ chức Đảng trong
quân đội và củng cố, phát triển phong trào chiến tranh du kích.
Thực hiện chủ trương trên, từ
cuối năm 1963, đầu năm 1964, Việt Nam cử hơn 2.000 chuyên gia quân sự sang làm
nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Tiếp đó, từ giữa năm 1964, thành lập hệ thống chuyên
gia quân sự Việt Nam từ trên cơ quan Tổng tư lệnh Lào xuống đến Bộ tư lệnh các
quân khu, tỉnh đội và cấp tiểu đoàn, có nhiệm vụ phối hợp với bạn để nghiên cứu
kế hoạch tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng và củng cố các vùng
căn cứ ở Lào. Đồng thời, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ
đội Pathết Lào mở nhiều chiến dịch, chủ yếu ở khu vực đường 9 – Trung Lào, Cánh
đồng Chum – Xiêng Khoảng, đập tan các cuộc tấn công lấn chiếm của địch, bảo vệ vững
chắc vùng giải phóng Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam vận
chuyển trên đường tây Trường Sơn để chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam
và cách mạng hai nước Lào, Campuchia.
Những hoạt động phối hợp giữa
quân và dân hai nước Việt Nam – Lào trong xây dựng lực lượng và chiến đấu nói
trên đã tạo sự chuyển biến rất có lợi về quân sự, chính trị cho lực lượng cách
mạng Lào, góp phần bảo vệ và mở rộng tuyến đường tây Trường Sơn vươn dài tới
các chiến trường.
Từ giữa năm 1965, do bị thất
bại nặng nề trong âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng và không thực hiện được ý đồ
phá hoại, chia rẽ giữa các lực lượng cách mạng và yêu nước Lào, đế quốc Mỹ thực
hiện bước leo thang chiến tranh mới, đưa lực lượng không quân Mỹ vào tham chiến
ở Lào, đẩy chiến tranh đặc biệt ở Lào phát triển đến cao độ; đồng thời tiến
hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh
phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam,
Trước tình hình trên, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào (5-1965) nêu cao quyết tâm đánh
bại chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ ở Lào và đề ra nhiệm vụ: Đẩy mạnh đấu
tranh quân sự, phát triển chiến tranh nhân dân; tăng cường xây dựng lực lượng
vũ trang ba thứ quân; củng cố và mở rộng vùng giải phóng thành quy mô của một
quốc gia.
Do yêu cầu tăng cường đoàn
kết chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 22 tháng 6 năm
1965, Đảng Lao động Việt Nam hội đàm với Đảng Nhân dân Lào thống nhất các nội
dung phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau, trong đó tập trung giúp Lào xây dựng vùng
giải phóng về mọi mặt với quy mô một quốc gia, xây dựng lực lượng vũ trang. Tiếp đó, ngày 3 tháng 7 năm 1965, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết khẳng định: “Việt Nam cần phải nỗ lực đáp ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối
với công cuộc phát triển cách mạng của Lào”
Thực hiện chủ trương giúp đỡ
lẫn nhau đã được hai Đảng thống nhất, ngay từ giữa năm, nhất là từ cuối năm
1965 trở đi, Việt Nam cử một số đơn vị quân tình nguyện và các đoàn chuyên gia
quân sự, chính trị, kinh tế, và văn hóa sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào với số
lượng ngày càng lớn theo yêu cầu của cách mạng Lào. Đến năm 1967, số cán bộ,
công nhân Việt Nam tham gia xây dựng các ngành kinh tế, văn hóa ở Lào lên tới
15.000 người; riêng chuyên gia về quân sự lên tới 8.500 người.
Nêu cao tinh thần đồng cam
cộng khổ, các lực lượng Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào đã kề vai sát cánh
cùng quân và dân Lào ra sức xây dựng vùng giải phóng Lào về mọi mặt như quy mô
một quốc gia; xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang
cách mạng Lào; đánh địch lấn chiếm, giữ vững và mở rộng các khu căn cứ; bảo vệ
vững chắc tuyến vận tải chiến lược tây Trường Sơn. Đặc biệt, đầu năm 1968, bộ
đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến
công Nặm Bạc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn khu vực Nặm Bạc – Khăm Đeng với
trên một vạn dân, nối liền vùng giải phóng Thượng Lào thành khu vực liên hoàn,
tạo thế vững chắc cho hậu phương cách mạng Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam và Campuchia.
Những thắng lợi trên thể hiện
nấc thang phát triển mới của lực lượng cách mạng Lào, đồng thời khẳng định sức
mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa quân và dân hai nước Việt Nam –
Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành nhất mực, sắt son của Việt Nam đối
với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí Cay xỏn Phômvihản phát biểu trong
cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam (12-1968) đã nhấn
mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô
tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt
Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ
của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng
là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Những
thắng lợi đó góp phần củng cố thêm sự gắn bó mật thiết giữa hai Đảng và hai dân
tộc Việt Nam – Lào.
Mặc dù bị thất bại, từ năm
1969, đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh, đưa chiến tranh đặc biệt ở
Lào lên đến đỉnh cao với sự tham gia ngày càng nhiều của lực lượng không quân
Mỹ và quân đội các nước tay sai, chư hầu của Mỹ, đồng thời tiến hành “Việt Nam
hóa chiến tranh” và mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Những âm mưu, thủ đoạn
và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ đã gây nhiều khó khăn, phức tạp cho
cách mạng ba nước Đông Dương và làm cản trở quá trình phối hợp chiến đấu giữa
hai dân tộc Việt Nam và Lào.
Trước âm mưu và thủ đoạn chiến
tranh mới của đế quốc Mỹ, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng
Nhân dân Lào đã ra chỉ thị khẳng định tăng cường đoàn kết giữa nhân dân hai
nước, quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trong bất cứ tình huống
nào. Ngày 18 tháng 7 năm 1969, Quân ủy Trung ương Việt Nam hội đàm với Quân ủy
Trung ương Lào thống nhất các nội dung phối hợp và giúp đỡ nhau trên lĩnh vực
quân sự, đồng thời xác định nhiệm vụ cách mạng Lào tập trung vào việc xây dựng,
tăng cường lực lượng về mọi mặt; nâng cao chất lượng ba thứ quân; đẩy mạnh đấu
tranh ở cả hai vùng nông thôn và thành thị, trên cả ba mặt quân sự, chính trị,
ngoại giao; củng cố vững chắc các địa bàn đứng chân, giữ vững và mở rộng vùng
giải phóng; chú trọng sản xuất, bồi dưỡng sức dân… Đặc biệt, Hội nghị Ban
Thường vụ Trung ương Đảng Nhân dân Lào (25-6-1970) xác định nhiệm vụ cách mạng
Lào trong hai năm tới là: Nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy thế chủ
động tiến công địch về mọi mặt; ra sức củng cố vùng giải phóng; xây dựng và
phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt. Hội nghị nhấn mạnh cần phải tăng
cường đoàn kết hơn nữa với nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia anh em trong
cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược.
Thực hiện chủ trương trên, từ
năm 1969, hai nước Việt Nam – Lào càng tích cực đẩy mạnh các hoạt động phối hợp
và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt.
Về quân sự, Quân ủy Trung ương Việt Nam
quyết định tăng cường cán bộ cho các đoàn chuyên gia quân sự từ trung ương đến
các tỉnh theo yêu cầu của Lào. Các lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện
Việt Nam trên chiến trường Lào đã đẩy mạnh nhiều hoạt động, vừa chú trọng giúp
bạn xây dựng, nâng cao khả năng, trình độ chiến đấu của bộ đội Lào, vừa cùng
quân giải phóng Lào chiến đấu, đánh bại nhiều cuộc tiến công lấn chiếm của
địch, quan trọng nhất là đập tan các chiến dịch Cù Kiệt (10.1969 – 4.1970),
chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (3-1971), giữ vững và mở rộng vùng giải phóng,
trong đó có vùng chiến lược Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng, bảo vệ vững chắc và
thông suốt tuyến vận tải chiến lược tây Trường Sơn.
Về chính trị, ngoại giao, Việt Nam tích cực ủng hộ
giải pháp năm điểm của Neo Lào Hắc Xạt (3-1970) để giải quyết vấn đề Lào trên
cơ sở Hiệp định Giơnevơ 1962; phối hợp chặt chẽ với Lào tích cực đóng góp cho
thành công của Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương (4-1970) và vào việc thành
lập Mặt trận thống nhất chống Mỹ, góp phần tăng cường liên minh chiến đấu của
nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, đồng thời tranh thủ được sự đồng
tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ trên thế giới, làm cho nội bộ địch,
kể cả giới cầm quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc.
Về lĩnh vực xây dựng kinh tế,
phát triển văn hoá, các bộ, ngành của Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác,
giúp đỡ với các bộ, ngành của Lào, như: lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ, thủ công
và địa chất (2-1972); giao thông vận tải (4-1972); thuỷ lợi (5-1972), nhằm nâng
cao tốc độ phát triển kinh tế trong vùng giải phóng Lào.
Với sự nỗ lực vượt bậc của
bản thân và cùng với sự đoàn kết, giúp đỡ vô tư, trong sáng của Việt Nam, đến
cuối năm 1972, cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, nhất là
Đảng Nhân dân Lào đã tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai:
quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Nhân dân cách mạng
Lào và suy tôn đồng chí Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng; thông
qua Nghị quyết: “Tăng cường đoàn kết Lào – Việt”, trong đó khẳng định tình đoàn kết Lào – Việt trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần quốc tế vô sản là mối quan hệ đặc biệt, đã đánh dấu sự trưởng thành về
chính trị và tổ chức của Đảng Nhân dân cách mạng Lào – nhân tố trọng yếu, có ý
nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ đặc biệt, liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam
lên bước phát triển mới. Lực lượng vũ trang cách mạng Lào với hơn 3 vạn quân
tập trung cùng hơn 5 vạn dân quân du kích trên khắp mọi miền của đất nước không
ngừng trưởng thành, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong những trận đọ
sức quyết định. Vùng giải phóng Lào được mở rộng, củng cố, đã nối liền từ Bắc
đến Nam và từng bước xây dựng theo quy mô một quốc gia, có nền tài chính riêng,
có một số xí nghiệp công nghiệp nhỏ, thương nghiệp quốc doanh, nhiều tỉnh đã
bước đầu tự túc được lương thực... Nhân dân các bộ tộc Lào trong vùng giải
phóng từ địa vị nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, tích cực tham gia xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng cuộc đời mới của mình.
Những chiến thắng to lớn về
nhiều mặt nói trên đã trực tiếp góp phần quan trọng buộc chính phủ Viêng Chăn
phải ký kết Hiệp định “lập lại hoà bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào” (21-2-1973),
tạo điều kiện và thời cơ rất thuận lợi để thúc đẩy cách mạng Lào tiến lên, đồng
thời mở ra cơ hội mới cho liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào đẩy mạnh đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn.
Tuy phải chấp nhận cho chính
quyền tay sai Viêng Chăn ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại
hòa bình ở Lào (2-1973), nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục câu kết và sử dụng lực
lượng phản động Lào để phá hoại việc thi hành Hiệp định Viêng Chăn, gây lại
tình hình căng thẳng ở Lào và chống phá cách mạng Đông Dương.
Trước tình hình trên, Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào chủ trương: giương cao ngọn cờ hòa bình, độc
lập, hòa hợp dân tộc để tập hợp lực lượng đấu tranh đòi đối phương thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định; nâng cao cảnh giác, quyết tâm đánh bại mọi âm mưu của
kẻ thù; tăng cường lực lượng về mọi mặt, tạo điều kiện đi đến xây dựng một nước
Lào độc lập, dân chủ, trung lập, thống nhất và thịnh vượng. Để xây dựng và củng
cố vùng giải phóng ngày một vững mạnh làm hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh,
Trung ương Đảng Nhân dân Lào đề nghị Việt Nam tiếp tục cử chuyên gia giúp Lào,
nhất là về các ngành hành chính sự nghiệp, kinh tế, văn hóa…
Đáp ứng yêu cầu của cách mạng
Lào trong tình hình mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam (7-1973) chủ trương phối hợp và hỗ trợ Lào phát huy thắng lợi đã đạt được,
củng cố và đẩy mạnh các hoạt động buộc đế quốc Mỹ phải thực hiện nghiêm chỉnh
Hiệp định Viêng Chăn. Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ thị cho các đơn
vị quân tình nguyện và đội ngũ chuyên gia làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào tăng cường
lực lượng, bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ do cách mạng Lào đặt ra.
Tại cuộc hội đàm giữa hai
đoàn đại biểu cấp cao Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào
(12-1973), hai Đảng đã thống nhất xác định nhiệm vụ quan trọng nhất trong tình
hình hiện nay để đưa cách mạng Lào tiến lên là: củng cố, xây dựng vùng giải
phóng; nắm chắc lực lượng vũ trang, đi đôi với việc sử dụng Chính phủ liên
hiệp; đẩy mạnh đấu tranh chính trị trong hai thành phố trung lập và trong vùng
đối phương quản lý. Để nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa
cách mạng hai nước, hai Đảng đã nhất trí phương hướng hợp tác cần tập trung
vào những vấn đề cơ bản nhất, những khâu then chốt nhất,
tạo điều kiện cho Lào nhanh chóng đảm đương được công việc một cách độc lập, tự
chủ. Riêng về quân sự, hai Đảng thống nhất cần phải bố trí lại lực lượng phù
hợp tình hình mới: Đưa các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đứng chân ở tuyến
sau, giúp bảo vệ, giữ vững vùng giải phóng, đề phòng địch bất ngờ tiến công lấn
chiếm; đưa bộ đội giải phóng Lào lên phía trước, trực tiếp tiếp xúc với địch,
gây áp lực, làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh và sẵn sàng tiến công địch khi
cần thiết.
Thực hiện chủ trương trên,
Việt Nam từng bước rút chuyên gia ở tỉnh và huyện về nước (rút trước tháng
5-1974), đồng thời điều chỉnh các lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện còn
lại để phối hợp và giúp Lào thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Về quân sự, Việt Nam cử nhiều đội công
tác phối hợp với cán bộ Lào xây dựng cơ sở, củng cố các đội du kích, tổ chức
huấn luyện quân sự và các chuyên gia tham gia công tác tổng kết, tổng hợp tình
hình, theo dõi, giúp đỡ các cụm chủ lực Lào; đồng thời, quân tình nguyện Việt
Nam phối hợp chặt chẽ với bộ đội Lào đập tan nhiều cuộc hành quân lấn chiếm của
địch ở Luổng Phạbang, tây Mương Xủi - Xala Phu Khun, đông và nam Thà Khẹc, nam
Đường số 9, nam Pạc Xê, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng và hỗ trợ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh của nhân dân ở vùng địch kiểm soát.
Về kinh tế, văn hóa, các chuyên gia Việt Nam đã
phối hợp tích cực, cùng với cán bộ và nhân dân Lào đẩy mạnh sản xuất, xây dựng
kinh tế, văn hóa, giáo dục trong vùng giải phóng, góp phần giải quyết những yêu
cầu cấp bách về đời sống của nhân dân và chuẩn bị các mặt cho việc phát triển
kinh tế của vùng giải phóng trong những năm tiếp theo.
Về đối ngoại, từ cuối năm 1973, Đảng
Lao động Việt Nam đã tổ chức các đoàn đại biểu đại diện của Đảng và Nhà nước
sang thăm hữu nghị chính thức vùng giải phóng Lào, như: chuyến thăm của Đoàn
đại biểu Đảng và Chính phủ do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành
Trung ương, từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 11 năm 1973; chuyến thăm của Đoàn đại
biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời miền
Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ dẫn đầu (tháng 1 năm1974); chuyến thăm
của Đoàn đại biểu phụ nữ giải phóng miền Nam do bà Nguyễn Thị Định dẫn đầu
(tháng 4 năm 1974)…Việt Nam cũng phối hợp và giúp Lào đón nhiều đoàn đại biểu
của các nước đến thăm vùng giải phóng Lào, như: Đoàn đại biểu Quốc hội Thuỵ
Điển, Đoàn đại biểu kinh tế Cu Ba (tháng 1 năm1974); Đoàn đại biểu Đảng công
nhân xã hội thống nhất Hunggary, Đoàn đại biểu Đảng cộng sản Bungary (tháng 2
năm 1974); Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cu Ba (tháng 2 năm 1974)…
Sự phối hợp chặt chẽ và giúp
đỡ hiệu quả giữa Việt Nam và Lào nói trên, đã làm cho thế và lực của cách mạng
Lào lớn mạnh vượt bậc, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần
chúng ngày càng lan rộng và sôi nổi, nhất là ở Thủ đô Viêng Chăn, buộc Chính
phủ liên hiệp phải chấp nhận Cương lĩnh chính trị 18 điểm và Chương trình hành
động 10 điểm do Mặt trận Lào yêu nước đưa ra (12-1974), đồng thời góp phần hỗ
trợ tích cực cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia anh em giành thắng lợi
hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trước thắng lợi dồn dập, to
lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong tháng 4-1975, nhất là chiến thắng
giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975) của nhân dân Việt Nam, ngày 5-5-1975,
Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng,
quyết định phát động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong cả nước nổi dậy đoạt
lấy chính quyền và giành thắng lợi hoàn toàn.
Việc nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào ra đời (tháng 12 năm 1975) là thắng lợi to lớn, triệt để của nhân
dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng là thắng lợi quan trọng của mối
quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung, son sắt giữa hai
dân tộc Việt Nam – Lào.
Như vậy, trong lịch sử quan
hệ đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu của quân và dân hai nước Việt Nam,
Lào, thời kỳ 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 – 1975) thực sự là một cuộc
trường chinh đầy khó khăn, gian khổ, song cũng rất đỗi sôi động và hào hùng.
Trong thời kỳ lịch sử này,
cách mạng hai nước đã cùng nhau giải quyết thành công từng bước những vấn đề
mấu chốt như: thống nhất chủ trương thành lập đảng mácxít ở mỗi nước Đông
Dương, thành lập khối liên minh Việt - Miên – Lào dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau, nhằm mục tiêu đánh đuổi bọn
xâm lược, làm cho mỗi nước hoàn toàn độc lập. Việc Đảng Lao động Việt Nam ra
hoạt động công khai (2-1951), sự ra đời của Liên minh mặt trận Đông Dương
(3-1951) và của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (4-1955) là những nhân tố trọng
yếu, tạo cơ sở cho sự phát triển vượt bậc, có ý nghĩa chiến lược quan trọng
trong quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương nói chung, hai
nước Việt Nam và Lào nói riêng.
Với tư tưởng chỉ đạo chiến
lược “Đông Dương là một chiến trường”, trong suốt ba mươi năm
chiến tranh giải phóng, lãnh đạo hai nước Việt Nam, Lào đã thống nhất và phối
hợp chặt chẽ với nhau trong mọi chủ trương, hành động chiến lược và trên mọi
mặt, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập, tự do.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là mình tự giúp mình”, coi nhân dân bạn như
nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của bạn là trách nhiệm của mình, trong
suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân tình
nguyện và đội ngũ chuyên gia Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào luôn kề vai
sát cánh và cùng với bạn, vừa chiến đấu chống địch càn quét lấn chiếm, vừa tiến
hành xây dựng và củng cố các đoàn thể, chính quyền kháng chiến, xây dựng và bảo
vệ vùng giải phóng, tăng cường lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh du
kích trên khắp các khu vực Thượng, Trung và Hạ Lào. Đồng thời, thực tiễn chiến
đấu, công tác trên các chiến trường Lào cũng là cơ hội bồi dưỡng, rèn luyện rất
bổ ích về các mặt quân sự, chính trị, nhất là nâng cao thêm tinh thần đoàn kết
quốc tế cho cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và đội ngũ chuyên gia Việt Nam.
Sự lớn mạnh của lực lượng
kháng chiến Lào là nhân tố cơ bản, tạo điều kiện đưa chiến trường Lào tiến lên
phối hợp có hiệu quả với chiến trường chính Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), nhất là trong cuộc kháng chiến chống
đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975), quân và dân hai nước Việt Nam – Lào đã phối
hợp mở nhiều chiến dịch tiến công lớn trên chiến trường Lào giành thắng lợi,
buộc kẻ thù phải phân tán lực lượng đối phó, góp phần hỗ trợ đắc lực, tạo điều
kiện thuận lợi cho các bước chuyển biến của chiến tranh cách mạng ở Việt Nam và
tạo đà phát triển đi lên của cách mạng Campuchia.
Thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975) thể hiện nghị lực
và quyết tâm của cả hai dân tộc Việt Nam – Lào trong cuộc chiến đấu chống kẻ
thù chung để giành độc lập, tự do, kết tinh sức mạnh đoàn kết của quan hệ đặc
biệt, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào.
Thắng lợi đó tạo nền móng vững chắc để tăng cường, phát triển quan hệ hữu nghị,
đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong thời kỳ lịch sử mới.
CHỦ ĐỀ 3: Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Cay xỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông và các lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai
Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng gần gũi, có mối
quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống tốt đẹp lâu đời. Cùng tựa lưng vào dãy
Trường Sơn hùng vĩ, cùng uống chung dòng nước Mêkông, núi liền núi, sông liền
sông, ngay từ rất sớm, hai dân tộc Việt Nam - Lào đã gắn bó bền chặt bên nhau
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ
tịch Cay xỏn Phômvihản chính là những người đặt nền móng cho mối quan hệ hữu
nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và
Lào.
Mối quan hệ đã được các thế hệ lãnh đạo kế tiếp và
quân dân hai nước dày công vun đắp để không ngừng phát triển và được đúc kết
thành mối quan hệ mẫu mực, thủy chung, trong sáng, hiếm có trong quan hệ quốc
tế và là tài sản chung vô giá của hai dân tộc Việt - Lào.
Khi nói về mối quan hệ nghĩa tình giữa hai Đảng,
hai nước, hai dân tộc Việt Nam và Lào, Bác Hồ kính yêu của chúng ta - Người
đã dày công vun đắp cho mối quan hệ Việt - Lào đã nhấn mạnh, đó là
mối “quan hệ đặc biệt” mà lịch sử đã chứng minh cái nghĩa, cái tình
và tấm lòng thủy chung, son sắt, sát cánh bên nhau của hai Đảng, hai
dân tộc Việt - Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, giành độc
lập cho dân tộc và cùng nhau xây dựng hòa bình, hướng tới tương lai
hạnh phúc.
Nền tảng của quan hệ Việt - Lào xuất phát từ
quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai nước láng giềng gần gũi, cùng chung
sống trên bán đảo Đông Dương. Mối quan hệ truyền thống ấy trở nên “đặc
biệt” từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện (sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) trở
thành lực lượng lãnh đạo cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào, cùng sát
cánh bên nhau chiến đấu chống kẻ thù chung, xây đắp nên tình đoàn kết keo sơn,
thuỷ chung, son sắt Việt - Lào.
Sự nghiệp cách mạng của hai nước Lào - Việt Nam có mối
quan hệ và ảnh hưởng lẫn nhau một cách đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ
điều đó và thường xuyên căn dặn: “Cách mạng Lào không thể thiếu sự giúp đỡ của
cách mạng Việt Nam và cách mạng Việt Nam cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của
cách mạng Lào.”
Với quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam -
Lào, với thiện chí chân tình, thông cảm nhau sâu sắc trên tình đồng chí anh em,
giúp bạn là tự giúp mình, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã cử hàng chục
vạn con em yêu quý của mình sang công tác và phối hợp với quân và dân Lào chiến
đấu tại các chiến trường của Lào, máu của biết bao anh hùng, liệt sĩ Việt Nam
hòa quyện với máu của quân và dân Lào để đem lại thắng lợi vẻ vang cho hai dân
tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết giúp
đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt - Lào, đó vừa là nghĩa
vụ quốc tế, vừa là lợi ích sống còn của mỗi nước. Người rất chăm chú theo dõi
và dìu dắt, giúp đỡ phong trào cách mạng ở Lào với tinh thần “giúp bạn là tự
giúp mình”. Từ khi mới ra đời, tại Hội nghị Trung ương tháng 10/1930, Đảng Cộng
sản Đông Dương đã xác định đường lối cách mạng của ba nước Đông Dương: ba nước
đều là thuộc địa của Pháp... nên cần đoàn kết chống ách thống trị của bọn thực
dân Pháp, giành độc lập dân tộc...
Bên cạnh đó, trong tư tưởng chỉ đạo và hoạt động thực
tiễn, Người luôn luôn phát huy cao độ tính độc lập và chủ động của đồng bào các
bộ tộc Lào. Theo Người “kháng chiến Việt - Miên - Lào là chung của chúng ta, là
bổn phận của chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công thì kháng chiến Miên,
Lào mới thắng lợi và kháng chiến Miên, Lào có thắng lợi thì kháng chiến Việt
Nam mới hoàn toàn thắng lợi”. Người khẳng định “Chính phủ, Mặt trận và nhân dân
Việt Nam ra sức hết lòng, thành thực giúp đỡ Mặt trận nhân dân Lào, Miên một
cách không có điều kiện”; “Mà giúp nước bạn tức là tự giúp mình” nên “phải ra
sức giúp đỡ một cách tích cực, thiết thực hơn”. Trong quá trình giúp cách mạng
Lào, Người chỉ rõ, khi giúp bạn, phải nắm vững nguyên tắc dân tộc tự quyết.
Việc gì cũng phải đựơc Đảng và nhân dân Lào đồng ý rồi mới làm. Bởi vì, người
làm nên lịch sử Lào không ai khác chính là nhân dân Lào, cách mạng Lào phải do
nhân dân Lào tự làm lấy, sự nghiệp cách mạng Lào phải do Đảng Nhân dân cách
mạng Lào lãnh đạo. Tại Hội nghị Trung ương III (khóa II), Hồ Chủ tịch nêu rõ:
“cho đến nay chúng ta phải cố gắng giúp đỡ hơn nữa” và cũng từ đó, nhiệm vụ
giúp đỡ cách mạng Lào ngày càng được tăng cường, quan hệ đoàn kết Việt - Lào
càng thêm gắn bó, mật thiết.
Sau Hội nghị, thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, một số đảng viên của Đảng từ Việt Nam và Thái Lan đã sang hoạt
động xây dựng cơ sở cách mạng ở Lào, một số chi bộ cộng sản đã được thành lập ở
Savannakhet, Thakhek, Vientiane, và đến tháng 9/1934 Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông
Dương đã được thành lập tại Lào, chịu trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng
Lào. Đó là những mốc son lịch sử trong quan hệ Lào-Việt Nam; cuộc đấu tranh
cách mạng của nhân dân hai nước gắn bó với nhau và ngày càng phát triển trong
tình đoàn kết chiến đấu và tạo nên cơ sở cho tình đoàn kết đặc biệt giữa hai
Đảng và hai nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn gắn chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế vô sản; luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ mật thiết cách
mạng hai nước Lào - Việt Nam, nuôi dưỡng và phát huy sáng tạo sức mạnh chung
của nhân dân hai nước để cùng tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám ở Lào
cũng như thắng lợi Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam, giành độc lập cho nhân dân
mỗi nước năm 1945. Ngày 30/10/1945, hai nước đã ký Hiệp ước Hợp tác tương trợ
Việt - Lào. Với Hiệp ước này, quan hệ Việt - Lào đã chuyển sang một giai đoạn
mới, giai đoạn phát triển quan hệ đoàn kết giữa hai dân tộc anh em không chỉ
trong quan hệ giữa nhân dân hai nước, mà còn trên tầm quan hệ gắn bó giữa hai
nhà nước.
Chủ tịch Xuphanuvông đã khái quát ý nghĩa trọng đại
của sự kiện này: “Quan hệ Lào-Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên mới”, kỷ
nguyên của mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào-Việt Nam giúp đỡ nhau vì mục tiêu
chung của hai dân tộc. Cũng ngày 30/10/1945, Chính phủ hai nước quyết định
thành lập Liên quân Lào - Việt Nam.
Thắng lợi đó dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương là thắng lợi của nhân dân hai nước cùng chung lý tưởng, cùng chung mục
tiêu, đoàn kết gắn bó với nhau, cùng đấu tranh giành thắng lợi. Đó là bài học
lịch sử đầu tiên vô cùng quý giá trong lịch sử cách mạng giải phóng của hai dân
tộc anh em.
Bằng việc xây dựng hệ thống quan điểm và chỉ đạo thực
tiễn thực hiện liên minh đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa Việt Nam và Lào, cũng
như sự quan tâm, phát hiện và xây dựng nhân tố bên trong cho cách mạng Lào, đã
dẫn tới việc thành lập Đảng Nhân dân Lào ngày 22/3/1955, sau này là Đảng Nhân
dân cách mạng Lào (tháng 2/1972), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thật sự đã đặt
nền móng cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Đó là mối quan hệ vừa bảo đảm lợi ích dân tộc, vừa bảo
đảm kết hợp hài hòa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để cùng hướng tới
mục tiêu chung là giải phóng dân tộc và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Đúng như Chủ tịch Cay xỏn Phômvihản đánh giá: “Năm
1930, Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập đã ra đời, là
bước ngoặt lịch sử của cách mạng ba nước Đông Dương. Từ đó trở đi, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Mác-Lênin chân chính và với ngọn cờ cách mạng dân tộc, dân chủ
cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các bộ tộc Lào đã bước vào thời kỳ mới và
với chất lượng mới hoàn toàn.”
Điều đó càng chứng tỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
đóng góp về lý luận, đường lối, phương hướng cách mạng mà Người còn quan tâm
đến cả việc tổ chức, chỉ đạo thực tiễn cách mạng Lào.
Sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào trong
suốt nhiều thập kỉ qua gắn liền với tên tuổi, công lao to lớn của Chủ tịch
Cayxỏn Phômvihản. Sự cống hiến suốt cả cuộc đời mình cho dân, cho nước, cho
Đảng thể hiện phẩm chất tuyệt vời của Chủ tịch. Công lao và những cống hiến to
lớn của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản mãi mãi được ghi vào sử sách của Lào.
Chủ tịch Cayxỏn luôn nêu cao tinh thần quốc tế trong
sáng, đóng góp nhiệt tình vào sự nghiệp hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các
quốc gia, nhất là các quốc gia trong khu vực. Trong quan hệ quốc tế đó, đoàn
kết với Việt Nam luôn là nhân tố quan trọng và được Chủ tịch dày công vun đắp
mối quan hệ đặc biệt, liên minh chiến đấu thủy chung son sắt giữa Lào và Việt
Nam. Chính từ khói lửa của chiến tranh ác liệt vì độc lập tự do cho dân tộc
mình đã làm cho nhân dân hai nước, các chiến sĩ cách mạng và các nhà lãnh tụ
cao nhất của hai dân tộc gắn bó, kề vai sát cánh bên nhau và cùng nhau làm
cách mạng, đánh bại các lực lượng thù địch và tiến lên theo con đường đã lựa
chọn.
Trong suốt thời gian lãnh đạo cách mạng Lào, Chủ tịch
Cayxỏn Phômvihản luôn đánh giá cao vai trò của Việt Nam đối với sự nghiệp cách
mạng Lào. Trong các cuốn sách, trong các bài phát biểu của mình, Chủ tịch luôn
khẳng định chính sách trước sau như một của Đảng, Nhà nước, nhân dân Lào đối
với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Phát biểu tại Hội nghị rút kinh nghiệm
công tác tác chiến tại Lào, ngày 21/9/1965, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đã nói:
“Nhìn lại lịch sử 20 đấu tranh vừa qua, bất kể trong hoàn cảnh nào, ở đâu, hai
dân tộc anh em Lào - Việt Nam chúng ta luôn luôn sống chết có nhau, cùng nhau
làm cách mạng. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi chung của chúng
ta. Hai anh em chúng ta đồng cam cộng khổ, bát cơm chia đôi, cọng rau bẻ nửa,
sướng khổ có nhau, quan hệ giữa hai dân tộc là quan hệ đặc biệt”.
Sau khi hai nước hoàn toàn được giải phóng năm 1975,
quan hệ hai nước chuyển sang giai đoạn mới. Trong bài phát biểu chào mừng Đại
hội lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 15/12/1976, Chủ tịch Cayxỏn đã nói:
“Trong lịch sử cách mạng thế giới có nhiều tấm gương sáng về tình cảm quốc tế
vô sản, nhưng chưa có khi nào, chưa có ở nơi đâu có mối quan hệ đoàn kết chiến
đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như mối quan hệ Lào - Việt Nam. Mối quan hệ đó
đã trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng, mẫu mực, hiếm có và
ngày càng được củng cố, phát triển vững chắc. Chúng tôi nguyện hết lòng vun đắp
cho tình hữu nghị Lào - Việt Nam ngày một xanh tươi, đời đời bền vững”.
Về phía Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào đã dành phần
đất của mình để giúp Việt Nam xây dựng “Đường Hồ Chí Minh”, “xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước,” giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975 và tạo điều
kiện cho cách mạng Lào giành thắng lợi hoàn toàn và thiết lập nên nước Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Lào ngày 2/12/1975.
Tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt Lào - Việt Nam là
kết quả của việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng Cộng sản Đông
Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và Lào, là một
trong những thành quả cách mạng của hai dân tộc, do nhân dân hai nước cùng nhau
xây dựng nên và được xây đắp bằng công sức, xương máu của nhân dân hai nước.
Ngày 18/7/1977, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam
- Lào được ký kết, là cơ sở pháp lý quan trọng, đánh dấu mốc phát triển mới của
mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai
Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh bảo
đảm cho sự nghiệp xây dựng phát triển và bảo vệ đất nước của mỗi nước.
Trải qua hơn 40 năm thực hiện, nhất là từ khi hai nước
thực hiện công cuộc đổi mới, trong tình hình hội nhập với nhiều biến động, nhiều
khó khăn và thách thức do tác động của tình hình thế giới và khu vực, nhưng với
truyền thống tốt đẹp của mối quan hệ đặc biệt và dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam, quan hệ giữa hai nước ngày càng
được tăng cường, mở rộng và nhất định sẽ giành được những thắng lợi to lớn hơn,
chất lượng và hiệu quả cao hơn, thiết thực góp phần vun đắp cho mối quan hệ hữu
nghị đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Lào - Việt. Đó cũng là thành
quả được kết tinh từ lịch sử, từ sứ mệnh mà hai Đảng, hai dân tộc
đã chung sức, chung lòng, chung vai gánh vác qua những chặng đường đầy
khó khăn, gian khổ của cuộc đấu tranh giành độc lập và giải phóng
đất nước.
Chủ tịch Cay xỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: “Sông
có thể cạn, núi có thể mòn nhưng tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào
mãi mãi bền vững”, “quan hệ hữu nghị đặc biệt Lào - Việt Nam mãi mãi là tài sản
vô giá, là hành trang không thể thiếu của hai dân tộc trên con đường xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát
triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và
chính Người cùng đồng chí Cay xỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ
lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp; đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng
Cộng sản Việt Nam. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua
nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc
của hai dân tộc và nhân dân hai nước, đã trở thành quy luật sống còn và sức
mạnh kỳ diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh
giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nhân dân hai nước Việt Nam, Lào, quan hệ
đặc biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như
một, dù gian nan nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách được. Tính
chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam khác căn bản với các
quan hệ đối tác thông thường ở chỗ nó là quan hệ hợp tác toàn diện bao gồm cả
chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa... và ưu tiên, ưu đãi cho nhau cao hơn cả
các quan hệ song phương khác. Cần có một nhận thức thống nhất của cán bộ và
nhân dân hai nước về tính chất đặc biệt này. Cả hai bên cần có tầm nhìn rộng
hơn, toàn diện và lâu dài hơn chứ không chỉ ở các lợi ích kinh tế thuần túy và
ngắn hạn.
Với những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội sau hơn
30 năm tiến hành công cuộc đổi mới và những chuyển biến quan trọng trong quan
hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong những năm qua đã tạo
nên những điều kiện vật chất to lớn thúc đẩy việc tiếp tục tăng cường hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn mới.
CHỦ ĐỀ
4: Quan
hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam -Lào, Lào- Việt Nam từ năm
1976 đến nay. Ý nghĩa và tầm quan trọng
của Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (được ký kết ngày 18-7-1977)
Từ khi hai nước tiến hành đổi
mới vào năm 1986, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp
tục được củng cố, tăng cường và đạt những thành tựu rất lớn lao :
- Hợp tác trong lĩnh vực
chính trị và đối ngoại:
Từ năm 1988, cuộc gặp hàng
năm giữa hai Bộ Chính trị đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai
Đảng và hai Nhà nước. Biên bản thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị là văn kiện
quan trọng quyết định những phương hướng lớn của quan hệ hợp tác toàn diện Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong từng thời kỳ và hàng năm.Lĩnh vực hợp tác về đối
ngoại từ sau năm 1996 tiếp tục được tăng cường cả về chiều rộng cũng như chiều
sâu, đem lại nhiều kết quả khả quan. Trong khi triển khai đường lối độc lập, tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực, Việt Nam và Lào đều hết sức coi trọng quan hệ đặc biệt giữa hai
nước, cam kết giữ gìn và không ngừng phát triển truyền thống quí báu đó như một
qui luật phát triển và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của mỗi nước.
- Hợp tác trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh:
Từ cuối thập niên 80 và những năm đầu thập
niên 90 thế kỷ XX, giữa hai Chính phủ, giữa hai bộ chức năng là Bộ Nội vụ và Bộ
Quốc phòng của hai nước đều ký những hiệp định, những nghị định về hợp tác, hỗ
trợ nhau trong công tác bảo vệ an ninh và củng cố quốc phòng. Bộ Nội vụ và Bộ
Quốc phòng của cả hai nước đều rất coi trọng việc trao đổi thông tin và kinh
nghiệm xây dựng lực lượng, chống xâm nhập, chống bạo loạn và vô hiệu hóa các hoạt
động diễn biến hòa bình của kẻ địch. Trong mối quan hệ này, phía Việt Nam luôn
chủ động và đảm nhiệm gánh vác các công việc khó khăn nhất với phương châm
“giúp bạn là mình tự giúp mình”, “an ninh của bạn cũng chính là an ninh của
mình”... Việt Nam đã hợp tác với Lào củng cố và xây dựng được một lực lượng an
ninh Lào có chất lượng cao, đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ.Sự hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau giữa Việt Nam và Lào trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh đã tạo ra một
trong những nhân tố cơ bản thường xuyên, bảo đảm lợi ích trực tiếp về an ninh
và phát triển của mỗi nước, không chỉ tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh
và khả năng phòng thủ của mỗi bên mà còn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch, đồng thời góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đổi mới
ở hai nước.
- Hợp tác trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật:
Bước
vào thời kỳ đổi mới, quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước dần có sự thay đổi
theo hướng phát triển từ viện trợ không hoàn lại, cho vay là chủ yếu sang giảm
dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất kinh doanh bình đẳng
cùng có lợi; đồng thời, trong hợp tác đã chuyển dần từ hợp tác từng vụ việc
theo yêu cầu của phía Lào sang hợp tác theo chương trình, kế hoạch được ký kết
giữa hai Chính phủ.Trên cơ sở của tư tưởng chỉ đạo nêu trên, ngày 15 tháng 3
năm 1995, tại Hà Nội, Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học
- kỹ thuật đến năm 2000 được ký kết.
Trong chiến lược phát triển
kinh tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn là lĩnh vực kinh tế, xã hội
quan trọng được Đảng, Nhà nước ở hai nước ưu tiên phát triển hàng đầu. Bởi vì
nó không chỉ là thế mạnh tiềm năng sẵn có của Việt Nam và Lào, mà còn có ý
nghĩa then chốt đối với nền kinh tế của Lào.
Giáo dục và đào tạo luôn được hai Đảng, hai Nhà nước xác định là một nhiệm vụ quan
trọng, là lĩnh vực hợp tác chiến lược và là biểu hiện của mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam – Lào. Việt Nam coi việc đào tạo cho Lào một nguồn nhân lực có
trình độ cao là nhu cầu có tính chiến lược lâu dài, không những của Lào mà còn
phục vụ cho quá trình hợp tác của Việt Nam với Lào.
Về giao thông vận tải giai đoạn 1996 – 2000, hai bên đã cùng nhau tìm nguồn đầu tư nâng
cấp hệ thống đường thông thương nối liền hai nước, tạo điều kiện cho Lào thông
thương qua lãnh thổ và cảng biển Việt Nam ra các nước. Hai bên đã đầu tư quốc lộ
43 (Mộc Châu – cửa khẩu Pa Háng), 6B (Hủa Phăn), đầu tư xây dựng cửa khẩu Chiềng
Khương (Sơn La), quốc lộ 42 Lai Châu – Tây Trang – Phôngxalỳ). Cải tạo nâng cấp
Quốc lộ 9A, cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) - Xavẳnnakhệt; quốc lộ số 8 đi cửa khẩu
Cầu Treo (Hà Tĩnh) - Bolikhămxay; quốc lộ 7 đi cửa khẩu Nậm Cắn (Nghệ An) -
Xiêng Khoảng; quốc lộ 217 đi cửa khẩu Na Mèo (Thanh Hóa) và 6A (Hủa Phăn); Quốc
lộ 12A đi cửa khẩu Chalo (Quảng Bình) – Khăm Muộn. Cải tạo nâng cấp cảng Đà Nẵng,
cảng Xuân Hải và hoàn thành bến I cảng Vũng Áng để phía Lào sử dụng. Hai bên phối
hợp hoàn thành xây dựng cửa khẩu Cầu Treo và Nậm Phạo. Hai bên ký thỏa thuận về
nguyên tắc Việt Nam cho Lào vay ưu đãi xây dựng đường 18B tại Lào.
Hợp tác về thương mại: Những năm đầu đổi mới, ngành thương mại hai nước xúc tiến nghiên
cứu xây dựng đề án, tiến tới đầu tư xây dựng khu thương mại tự do Lao Bảo – Đen
Xávẳn, chuẩn bị xây dựng cửa khẩu quốc tế Cầu Treo – Na Pê, mở cửa khẩu phụ và
11 điểm chợ biên giới để thúc đẩy sản xuất và giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa
hai nước, đặc biệt là các vùng biên giới Việt Nam – Lào.
Hợp tác về đầu tư: Sau khi có Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương
giữa hai nước (ngày 14 tháng 1 năm 1996) và các qui định về đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài (năm 1999) cùng các thỏa thuận của hai Đảng
hai Nhà nước, hai bên có nhiều cố gắng chỉ đạo triển khai tới các ngành, địa
phương, cơ sở nhằm đẩy mạnh hợp tác đầu tư liên doanh trên lãnh thổ của nhau, tạo
nhiều điều kiện để trao đổi tìm hiểu cơ hội đầu tư kinh doanh cho các doanh nghiệp
hai bên. Các cuộc viếng thăm và làm việc của các đoàn cấp cao Đảng, Chính phủ,
các bộ, ngành hai nước; các cuộc hội thảo giữa doanh nghiệp hai nước do phía
Lào tổ chức (tháng 10 năm 1998) và Sứ quán Việt Nam tổ chức (tháng 6 năm 2000);
các hội chợ hàng hoá tại Lào không ngừng thúc đẩy những cơ hội hợp tác trong
lĩnh vực này. Về phía Việt Nam, Chính phủ đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ
trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam
Trong lĩnh vực năng lượng, điểm nổi bật trong giai đoạn 1986 – 1995 là hai bên đã phối hợp
chặt chẽ, khẩn trương thiết kế và thi công một số tuyến đường dây tải điện 35
KV từ Việt Nam qua Lào.
Hợp tác chuyên gia giai đoạn 1996 - 2000 không ngừng được củng cố, đổi mới và hoàn
thiện cả về cơ chế lẫn hình thức hợp tác. Theo yêu cầu của phía Lào, Việt Nam
đã cử 475 lượt chuyên gia tập trung vào các lĩnh vực kinh tế (63%), quốc phòng,
an ninh (28%) và các lĩnh vực khác. Trong những năm này, nhiều đoàn chuyên gia
vụ việc quan trọng của Việt Nam được cử sang Lào trao đổi và xử lý các vấn đề về
quản lý vĩ mô (1996), đổi mới doanh nghiệp (1998), tiếp nhận viện trợ (1999)...
Đặc biệt, sự có mặt kịp thời của Đoàn chuyên gia cao cấp Việt Nam giúp Lào chống
lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 1999, được phía Lào đánh giá có hiệu quả
cao và thiết thực.
- Hợp tác giữa các địa
phương và hợp tác biên giới:
Quan hệ hợp tác toàn diện và đa
dạng giữa các địa phương và hợp tác biên giới thực sự là nét nổi bật, tạo ra
nền tảng và chiều sâu của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới. Về chính trị, các tỉnh biên giới và các địa phương kết nghĩa
của hai nước đã cử nhiều đoàn đại biểu Đảng, chính quyền, đoàn thể và các
ngành, các cấp…duy trì các hoạt động đối ngoại chính thức, hoặc trao đổi kinh
nghiệm, thống nhất quan hệ hợp tác, giúp đỡ nhau trên các lĩnh vực. Công tác
đối ngoại nhân dân được chú trọng đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, cùng vun
đắp mối quan hệ đoàn kết đặc biệt thêm bền chặt. Đặc biệt, hai bên luôn quan
tâm và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên được tham gia các hoạt
động giao lưu, trao đổi để lớp lớp thế hệ mai sau luôn giữ gìn, bảo vệ và phát
triển tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, coi đó là
quy luật tồn tại, phát triển của hai nước.
CHỦ ĐỀ 6:
NHỮNG BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ
ĐOÀN KẾT, GẮN BÓ, THỦY CHUNG SON SẮT CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO DƯỚI SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TỪ KHI THIẾT LẬP MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO ĐẾN
NAY
Từ khi Đảng Nhân dân cách mạng Lào được
thành lập năm 1955, dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, mối quan hệ
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam càng được phát huy mạnh mẽ và biểu hiện hết sức
sinh động trên tất cả các lĩnh vực, không ngừng nâng cao theo sự phát triển của
phong trào cách mạng của hai nước. Trong những lúc cam go, gian khổ nhất, cán
bộ, đảng viên, quân và dân hai dân tộc vẫn sát cánh bên nhau với nghĩa tình
“hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng
chung và vì nền độc lập tự do của mỗi nước. Trong giai đoạn hoà bình với nhiều
điều kiện thuận lợi, hai dân tộc cũng không ngừng vun đắp mối quan hệ đoàn kết,
thủy chung, son sắt để cùng nhau tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Bài dự thi này xin nêu một số biểu hiện
sinh động của mối quan hệ đoàn kết, gắn
bó, thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt Nam - Lào dưới sự lãnh đạo của hai
đảng, hai nhà nước trong những năm qua:
1. Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà
nước, quân dân các dân tộc Việt Nam - Lào đoàn kết bên nhau, chung sức, chung
lòng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
Sau Hiệp định Giơnevơ, theo yêu cầu của
Chính phủ Kháng chiến Lào, Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết định để lại một bộ
phận chuyên gia tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào. Tổng số chuyên gia gồm 964 đồng
chí. Đây là lực lượng rất quan trọng đối với cách mạng Lào sau ngày đình chiến.
Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh Sầm
Nưa và Phôngxalỳ (là căn cứ tập kết của lực lượng cách mạng Lào), được sự chỉ
đạo phối hợp của Ban cán sự miền Tây, chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp đỡ
bạn xây dựng hai tỉnh thành các khu chiến đấu liên hoàn, đáp ứng tình hình thực
tế của từng địa bàn, khả năng tổ chức, quản lý của cán bộ Lào, đồng thời đề
phòng chiến sự lan rộng. Trong trường hợp bị chia cắt, từng khu có thể đảm bảo
độc lập tác chiến; đồng thời giúp bạn triển khai các mặt công tác chuẩn bị
chiến trường, củng cố cơ sở ở các địa phương tạo địa bàn vững chắc, ngăn chặn
địch tấn công. Nhờ đó, lực lượng Pathết Lào không chỉ đẩy lùi các đợt tấn công
lấn chiếm của quân đội Vương quốc Lào, mà còn mở trận đánh lớn thu thắng lợi,
diệt được nhiều địch và mở rộng vùng giải phóng, làm nức lòng nhân dân hai tỉnh
Sầm Nưa và Phôngxalỳ.
Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp Lào
lần thứ nhất, Việt Nam đã nhận đào tạo 330 cán bộ của Pa Thết Lào, nhằm chuẩn
bị lực lượng cho phong trào cách mạng cả nước. Bức thư của Ban chỉ đạo Đảng
Nhân dân Lào gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã khẳng định: “Trong kháng chiến cũng như trong đấu tranh thực hiện
hòa bình, thống nhất đất nước, cách mạng Lào luôn được sự giúp đỡ tận tình của
cách mạng Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam. Sỡ dĩ cách mạng Lào giành được
thắng lợi to lớn đó...cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của
cách mạng”.
Mặc dù Chính phủ liên hiệp với mục tiêu đem
lại hòa bình cho nước Lào đã được thành lập nhưng đế quốc Mỹ và tay sai vẫn ra
sức thi hành chính sách khủng bố đối với cán bộ cách mạng và những người có tư
tưởng hòa bình, tiến bộ. Nhiều cán bộ và thường dân Lào ở các tỉnh biên giới
chạy sang Việt Nam lánh nạn. Để tạo điều kiện giúp cách mạng Lào, ngày
13-12-1958, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra Chỉ thị
120-CT/TW, nêu rõ: Hết lòng giúp đỡ cho số cán bộ và thường dân Lào vì tránh
khủng bố mà chạy sang biên giới ta về mọi mặt tinh thần, vật chất theo khả năng
của ta. Nhận thức rõ nhiệm vụ quan trọng này, tại Quảng Trị, khi Tỉnh ủy
Savẳnnakhệt phải sang đóng ở A Vao (Hướng Hoá), bạn được Tỉnh ủy Quảng Trị,
nhân dân các dân tộc Hướng Hoá bảo vệ, cung cấp lương thực, thực phẩm suốt
trong thời gian lực lượng Pathet Lào bị bọn phản động Phu Mi và Cà Tày (thân
Mỹ) trở mặt phá bỏ Hiệp định Giơnevơ, truy lùng, khủng bố. Quảng Trị đã trở
thành căn cứ địa, hậu phương vững chắc của tỉnh bạn. Ở Thái Nguyên, trong lúc
tình hình kinh tế còn rất nhiều khó khăn, nhưng cán bộ, học sinh Lào ở đây vẫn
được cung cấp đủ tiêu chuẩn phụ cấp. Những việc làm tình nghĩa này càng làm cho
quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa hai Đảng, hai dân tộc thêm keo sơn,
gắn bó.
Về quân sự, Việt Nam không chỉ sát cánh bên
bạn trong thời kỳ đầu củng cố, phát triển lực lượng, xây dựng hậu cứ, cung cấp
vũ khí, quân trang mà còn phối hợp với bộ đội PaThết Lào đánh địch giành thắng
lợi oanh liệt. Từ ngày 18- 8 đến 15-9-1959, một số đơn vị quân tình nguyện Việt
Nam phối hợp với các đơn vị PaThết Lào mở đợt hai hoạt động trong mùa mưa.
Trong đợt hoạt động này, quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân
đội nhân dân Việt Nam, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực
lượng quân khu 4 tác chiến ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Liên huyện 90 và Khăm Muộn)
đã vận dụng nhiều hình thức tác chiến linh hoạt như phục kích, tập kích, bao
vây, bắn tỉa, địch vận, phá hoại cầu đường, đốt kho tàng địch, đánh cứ điểm
bằng đặc công kết hợp hoả lực...Đi đôi với tác chiến, các đơn vị tình nguyện
Việt Nam đã tích cực giúp Lào củng cố cơ sở, phát động nhân dân ủng hộ kháng
chiến, tham gia các lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ vùng mới giải
phóng. Các đơn vị tình nguyện phối hợp chặt chẽ với lực lượng PaThết Lào và
nhân dân địa phương đánh 40 trận, giải phóng thêm 13 điểm. Sau đợt hoạt động
này, các tiểu đoàn 1, 2, 4 PaThết Lào được lệnh rút ra hoạt động ở biên giới
Việt - Lào, sau đó sang tập trung ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) để chấn chỉnh lực
lượng. Theo yêu cầu của Trung ương Neo Lào Hắc Xạt, Bộ Quốc phòng Việt Nam giúp
xây dựng tiểu đoàn 1 và 2 PaThết Lào thành hai tiểu đoàn chủ lực mạnh, quân số
mỗi tiểu đoàn từ 650 đến 700 chiến sĩ; đồng thời bổ sung vũ khí, trang bị và cử
các tổ chuyên gia giúp hai tiểu đoàn về quân sự, chính trị và chuyên môn kỹ
thuật.
Khi cuộc kháng chiến của hai dân tộc ngày
càng phát triển, các trận đánh phối hợp giữa quân tình nguyện Việt Nam với bộ
đội PaThết Lào ngày càng có quy mô lớn hơn, nhịp nhàng và chặt chẽ hơn. Thực
hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), Việt Nam đã chi viện
pháo binh cho PaThết Lào, đồng thời tăng cường hoạt động uy hiếp Thà Khẹc, giúp
bạn bảo vệ thủ đô Viêng Chăn trước sự tấn công của địch. Cuối năm 1960, quân
tình nguyện Việt Nam phối hợp với bạn giải phóng Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng,
nối liền với Sầm Nưa, tạo căn cứ địa vững chắc để Chính phủ hợp pháp của Hoàng
thân Xuvănna Phuma đặt trụ sở chính thức ở Khăng Khay (Xiêng Khoảng).
Trên cơ sở thoả thuận giữa hai Đảng, ngày
9-1-1961, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam xác
định nhiệm vụ quốc tế của chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đối với cách
mạng Lào trong 5 năm 1961-1965 là: Giúp đỡ các lực lượng vũ trang cách mạng Lào
về chuyên gia quân sự, đào tạo cán bộ; củng cố, xây dựng vùng giải phóng và
phát triển lực lượng vũ trang của bạn; khi bạn có yêu cầu, tổ chức bộ đội tình
nguyện Việt Nam phối hợp chiến đấu với bộ đội bạn.
Trung ương Đảng hai nước cũng xác định: Lực
lượng PaThết Lào cần phối hợp chặt chẽ với quân tình nguyện Việt Nam, kiên
quyết đập tan các hoạt động phiêu lưu quân sự của địch, giữ vững vùng giải
phóng và các cơ quan đầu não của Trung ương Đảng Lào trong mọi tình huống.
Căn cứ nhiệm vụ trên, Bộ Tổng Tham mưu Quân
đội nhân dân Việt Nam quyết định biên chế thời chiến cho Sư đoàn 325, Lữ đoàn
341, Trung đoàn 224 thuộc Quân khu 4; Lữ đoàn 316, Lữ đoàn 335 và Trung đoàn
148 thuộc Quân khu Tây Bắc, sẵn sàng chi viện cho chiến trường miền Nam và chiến
trường Lào.
Trên tinh thần đó, các trận đánh phối hợp
giữa hai bên ngày càng đạt hiệu quả cao, thu thắng lợi giòn giã trên các chiến
trường như cuộc tiến công giải phóng đường 8, giải phóng huyện Xê Pôn
(Savẳnnakhệt), đẩy lùi các đợt tấn công của địch vào Xiêng Khoảng. Tiêu biểu là
chiến dịch Nặm Thà năm 1962, do Bộ tư lệnh chiến dịch Nặm Thà trực tiếp chỉ huy
với sự tham gia của các tướng lĩnh Việt Nam - Lào. Chiến dịch Nặm Thà đã làm
xoay chuyển tình thế có lợi cho cách mạng Lào, có ý nghĩa quan trọng về quân sự
và chính trị. Liên quân Lào - Việt không chỉ tiêu diệt được một bộ phận sinh
lực tinh nhuệ của địch vừa mới xây dựng, mà còn giáng đòn mạnh về chính trị,
đánh vào âm mưu của Mỹ và chính quyền tay sai Phumi Nôxavẳn, làm cho tinh thần
đội quân đánh thuê thêm hoang mang, dao động. Uy tín của Neo Lào Hắc Xạt, quân
đội PaThết Lào được nâng cao, khu giải phóng mở rộng thành căn cứ liên hoàn đến
tận biên giới Trung Quốc.
Sau Hiệp định Giơnevơ về Lào năm 1962, thực
hiện cam kết của mình, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định rút toàn bộ
quân tình nguyện Việt Nam và đại bộ phận chuyên gia quân sự về nước. Thời gian
này, Chính phủ liên hiệp Lào đã lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, tuy vậy,
Hoàng thân Xuvanuvông vẫn khẳng định: Người bạn cùng sống chết, chung một chiến
hào với ta chỉ có Việt Nam.
Năm 1963, tình hình cách mạng Lào gặp khó
khăn do đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai lật lọng âm mưu xóa bỏ Hiệp định
Giơnevơ. Trước yêu cầu của bạn, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam lại cử
chuyên gia và quân tình nguyện sang giúp đỡ. Điều đáng trân trọng, biểu hiện
tình cảm thủy chung giữa quân và dân hai nước là đoàn chuyên gia Việt Nam phần
lớn là các đồng chí đã từng hoạt động, chiến đấu trên đất bạn thời gian trước.
Cuối năm 1964, Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào mở “cuộc vận động thu phục phỉ” nhằm ổn định vùng giải phóng.
Việt Nam đã giúp Lào các sản phẩm thiết yếu như muối, vải, quần áo, thuốc men;
đồng thời tại Lào, các đơn vị tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã sát cánh
cùng quân, dân Lào triển khai có hiệu quả cuộc vận động trên. Nhiều ổ phỉ lâu
đời bị giải tán, tạo sự ổn định mọi mặt cho các vùng giải phóng.
Từ năm 1965, liên minh chiến đấu Việt - Lào
sát cánh bên nhau đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa
chiến tranh” ở miền Nam Việt Nam và chiến lược “chiến tranh đặc biệt” tăng
cường của đế quốc Mỹ tại Lào.
Trước tình hình đế quốc Mỹ đánh phá vùng
giải phóng Lào quyết liệt, đồng thời mở các chiến dịch ngăn chặn, cắt đứt tuyến
đường Hồ Chí Minh; dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, quân tình nguyện và chuyên
gia Việt Nam tại Lào không quản gian khổ, hy sinh chiến đấu anh dũng, kiên
cường cùng quân, dân Lào bảo vệ vùng giải phóng, tuyến hành lang chiến lược và
mở các chiến dịch tấn công địch giành thắng lợi to lớn. Có những cuộc chiến đấu
diễn ra gay go, ác liệt, lực lượng tuy mỏng nhưng quân tình nguyện Việt Nam vẫn
đặt lên trên hết nhiệm vụ bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào. Năm 1969, quân tình
nguyện Việt Nam cùng Pa Thết Lào tổ chức chiến dịch phản công cuộc hành quân Cù
Kiệt đánh ra Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng của địch. Tại khu vực điểm cao 1505,
Lạt Huồng, sau khi địch dùng trực thăng đổ quân xuống chiếm Phu Tôn, Cang Xẻng
- Phu Hủa Xàng, chúng dùng cối 106,7 ly và pháo 105mm từ trung tâm Cánh đồng
Chum bắn phá ác liệt các điểm cao xung quanh. Tiểu đoàn 924 thuộc Trung đoàn
866 quân tình nguyện Việt Nam đã kiên quyết giữ vững cao điểm 1505, Bạn Thặm,
đồng thời giúp nhân dân và cơ quan bạn sơ tán ra khỏi khu vực. Tuy lực lượng
chiến đấu có hạn nhưng các đại đội vẫn cử ra một số tổ công tác để hướng dẫn và
giúp dân sơ tán. Trong bom đạn ác liệt, bộ đội tình nguyện đã chiến đấu quên
mình, giúp đỡ nhân dân, nhường áo xẻ cơm, sẵn sàng xông pha vào những nơi nguy
hiểm để bảo vệ nhân dân. Ở xưởng may của tỉnh Xiêng Khoảng, khi địch càn đến
gần, anh chị em công nhân được lệnh di chuyển nhưng có một chị tàn tật không đi
được phải bò vào rừng lán nạn. Biết tin đó, tổ công tác của trong đoàn đã vào
rừng tìm kiếm, cứu được chị đưa về nơi sơ tán an toàn. Trong những ngày ác liệt
này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp với các cơ sở Đảng, chính quyền đưa hơn 16.000
dân và gia đình cán bộ sơ tán qua Mường Xéng, Kỳ Sơn (Nghệ An). Nhân dân Nghệ
An nhiệt tình đón tiếp, nhường áo xẻ cơm, cùng nhân dân Lào xây dựng nhà cửa,
bệnh xá, trường học, ổn định cuộc sống nơi sơ tán. Những tấm gương sáng, quên
mình của bộ đội tình nguyện, sự đón tiếp tận tình của nhân dân Nghệ An trong
những ngày gian khó này đã góp phần làm cho tình đoàn kết chiến đấu của quân
dân Việt Nam - Lào càng thêm keo sơn, gắn bó.
Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971 là
minh chứng vô cùng sống động về mối quan hệ Việt - Lào thắm thiết, ruột thịt.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng hai nước, dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở, đồng bào các bản, làng, mường
Việt Nam và Lào trên địa bàn dự kiến sẽ diễn ra chiến dịch đã tham gia hết sức
hăng hái vào mọi công việc chuẩn bị. Ngày ngày, trên khắp những nẻo đường hành
quân, nhân dân Quảng Trị cùng nhân dân các bộ tộc Lào không quản mưa rừng, thác
lũ sát cánh cùng các đơn vị bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong bạt núi, mở
đường, đào đắp, vận chuyển hàng vạn mét khối đất đá, xây dựng cầu cống; truy
bắt lực lượng thám báo địch bảo vệ sự an toàn và bí mật cho chiến dịch; tích
cực tham gia xây dựng các trận địa bắn máy bay và vận chuyển các loại vũ khí,
đạn dược, hàng hóa vào các vị trí tập kết đúng kế hoạch. Xe trâu, xe bò, xe đạp
thồ...là cả gia tài đối với đồng bào nơi đây nhưng khi cách mạng cần, bà con
sẵn sàng đóng góp để phục vụ yêu cầu vận chuyển đạn được, quân trang, quân
nhu...Những chàng trai, cô gái Vân Kiều, Pa Cô và các bộ tộc Lào cùng trang lứa
với sức trẻ và lòng nhiệt huyết cách mạng đã đưa năng suất gùi thồ lên 90-100kg
mỗi chuyến. Nhiều người tuy sức khoẻ yếu hay vừa chữa lành vết thương vẫn xung
phong đi phục vụ chiến dịch; có em nhỏ mới 13-14 tuổi đã tình nguyện đóng góp
sức mình vào việc khuân vác, chặt cây ngụy trang mặt đường, làm liên lạc...
Đang làm nương rẫy, dân bản thấy bộ đội hành quân liền tìm cách gây tiếng ồn để
át tiếng động của các đoàn quân, tránh sự phát hiện của thám báo địch. Thi
thoảng, người dân ra bờ suối vắng thấy những vết chân bộ đội in trên cỏ ướt đã
bảo nhau lùa trâu, bò ra để xáo trộn, xoá đi. Một số đồng bào bị địch bắt,
chúng dụ dỗ, mua chuộc hay tra tấn dã man, vẫn kiên quyết không khai báo, sắt
son một lòng một dạ trung thành với cách mạng.
Khi chiến dịch diễn ra ác liệt, trước yêu
cầu phục vụ chiến trường, bà con dân tộc Việt Nam và Lào nơi đây tiếp tục tự
nguyện phối hợp với cùng các lực lượng vận tải tham gia vận chuyển vũ khí, đạn
dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men phục vụ bộ đội. Có những đoạn đường địch
đánh phá dữ dội suốt ngày đêm, nhưng từng đoàn người gùi lương, tải đạn vẫn
không ngừng toả đi các hướng về nơi bộ đội đang chờ. Nhiều nơi, đồng bào tự
nguyện chỉ ăn củ mài và rau rừng, dành cho các chiến sĩ những hạt gạo, lát sắn,
củ khoai cuối cùng để “ăn no mà đánh thắng giặc Mỹ”.
Từng đoàn dân công là con em các dân tộc
ngày đem gùi lương, tải đạn ra chiến trường, rồi lại tham gia vận chuyển thương
binh về tuyến sau. Nhiều thôn, bản thành lập các đội đi tìm kiếm chôn cất cán
bộ, chiến sĩ hy sinh. Bom đạn địch chà xát, tàn phá nhà cửa, nương rẫy nhưng
không thể nào làm phai nhạt tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc, tình quân
dân thắm thiết, thủy chung. Đó là nhân tố làm nên chiến thắng đường 9 - Nam Lào
vang dội của quân và dân hai nước.
Tinh thần đoàn kết, tình cảm thủy chung,
gắn bó keo sơn của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Việt Nam với dân tộc Lào anh em
đã được Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản nêu rõ: Nhiều đồng chí Việt Nam đã hy sinh
trên chiến trường Sầm Nưa, Cánh đồng Chum...Nhiều cán bộ Việt Nam đã sang Lào
hoạt động từ lúc cách mạng mới bắt đầu cho đến khi tóc đã bạc, coi nhân dân Lào
như nhân dân của mình, coi sự nghiệp cách mạng Lào như sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Đối với Việt Nam, sự hết lòng yêu quý, giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào
luôn là nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội tình
nguyện và các chuyên gia Việt Nam. Đặc biệt, nhân dân Lào đã cùng chia sẻ với
nhân dân Việt Nam trước bom đạn ác liệt của giặc Mỹ, tạo mọi điều kiện để bộ
đội Việt Nam mở đường Trường Sơn và mở các chiến dịch lớn, góp phần giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.
2. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là
biểu hiện vô cùng sinh động mối quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt giữa hai
dân tộc Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Tháng 9-1959, theo yêu cầu của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập đoàn
959 chuyên gia giúp Lào ở mặt trận Hạ Lào. Cũng trong thời gian này, Bộ Quốc
phòng quyết định thành lập đoàn 559 với nhiệm vụ mở đường, vận chuyển vật chất,
đưa đón cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời vận chuyển vào bảo
đảm hậu cần cho đoàn 959 chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn Lào.
Khi phát hiện ra tuyến đường vận tải chiến
lược quan trọng này, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã kết hợp các lực lượng
không quân, bộ binh với phương tiện chiến tranh hiện đại liên tục đánh phá. Các
đơn vị vận tải bị kẹt lại, không qua được đường 9. Trước tình hình đó, trên cơ
sở quan hệ truyền thống vốn có giữa hai dân tộc, yêu cầu khách quan cần gấp rút
chi viện cho chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia, hai Đảng, hai Chính phủ
thống nhất mở thêm đường phía Tây Trường Sơn chạy trên đất Lào. Từ tháng
4-1961, dưới sự giúp đỡ của các đơn vị tình nguyện Việt Nam, lực lượng cách
mạng Lào đã mở nhiều đợt hoạt động quân sự ở miền Trung và Hạ Lào, giải phóng
một vùng rộng lớn từ Căm Cớt, Lắc Xao đến Mường Phìn, Sê Pôn, Bản Đông, nối
đường 12 với đường 9, nhanh chóng tạo thành một hành lang dài và rộng theo
chiều Đông - Tây. Toàn bộ 6 mường của Lào ở Bắc và Nam đường số 9 được giải
phóng.
Năm 1963, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
tiếp tục đưa quân bao vây, đồng thời đánh phá quyết liệt tuyến vận tải phía
đông Trường Sơn. Trước tình hình đó, được sự lãnh đạo của hai Đảng, quân tình
nguyện Việt Nam và bộ đội Pa Thết Lào quyết định mở chiến dịch 128 giải phóng
toàn bộ vùng cao nguyên Trung Lào có biên giới chung với Việt Nam dài trên
700km. Thắng lợi của chiến dịch 128 đã tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển toàn
bộ đường vận tải sang hướng Tây trên đất Lào.
Trong quá trình này, bộ đội tình nguyện,
đoàn chuyên gia cố vấn Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã
thường xuyên phối hợp với quân khu Trung - Hạ Lào, Đảng bộ và chính quyền 7
tỉnh có đường Hồ Chí Minh xuyên qua tổ chức khảo sát địa hình, phối hợp mở
đường và chiến đấu bảo vệ căn cứ và tuyến đường chiến lược, tổ chức đánh địch
tại chỗ, giải phóng đất đai, mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện để tuyến
đường được mở rộng và phát triển.
Để có con đường chiến lược với hơn
20.000km, các chiến sĩ, lực lượng thanh niên xung phong và nhân dân Việt Nam
cũng như nhân dân Lào đã đổ bao mồ hôi, xương máu, của cải và hàng ngàn người
đã ngã xuống để xây dựng, bảo vệ và vận chuyển hàng hóa, nhân lực phục vụ cuộc
kháng chiến chống Mỹ của hai nước Việt - Lào.
Đối với cách mạng và nhân dân Lào, từ khi
mới hình thành cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, đường Hồ Chí Minh đi qua 17 mường (huyện) ở Trung và Nam Lào với tổng
chiều dài hàng ngàn km. Trong 16 năm (1959-1975), đế quốc Mỹ đã rải xuống các
cánh rừng dọc tuyến đường hàng triệu tấn bom các loại, hàng ngàn tấn chất độc
hóa học và nhiều thiết bị điện tử tinh vi nhằm phát hiện, ngăn chặn lực lượng
vận tải chiến lược. Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Nam Việt Nam, Lào,
Campuchia còn sử dụng lực lượng lớn quân đội và vũ khí đánh vào các vùng thuộc
hành lang của tuyến đường, quy mô lớn nhất là chiến dịch Lam Sơn 719 với 20.000
quân Sài Gòn cùng sự yểm trợ của 9.000 quân Mỹ, 2.000 máy bay các loại đánh vào
khu vực Đường 9 - Nam Lào. Riêng năm 1969, máy bay Mỹ đã đánh phá hàng nghìn
trận vào 180 bản làng của đồng bào các dân tộc Lào dọc tuyến đường Hồ Chí Minh,
thiêu hủy 845 nóc nhà, giết hại 482 người, làm bị thương 344 người, phá 337
nương rẫy. Bất chấp sự hủy diệt tàn bạo và những âm mưu thâm độc của kẻ thù,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân các bộ tộc Lào đã
hết lòng giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong việc mở đường, bảo vệ tuyến đường và vận
chuyển hàng hóa phục vụ chiến trường. Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng đánh
phá, nhân dân 17 huyện thuộc 7 tỉnh của Lào trên mảnh đất Tây Trường Sơn đã tự
động dời nhà, bỏ nương rẫy đi vào rừng sâu sinh sống. Bộ đội và du kích Lào
phối hợp chặt chẽ với bộ đội Việt Nam đánh trả máy bay địch, ngăn chặn các cuộc
hành quân lấn chiếm, tập kích của chúng. Nhân dân Lào còn đóng góp hàng triệu
ngày công cùng bộ đội và lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam làm mới, sửa
chữa đường xá, vận chuyển lương thực, thương bệnh binh, góp phần vào mọi hoạt
động của tuyến đường Hồ Chí Minh.
Không thể kể hết những tình cảm quý báu của
nhân dân các bộ tộc Lào dành cho các chiến sĩ, cán bộ Việt Nam. Năm 1964, địch
đánh phá ác liệt, thời tiết phức tạp khiến việc vận chuyển hàng hóa và dẫn quân
của đoàn 559 trên tuyến tây Trường Sơn gặp rất nhiều khó khăn. Có thời điểm
đường bị tắc, khách qua tuyến dồn ứ hàng ngàn người ở các trạm giao liên gần
một tháng. Việc đảm bảo lương thực, thực phẩm cho bộ đội trở thành vấn đề “nước
sôi, lửa bỏng”. Trước tình hình đó, chỉ huy đoàn 559 cùng đoàn chuyên gia 763 ở
Hạ Lào trực tiếp đề xuất với Tỉnh ủy Távên Oọc của Lào vận động nhân dân địa
phương giúp đỡ. Với tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, nhân dân tỉnh Távên
Oọc, đặc biệt là các huyện Cà Lươn, Xê Camản...nhanh chóng thu gom thóc, giã
gạo phục vụ bộ đội Việt Nam. Mặc dù là địa phương nghèo, nhân dân sống phân
tán, nhưng chỉ trong vòng nửa tháng, bạn đã huy động được hơn 30 tấn lương
thực, góp phần quan trọng giải quyết khó khăn cho đoàn 559.
Nhờ sự phối hợp liên minh này mà hàng hoá
không còn bị ứ đọng trên tuyến đường 9, vào chiến trường miền Nam và nước bạn
thông suốt, kịp thời. Tuy nhiên, sức người có hạn, việc vận chuyển hàng hoá còn
phải dựa vào voi, trâu, bò... Bà con dân tộc đông - tây Trường Sơn rất quý voi,
coi voi là thần, là tượng trưng cho sự giàu có, danh giá. Làng nào có voi rất
tự hào. Thế nhưng khi cách mạng cần, nhân dân cả Việt - Lào đều sẵn sàng hiến
voi, đưa voi ra trận tuyến.
Trong những năm ác liệt, gian khó đó, điều
quý nhất ở bạn là tấm lòng chân thật, trong sáng, ngay thẳng, không nề vất vả,
hy sinh và tuyệt đối tin tưởng vào cán bộ, bộ đội. Bà con dân tộc Lào ở đây đã
nói với cán bộ, bộ đội Việt Nam rằng: “Tao đói còn đi đào được củ rừng để ăn.
Tụi mày làm cách mạng còn phải đi làm mãi. Củ sắn, lúa chúng tao dành cho chúng
mày…”. Bà con Mường Noòng 3 năm không có muối phải ăn tro từ rễ tranh đốt ra.
Đến khi ta đưa muối sang, liền nhắc công ơn cụ Hồ. Có người chưa hề thấy ảnh
Bác, hỏi cụ Hồ có phải như ông Voi không? ông trời không? Những lúc giáp hạt,
bị cái đói hành hạ, bà con dắt nhau đi tìm rau rừng, xuống khe bắt ốc sống cầm
hơi, không hề nghĩ đến việc lấy một lưng gạo, hạt muối ở các kho lương thực,
thực phẩm của các binh trạm đặt giữa rừng trên đất bạn.
Trong những năm tháng khó khăn hay trong
những trận đánh ác liệt, nhiều bà mẹ, gia đình Lào trong khi cuộc sống còn rất
thiếu thốn vẫn chắt chiu từng bát gạo để nuôi dưỡng thương binh, vượt qua bom
đạn của địch đưa rau, gạo, thuốc men đến các binh trạm trên tuyến đường để trao
tận tay cho các chiến sĩ Việt Nam.
Đáp lại lòng quý mến và đùm bọc của nhân
dân Lào trên dọc tuyến đường Trường Sơn, các đơn vị bộ đội Việt Nam đã tích cực
cùng với bộ đội PaThết Lào chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ nhân dân
các bộ tộc Lào, giúp đồng bào tăng gia sản xuất, cứu đói cho dân khi gặp thiên
tai, địch họa. Bộ đội Việt Nam trên tuyến đường Hồ Chí Minh còn giúp nhân dân
Lào xây mới một số tuyến đường liên bản, liên xã, liên huyện, góp phần cải
thiện đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội vùng giải phóng. Chính vì
vậy, tuy phải chịu đựng hy sinh, gian khổ, nhưng nhân dân các bộ tộc Lào dọc
tuyến đường vẫn hết lòng yêu thương, ủng hộ quân đội cách mạng hai nước.
Nhờ có con đường chiến lược Hồ Chí Minh,
tính chung trong vòng 16 năm (1959-1975), tuyến giao thông vận tải quân sự
Trường Sơn đã vận chuyển được 1.349.000 tấn hàng hóa, vũ khí, trong đó giao cho
các chiến trường và cách mạng Lào, Campuchia hơn 583.000 tấn, 515 triệu m3 xăng
dầu. Riêng 4 tháng trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975,
tuyến vận tải 559 qua đường Hồ Chí Minh đã chuyển vào miền Nam Việt Nam hơn
110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn vật chất các loại, đưa sang Lào
(1973-1975) trên 108.000 tấn hàng.
Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trở
thành biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết chiến đấu, mối quan hệ thủy chung
son sắt của hai dân tộc Việt - Lào trong trường kỳ đấu tranh giải phóng dân
tộc.
3. Quan hệ hữu nghị đoàn kết giữa hai dân
tộc Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam càng phát triển sống động trong giai đoạn
hoà bình, xây dựng đất nước phồn vinh, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc
Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước
đều nhận thức rõ việc củng cố, mở rộng và phát triển một cách toàn diện mối
quan hệ Việt Nam - Lào là yêu cầu tất yếu. Vì vậy, hai nước nhanh chóng đi đến
ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vào tháng 7-1977, đặt cơ sở pháp lý vững
chắc, lâu dài cho quan hệ hai nước trong thời kỳ mới. Trên tinh thần chỉ đạo
của Trung ương Đảng và Chính phủ, quan hệ Việt Nam - Lào nhanh chóng được triển
khai thông qua các tổ chức đoàn thể nhân dân và các ban, ngành, địa phương với
nhiều hình thức sáng tạo, phong phú, phù hợp với đặc điểm của từng ngành, từng
địa phương. Ngành thông tin, tuyên truyền, báo chí xuất bản của hai nước tăng
cường các hoạt động tuyên truyền nhân những ngày lễ trọng đại của hai dân tộc
làm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan
trọng, nội dung mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong giai đoạn mới của cách
mạng.
Đi đôi với quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau giữa hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương, giữa các tỉnh Việt
Nam với 12 tỉnh và thành phố của Lào cũng có nhiều hình thức hợp tác, giúp đỡ
lẫn nhau phong phú và hiệu quả.
Các tổ chức hội hữu nghị trên nhiều lĩnh
vực với hàng nghìn hội viên từ Trung ương đến cơ sở ra đời, nhiệm vụ chủ yếu là
giới thiệu, thông tin cho các tầng lớp nhân dân hai nước về lịch sử đất nước,
con người, nền văn hóa, thành tựu xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cầu nối vận
động và thúc đẩy các hoạt động hữu nghị, hợp tác và giao lưu kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật một cách có hiệu quả, thiết thực; tổ chức các đoàn hữu nghị,
giao lưu, trao đổi thông tin với các tổ chức xã hội - kinh tế - văn hóa của hai
nước.
Đặc biệt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
các tỉnh ngày càng thắt chặt phát triển thành quan hệ kết nghĩa; không
chỉ dừng lại ở 10 tỉnh có đường biên giới chung mà còn mở rộng ra các tỉnh,
thành phố khác như thủ đô Hà Nội với Viêng Chăn...Tại các tỉnh có đường biên
giới chung, quan hệ kết nghĩa phát triển đến tận cơ sở, đó là kết nghĩa huyện
với huyện, bản với bản trên cơ sở phát huy và duy trì mối quan hệ đoàn kết, hợp
tác truyền thống láng giềng tốt đẹp, bảo đảm an ninh xã hội vùng biên, giải quyết
tốt những vấn đề nảy sinh, chủ động phối hợp tìm kiếm hài cốt liệt sĩ quân tình
nguyện Việt Nam trên đất Lào.
Tại
Quảng Trị, quan hệ kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới ngày càng đi vào chiều
sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đến nay toàn bộ 23/23 cặp bản đối diện của tỉnh
Quảng Trị với hai tỉnh Savẳnnakhệt và Xalavăn của Lào đã tổ chức kết nghĩa. Đây
là việc làm đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân hai bên biên giới, góp
phần gìn giữ và phát huy quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc mãi mãi về
sau.
CHỦ
ĐỀ 7: Những kinh nghiệm quý báu về việc gìn giữ, củng cố, phát huy truyền thống
hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào
Thứ nhất, phải xác định đúng đắn hệ thống quan
điểm lí luận về mối quan hệ dân tộc và quốc tế trong thời đại mới giữ vai trò
quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt
Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Từ khi bị thực dân Pháp xâm lược
và thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam và Lào, nhân dân hai nước đã giúp đỡ
nhau chống kẻ thù chung tại một số vùng và một số cuộc khởi nghĩa; chưa xuất
hiện lý luận dẫn đường và cơ quan lãnh đạo quan hệ đoàn kết của hai dân tộc.
Với
trách nhiệm cao đối với cách mạng Đông Dương và năng lực sáng tạo lý luận cách
mạng kiệt xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất những quan điểm cơ bản về cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Campuchia, Lào, bao hàm cả nội dung quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào. Đó là cách mạng của các dân tộc ở Đông Dương được tiến
hành theo quan điểm cách mạng triệt để, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và giải phóng con người. Sức mạnh tạo nên thắng lợi của sự nghiệp đó là khối
đại đoàn kết nhân dân Đông Dương và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Người nhấn mạnh, phải hết sức tôn trọng nguyên tắc "dân tộc tự
quyết", quyền độc lập, tự do của các dân tộc ở Đông Dương. Và phải coi
việc Việt Nam giúp cách mạng Lào là thực hiện nghĩa vụ quốc tế, hơn thế nữa đó
là giúp bạn là mình tự giúp mình.
Hai Đảng, hai dân tộc Việt Nam,
Lào coi đó là nền tảng tư tưởng và phương pháp ứng xử của quan hệ Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam. Những quan điểm trên thể hiện rõ ràng, đúng đắn nguyên tắc
dân tộc tự quyết và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, biến những hy sinh cao cả mà
hai bên dành cho nhau như là lẽ sống bình dị. Tư duy và hành động đó càng có ý
nghĩa khi ngày nay trên thế giới xuất hiện xu thế hòa bình, độc lập, dân chủ,
hợp tác và phát triển, nhưng vẫn diễn ra những cuộc đấu tranh dân tộc, chiến
tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh kinh tế
rất phức tạp.
2-
Xác định nội dung, phương thức xây dựng quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam là cơ sở thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do hai bên xác lập.
Trên cơ sở những quan điểm,
nguyên tắc và phương pháp tiến hành liên minh, hợp tác giữa hai dân tộc, hai
bên cùng ra sức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do lãnh đạo cấp cao Việt Nam,
Lào đề ra với sự cố gắng cao nhất của mình và thu được nhiều thắng lợi rực rỡ.
Tại cuộc Hội đàm giữa đại diện hai Trung ương Đảng năm 1971, đồng chí Cayxỏn
Phômvihản nói: "tuy Việt Nam có khó khăn nhưng đã không tiếc gì với Lào,
chính cái đó đã góp phần tăng cường đoàn kết giữa hai Đảng. Đây là quan hệ đặc
biệt trên thế giới không đâu có”. Cảm ơn và đáp lại lời nói chân tình đó của
đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Nhân dân Việt Nam hy
sinh xương máu cho cách mạng Lào, nhân dân Lào cũng hy sinh tính mạng và của
cải để giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Hai Đảng, hai dân tộc chúng ta giúp đỡ lẫn
nhau, nếu chỉ thấy sự giúp đỡ của một bên là không đúng. Đảng chúng tôi luôn
luôn giáo dục cho cán bộ, đảng viên Việt Nam hiểu rõ điều đó”.
Trong những năm tháng cùng nhau
hoạt động, cán bộ và nhân dân Việt Nam, Lào luôn luôn tôn trọng độc lập, chủ
quyền, phong tục tập quán của nhau, tin yêu giúp đỡ nhau; thật lòng tự phê
bình, phê bình để cùng tiến bộ và phát triển nội lực của mỗi bên… Do vậy, những
thành quả cách mạng của hai nước cũng in đậm giá trị cách mạng và nhân văn của
quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, không chỉ cho hiện tại mà cần bảo vệ,
phát huy cao hơn nữa trong tương lai.
3- Tình cảm cách mạng thủy chung,
trong sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào là một
nhân tố trọng yếu tạo nên độ bền vững và phát triển của mối quan hệ Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam.
Hiện thực lịch sử cho thấy độ bền
vững và phát triển của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam chịu tác động
quan trọng và trực tiếp của tình cảm thủy chung, trong sáng của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Tình cảm đó bắt nguồn từ đạo đức cách
mạng của đảng viên, từ phẩm chất trong sạch, và năng lực tương xứng với nhiệm
vụ của người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân mà Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào cần giữ gìn và phấn đấu thực
hiện như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Trong môi trường hoạt động hiện
nay của đảng viên, có nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy cám dỗ tiêu cực. Tất cả
đều đòi hỏi ở sự tự giác của mỗi đảng viên và sự giáo dục, kiểm tra của tổ chức
Đảng, gắn liền với việc giữ vững các nguyên tắc xây dựng Đảng và nâng cao bản
lĩnh, năng lực lãnh đạo của Đảng; đồng thời cần nhận thức đầy đủ và thực hiện
đúng trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ, phát triển quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam vì lợi ích quốc gia và quốc tế.
4- Khai thác, phát huy các nhân
tố, điều kiện cần thiết để xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam.
Việt Nam và Lào sống bên nhau tại
hai triền Đông và Tây Trường Sơn hùng vĩ, rất thuận lợi cho sự phát triển phong
phú của động vật, thực vật lại được bổ sung bởi nhiều hang động, rừng nguyên
sinh kỳ thú, thuận lợi cho du lịch. Nơi đây có nhiều sông suối chảy dốc từ núi
cao đổ xuống, tạo lợi thế cho khai thác thủy điện. Trường Sơn còn là một tường
thành vững chắc cho quân dân hai nước nương tựa nhau chống giặc ngoại xâm.Về
kinh tế, hai nước có thể bổ sung cho nhau thế lợi về biển cả của Việt Nam,
đường bộ của Lào đi sâu vào lục địa châu Á, cùng các nguồn tài nguyên phong phú
do mỗi nước quản lý.
Ngoài những điều kiện trên, hai
nước Việt Nam, Lào có một ưu thế nổi trội vô cùng quý giá là quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà hai Đảng, hai dân tộc cần luôn luôn vun đắp,
bảo vệ và phát huy trong mọi hoạt động chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc phòng
an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo dục đào tạo nhân lực, nhân tài.
Chủ đề 9: Một
số nét về đất nước, con người và văn hóa Lào
(Trích nguồn từ Tập quán và lễ hội cổ truyền các dân
tộc Lào, tác giả Nguyễn Văn Vinh, do Nxb.TpHCM phát hành năm 2000.)
-
Vị trí địa lý
Nước
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào nằm sâu trong lục địa thuộc khu vực Đông Nam châu
Á giữa vĩ tuyến 14 và 25,5 độ bắc. Với diện tích 236.000 km2, toàn bộ lãnh thổ
Lào chạy dài theo sông Mê-kông, có đường biên giới chung với 5 nước. Phía Đông
giáp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phía Tây có đường biên giới chung với
vương quốc Thái Lan khoảng 1.600km, trong đó có hai dải đất nằm bên hữu ngạn
sông Mê-kông là tỉnh Xay-nhạ-bu-li ở cực Bắc và một huyện thuộc tỉnh
Chăm-pa-sắc ở cực Nam. Đường biên giới Lào – Thái hiện nay là do sự phân chia
thuộc địa giữa thực dân Anh – Pháp vào giữa năm 90 của thế kỷ XIX. Từ năm 1902
đến trước năm 1945 lại qua nhiều lần điều chỉnh giữa thực dân Pháp và Thái Lan.
Phía Đông Bắc giáp vùng đồi núi Vân Nam Trung Quốc. Phía Nam giáp Cam-pu-chia,
có đường biên giới chạy dài từ dãy núi Đăng-rếch đến gần Trường Sơn.
Nước
Lào có địa hình đa dạng, gồm núi đồi, cao nguyên, thung lũng và đồng bằng. Núi
đồi, cao nguyên chiếm ¾ diện tích cả nước và tập trung phần lớn ở phía Bắc. Từ
sông Nậm-kạ-đinh trở lên là địa phận Bắc Lào, nơi có những dãy núi lớp lớp
trùng điệp, có đỉnh Phu-bia cao nhất nước (2.817m). Từ vùng biên giới phía Đông
Bắc và Tây Bắc nước Lào có hai dãy núi lớn chạy theo hướng Đông Bắc-Tây Nam và
Tây Bắc-Đông Nam rồi hạ thấp dần xuống hình thành một chuỗi cao nguyên
Hủa-phăm, Cánh đồng Chum ở phía Bắc đến tận cao nguyên Bô-lô-ven ở phía Nam. Từ
sông Nậm-kạ-đinh trở xuống là miền Trung và Nam Lào, địa hình thoai thoải về
phía Tây. Như vậy, địa hình nước Lào hình thành hai chiều dốc Bắc-Nam ở phía
Bắc, Đông-Tây ở phía Nam. Độ dốc trên quyết định hướng chảy của toàn bộ hệ
thống sông suối và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra không ít trở ngại
cho giao thông trong nước nhất là ở phía Bắc.
Nằm
giữa hai dãy núi phía Đông và Tây ở miền Bắc là cao nguyên Cánh đồng Chum có độ
cao từ 1.200 đến 1.500m so với mặt biển. Đây là cao nguyên lớn nhất nước Lào,
cả ba phía Đông, Tây, Bắc đều có núi bao bọc. Trên cao nguyên có những khu rừng
rậm, rừng thông, đồng cỏ rộng lớn. Giữa cao nguyên có một số cánh đồng nhỏ đất
đai màu mỡ như Cánh đồng Chum, bản Ban, mường Pẹc…Những chum đá, mộ đá khổng lồ
còn lại đến tận ngày nay ở Cánh đồng Chum là những minh chứng tại đây xưa kia
đã hình thành một trung tâm dân cư và có thời kỳ văn hóa sớm phát triển. Cao
nguyên Cánh đồng Chum là nguồn nước quan trọng của các phụ lưu sông Mê-kông.
Trong lòng cao nguyên chứa nhiều loại khoáng sản quý như sắt, đồng…chưa được
khai thác. Cánh đồng Chum thuộc tỉnh Xiêng-khoảng, nơi đây đã diễn ra nhiều
cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa quân nhân Lào với các thế lực phản động cùng
với không quân Mỹ. Có thể nói Cánh đồng Chum – Xiêng khoảng là một trong những
địa danh lẫy lừng nhất gắn liền với lịch sử đấu tranh giải phóng của nhân dân
các dân tộc Lào.
Miền
Trung Lào có hai cao nguyên thấp hơn cao nguyên Cánh đồng Chum là Khăm-muộn và
Xạ-vẵn-nạ-khệt. Cao nguyên Khăm-muộn nằm giữa hai con sông Nặm-kạ-đinh và
Sê-nọi (chỉ lưu của sông Sê-băng-phay) cao từ 700 đến 800m, còn được gọi là cao
nguyên đá voi, có nhiều núi, lèn dựng đứng lởm chởm, nhiều hang động nổi tiếng,
có mạch nước chảy ngầm tưới cho các cánh đồng màu mỡ của miền Trung như
Ma-hả-xay, Nhôm-mạ-lạt, Khăm-cợt. Cao nguyên Khăm-muộn có những khu rừng rậm
nhiệt đới nổi tiếng có nhiều loại gỗ quý như ở dọc sông Nặm-thơn, Na-cay. Cao
nguyên Khăm-muộn còn có trữ lượng lớn về các loại quặng thiếc, chì, đồng…(mỏ
thiếc Bò-neng, Phôn-tịu đã được khai thác).
Nằm
giữa cao nguyên đá vôi Khăm-muộn với cao nguyên Bô-lô-ven ở phía Nam là cao
nguyên Xa-vẵn-nạ-khệt. Đây là cao nguyên thấp nhất ở Lào có độ cao từ 200 đến
400m, có nhiều vùng đá ong khô cằn, những cánh rừng thưa với nhiều loại gỗ chất
lượng thấp phát triển. Chỉ ở những khu lòng chảo đất đai ẩm ướt mới xuất hiện
những cánh rừng rậm nhiệt đới và những bản làng cư dân đông đúc, vườn cây tốt
tươi như mường Sê-pôn, mường Phìn, Phạ-lan, Đôông-hến.
Đi
xuống phía Nam là cao nguyên đất đỏ Bô-lô-ven có độ cao từ 800 đến 1.000 so với
mặt biển, đột khởi lên giữa đồng bằng miền Nam Lào. Đất đai màu mỡ, khí hậu mát
mẻ, mưa nắng thuận hòa, cao nguyên Bô-lô-ven là một vùng lý tưởng để trồng tỉa
các loại cây công nghiệp như café, chè, cao su, canh-ki-na và các loại cây có
quả khác. Trên cao nguyên có nhiều khu rừng rậm, những cánh đồng cỏ rộng lớn
như ở Tha-teng, Xa-la-văn…quanh năm xanh tốt, nơi đây là sào huyệt của các loại
thú rừng miền Nam Lào, đặc biệt là hươu, nai. Cao nguyên Bô-lô-ven còn là nơi
trữ nước và nguồn nước của hai con sông lớn ở Nam Lào là Sê-đôn, Sê-kong và các
chỉ lưu.
Thung
lũng, đồng bằng là loại địa hình thứ ba ở Lào. Diện tích tuy không lớn bằng núi
đồi, cao nguyên nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành
và phát triển của nhân dân các dân tộc ở Lào. Đây là những vùng dân cư tập
trung đông đúc, sản xuất nông nhiệp phát triển. Hầu hết các trung tâm kinh tế,
văn hóa, lịch sử của Lào đã sớm hình thành ở các miền đều thuộc loại địa hình
này. Dọc sông Mê-kông, suốt từ cực Bắc đến phía Bắc Viêng-Chăn là một chuỗi
đồng bằng châu thổ nhỏ hẹp nằm giữa những chân núi và cửa các con sông lớn nhỏ
như Mường xỉnh, Huội-sai, Pạc-thà, Pạc bèng, Pạc lai, Xay-nhạ-ba-li, Nặm-khàn…
Từ
Viêng-Chăn trở xuống, dãy đồng bằng được mở rộng dần từ phía Đông đến sát bờ
sông Mê-kông. Rộng lớn nhất là đồng bằng Viêng-Chăn, bao gồm toàn bộ châu thổ
từ sông Nặm-xẵng đến sông Nặm-măng. Nổi tiếng nhất là vùng châu thổ Nặm-ngừm,
Nặm ton hoặc những vùng trũng quanh Viêng-Chăn như Sả-la-kham, Nong-veng,
Sỉ-thản-tạy…hằng năm cứ sau mỗi mùa nước lũ, đất đai lại được phủ một lớp phù
sa màu mỡ. Đồng bằng Viên-Chăn là vựa lúa của miền Bắc Lào, một vùng giàu cả về
lâm sản, thủy sản. Từ lâu, bông vải, thuốc lá vùng Nặm-ngừm Viêng-Chăn đã nổi
tiếng trong cả nước Lào.
Lui
dần xuống phía Nam có các dãy đồng bằng châu thổ phù sa đá vôi như Pạc-kạ-đinh,
Pạc-hỉn-bun, Ma-hả-xay. Đấy là những châu thổ hẹp bị chia cắt bởi những dãy núi
thấp hoặc do núi đá chạy dài sát bờ sông Mê-kông. Từ Nam tỉnh Khăm-muộn trở
xuống đến sông Sê-đôn, các giải đồng bằng mới mở rộng dần về phía Đông với
những vùng trũng đất đai phì nhiêu như Xỏng-khỏn, Kẹng-kọoc. Từ sông Nặm-mun
trở xuống là đồng bằng Nam Lào xòe rộng ra như bao quanh cao nguyên đất đỏ
Bô-lô-ven. Phía tả ngạn từ cao nguyên Bô-lô-ven đến bờ sông Mê-kông đến tận
biên giới Lào-Thái nơi có chiều rộng Đông Tây lớn nhất nước Lào. Đây là giải
đồng bằng lớn nhất, với những cánh đồng phì nhiêu chạy suốt từ Chăm-pa-sắc đến
sông Sê-khăm-phô, Sê-piền như Phôn-thong, Sụ-khu-ma, Mun-lạ-pạ-mộôc. Trên sông
Mê kông ở vùng này còn có hàng trăm cù lao lớn nhỏ, đất đai màu mỡ, góp phần
làm cho miền Nam nước Lào trở thành vựa lúa của cả nước. Xưa kia lúa gạo ở Nam
Lào không những được chuyển đến nhiều vùng trong nước mà còn được xuất khẩu
sang Cam-pu-chia, Thái Lan. Miền Nam Lào còn giàu về lâm sản, khoáng sản. Bản
làng miền Nam Lào dân cư thường đông đúc, hình thành trên các trục giao thông
quan trọng hoặc bên bờ các con sông lớn xuôi ngược thuận lợi như sông
Sê-băng-hiêng, Sê-đôn, Sê-kong…
Do
cấu tạo địa chất, lượng mưa nắng nhiều nên các hệ thực vật ở Lào phát triển hết
sức phong phú. Hầu hết các loại địa hình núi đồi, cao nguyên, đồng bằng đều có
rừng cây bao phủ. Suốt từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây đến đâu cũng có rừng,
rừng chiếm từ 80-85% diện tích cả nước. Rừng ở ngay cửa ngỏ các đô thị. Do đặc
điểm của địa chất, địa hình, khí hậu của từng miền khác nhau nên rừng Lào cũng
có nhiều loại như rừng rậm nhiệt đới, rừng thưa đá vôi sa thạch, rừng tre nứa.
Nhưng phổ biến nhất vẫn là rừng rậm nhiệt đới. Trừ một số khu rừng gỗ tếch (giả
tỵ) ở phía Tây Bắc, còn hầu hết là rừng tự nhiên. Ngoài các loại gỗ quý có tỷ
lệ khá cao, rừng ở Lào còn có nhiều loại cây có giá trị kinh tế như quế, cánh
kiến trắng, cây có nhựa, cây có sợi. Rừng Lào còn nổi tiếng về các loại thú như
voi, hươu, hổ, báo…Phải chăng xưa kia trong rừng Lào có nhiều voi nên khi dựng
nước vua Pha-Ngừm đã đặt tên là nước Lào lạn-xạng (Lào triệu voi). Đối với nhân
dân các dân tộc Lào, rừng có vị trí đặc biệt trong tâm tư tình cảm của mỗi
người. Cùng với sông suối, rừng là nguồn thực phẩm, vật liệu xây dựng, dược
liệu, nơi nương tựa mỗi khi mùa màng thất bát, là nguồn cảm hứng của các nghệ
sĩ trong sáng tác văn học nghệ thuật.
Để
bảo vệ rừng, một nguồn lợi lớn của đất nước, Chính phủ Cộng hòa Dân chủ nhân
dân Lào đã đề ra nhiều biện pháp tích cực nhằm bảo vệ rừng, kết hợp giữa khai
thác và trồng rừng, vận động giúp đỡ nhân dân ở miền núi xuống làm ruộng, hạn
chế đốt rừng làm nương rẫy, từng bước khôi phục lại hàng vạn héc-ta rừng bị
không quân Mỹ tàn phá bằng chất độc hóa học.
Tương
tự như một số nước nằm trong khu vực Đông Nam châu Á nhiệt đới gió mùa, khí hậu
ở Lào nói chung nóng và ẩm. Mỗi năm có hai mùa, mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Từ
tháng tư đến tháng mười là mùa mưa và nóng, có gió mùa Tây Nam. Thông thường
vào tháng bảy tháng tám là hai tháng có lượng mưa nhiều nhất, ở miền núi và cao
nguyên hay có những trận mưa tầm tã kéo dài, có khi đến hàng tuần, thậm chí cả
nửa tháng. Mùa khô và lạnh từ tháng mười một đến tháng ba, có gió mùa Đông Bắc.
Trên núi, cao nguyên ở miền Bắc về mùa khô thường có sương mù dày đặc, đến trưa
lại có nắng, về chiều mát mẻ và tối lại trở lạnh. Miền Nam do gần xích đạo nên
nhiệt độ cao hơn miền Bắc. Ở miền núi, cao nguyên nhiệt độ thấp hơn ở đồng
bằng, thường mát mẻ hơn về mùa mưa, giá lạnh hơn về mùa khô.
Nước
Lào có hệ thống sông suối dày đặc, hầu hết đổ về cái trục lớn nhất là sông
Mê-kông. Phần sông Mê-kông chảy qua nước Lào dài khoảng 1.800km, đây là con
sông dài, rộng nhất nước. Sông Mê-kông cùng phụ lưu, chi lưu của nó trở thành
hệ thống giao thông đường thủy quan trọng nối liền Nam-Bắc, Đông-Tây. Sông suối
ở Lào có rất nhiều cá, nổi tiếng nhất là các con sông Mê-kông, Nặm-ngừm,
Nặm-thơn…Ở phía Bắc, sông Mê-kông có một hệ phụ lưu lớn, hầu hết nằm ở phía tả
ngạn như sông Nặm-thà, Nặm u, Nặm xương, Nặm nghiệp, Nặm bèng, Nặm khàn. Hướng
chảy của hệ thống phụ lưu trên đều theo độ dốc của địa hình, nghĩa là theo
chiều Bắc-Nam, trừ ba con sông Nặm-mã (sông Mã), Nặm săm (sông Chu) và Nặm Nơn
(sông Cả) là hướng chảy từ Tây Bắc sang Đông Nam. Ở miền Trung và Nam Lào, sông
Mê-kông cũng có một số phụ lưu lớn nằm ở phía tả ngạn như các con sông Nặm-kạ-đinh,
Nặm-Hỉn-bun, Sê-băng-phay, Sê-băng-hiêng, Sê đôn, Sê-kong. Các phụ lưu trên đều
chảy theo hướng Đông Tây. Hệ thống sông suối ở Lào có vị trí quan trọng trong
đời sống nhân dân các dân tộc Lào như trong sản xuất nông nghiệp, giao lưu giữa
các vùng khi đường bộ chưa phát triển, nguồn thực phẩm tươi sống trong bữa ăn
hàng ngày của mỗi gia đình. Ngoài ra, các con sông lớn ở Lào còn có một số đặc
điểm rất thuận lợi để xây dựng thủy điện. Đây là một thế mạnh của đất nước được
thiên nhiên ưu đãi.
II-
Các dân tộc Lào
Quốc
gia Lào lạn-xạng độc lập thống nhất ra đời năm 1353. Nhưng trước đó hàng ngàn
năm trên lãnh thổ Lào đã có người cổ sơ sinh sống. Mặc dù công tác khảo cổ chưa
được tiến hành một cách có hệ thống đầy đủ nhưng qua một số hiện vật đã khai
quật được có thể khẳng định Lào là một địa bàn có con người tồn tại và phát
triển qua các thời kỳ đồ đá, đồng, sắt. Ngay từ đầu công nguyên nhiều nhóm
người thuộc hệ Môn Khơ-me và Thay-lao đã sống xen kẽ bên nhau. Trong quá trình
tồn tại và phát triển đã hình thành một xã hội hỗn hợp giữa các nhóm dân tộc
thuộc hệ Môn Khơ-me, Thay-lao với trung tâm là những mường cổ đại như: Tạ-bong,
Xai-phong, mường Xẻn, mường Phuôn. Mỗi mường cổ đại là một tiểu vương, có tổ
chức hành chính chặt chẽ do một lãnh chúa đứng đầu gọi là “Chạu-mường” (chủ
mường). Cơ sở kinh tế chủ yếu của các mường cổ đại là nông nghiệp lúa nước và
nương rẫy. Do đó các mường cổ đại thường xuất hiện ở vùng đồng bằng châu thổ
dọc sông Mê-kông, các phụ lưu hoặc vùng trũng trên cao nguyên. Theo truyền thuyết
Lào, giữa các mường cổ đại thường xảy ra các cuộc xung đột tranh giành đất đai,
nhất là giành quyền làm chủ giữa các “Chạu-mường” người La-vạ và người
Thay-lao. Do có trình độ sản xuất phát triển cao hơn nên cuối cùng Mường Xoa,
một mường nằm trên cửa sông Nặm-khàn của người Thay-lao đã thắng thế và giữ vai
trò trung tâm trong việc tập hợp các mường Lào cổ đại thành một quốc gia thống
nhất. Tuy nhiên, phải trải qua hơn sáu thế kỷ sau, quốc gia Lào độc lập thống
nhất mới ra đời dưới triều đại Phạ-ngừm. Từ đó mường Xoa trở thành thủ đô của
nước Lào lạn-xạng, mãi đến năm 1536 mới dời đô về mường Viêng-Chăn.
Dân
số nước Lào khoảng trên 4 triệu người, gồm nhiều dân tộc, bộ tộc trình độ phát
triển không đồng đều. Các tộc ở Lào được mặt trận Lào It-xa-la xếp thành 3 nhóm
với tên gọi như: Lào lùm (các tộc người Lào cư trú ở các vùng thấp), Lào thơng
(các tộc người Lào cư trú ở các vùng trên), Lào xủng (các tộc người Lào cư trú
ở các vùng rẻo cao).
1-
Nhóm Lào lùm
Nhóm
này bao gồm các tộc sinh sống ở các vùng thấp thuộc ngữ hệ Lào-Thay. Dân số
trên 2 triệu người, gồm các tộc: Lào, Thay, Phuôn, Lự, Phu-lay, Duôn, trong đó
có người Lào đông nhất, khoảng 1,8 triệu người. Tuy có nhiều tộc với tên gọi
khác nhau nhưng nhìn chung nhóm Lào lùm có nhiều đặc điểm giống nhau. Hầu hết
các tộc thuộc nhóm Lào lùm đều lập bản mường ở vùng đồng bằng, dọc sông
Mê-kông, các phụ lưu, thung lũng, những vùng trũng trên cao nguyên như Mường
xinh, Luổng-nặm-thà, cao nguyên Xiêng-khoảng, Xạ-vẵn-nạ-khệt, Bô-lô-ven. Bản
làng người Lào lùm thường có 40-50 nóc nhà, vùng có mật độ dân số cao như đồng
bằng Viêng-chăn, Xạ-vẵn-nạ-khệt, Chăm-pa-sắc, nhiều bản làng có tới 200-300 nóc
nhà, bản được dựng bên bờ sông suối, đầm hồ lớn quanh năm nước không cạn. Bản
lớn được chia thành xóm gọi là “khũm”.
Người
Lào lùm sinh sống bằng nghề nông, làm ruộng nước, cấy lúa nếp, một số vùng kết
hợp làm rẫy nhưng ruộng vẫn là chủ yếu. Tuy chưa có hệ thống thủy lợi hoặc hồ
lớn chứa nước để làm vụ chiêm nhưng người Lào lùm làm nương phai nhỏ hoặc guồng
dẫn nước vào ruộng. Việc cải tạo đất, sử dụng phân bón, nông dân Lào lùm chưa
quan tâm, có thể là do đất đai vẫn màu mỡ nhờ phù sa bồi đắp hàng năm cùng với
những gốc rạ mục nát từ vụ trước để lại. Chọn giống lúa là khâu người nông dân
Lào lùm hết sức chú trọng, do đó ở mỗi địa phương thường có nhiều loại giống
lúa phù hợp với đất đai trong vùng. Ngoài ruộng rẫy, mỗi hộ nông dân Lào lùm
còn có mảnh vườn rộng lớn chuyên trồng các loại rau, cây ăn quả như dừa, chuối,
xoài, nhãn, cam…
Nghề
thủ công trong vùng người Lào lùm cũng khá phát triển. Phổ biến nhất là dệt
vải, đan lát, gốm, nấu đường, muối, rèn, khai thác lâm thổ sản, chăn nuôi gia
súc gia cầm. Trâu từng đàn hàng trăm con được thả rong trên các đồng cỏ. Vùng
đồng bằng dọc các con sông Mê-kông, Nặm-ngừm, Sê-băng-phay, Sê-băng-hiêng nghề
đánh bắt cá làm mắm phát đạt và trở thành nguồn thu nhập lớn. Trồng bông, trồng
dâu nuôi tằm dệt vải đối với người Lào lùm không những để tự túc mà còn là sản
phẩm để trao đổi với các nhóm tộc khác chưa dệt được vải. Những nghề thủ công trên
tuy có phát triển trong nhóm người Lào lùm nhưng vẫn còn phân tán, tự cấp tự
túc, chưa tách khỏi nông nghiệp.
Các
tộc thuộc nhóm Lào lùm có nền văn hóa chung phong phú đa dạng và phát triển.
Đáng chú ý nhất là kho tàng văn học dân gian, văn học thành văn được sưu tầm và
bảo vệ đến ngày nay. Người Lào lùm đều dùng chữ phổ thông, cùng nói một thứ
tiếng, chỉ khác nhau ít nhiều về thổ âm. Hầu hết người Lào lùm theo đạo Phật
tiểu thừa gọi là Hỉn-nạ-nhan. Cùng với đạo Phật, người Lào lùm vẫn duy trì các
hình thức tín ngưỡng cổ xưa, điển hình là thở thần linh, thờ “phỉ” (ma). Với
nền kinh tế nông nghiệp tự túc tự cấp nhưng nhóm Lào lùm có trình độ sản xuất
cao hơn, đời sống sung túc hơn các nhóm Lào thơng, Lào xủng, họ chiếm đa số và
giữ vai trò chủ yếu về chính trị, kinh tế, văn hóa trong quá trình dựng nước và
giữ nước ở Lào.
2-
Nhóm Lào thơng
Nhóm
Lào thơng thuộc ngữ hệ Môn-Khơ-me, gồm trên 20 tộc sinh sống trên những vùng
sườn đồi, núi, cao nguyên. Dân số khoảng 1 triệu người, có các tộc như: Khơ-mú,
Khơ-bít, Phọong, Puộc, Kạ-tang, Pa-cô, Tạ-ôi, Lạ-vên, Lạ-ve, Xẹc, Nha-hớn,
Kạ-tu, A-lắc…trong đó tộc Khơ-mú đông nhất trên 300.000 người. Các tộc thuộc
nhóm Lào thơng cư trú rải rác trên địa bàn rộng lớn suốt từ Bắc xuống Nam tại
các miền rừng, triền núi, cao nguyên dọc theo các con sông suối nhỏ. Bản làng
người Lào thơng nhỏ hơn bản làng người Lào lùm, vùng cư dân đông đúc như
La-vên, A-lắc, bản làng tương đối lớn cũng chỉ có 30-40 nóc nhà. Người Lào
thơng cũng ở nhà sàn, cột gỗ thưng phên tre nứa hoặc gỗ nhưng thấp hơn nhà sàn
người Lào lùm. Làm nương rẫy là nguồn sống chủ yếu của người Lào thơng. Ngoài
lúa nếp, trên nương rẫy của người Lào thơng còn trồng tỉa một số rau quả thiết
yếu cho cuộc sống mỗi gia đình như ớt, cà, bí, thuốc lá, bông…Một số vùng của
tộc Khơ-mú, Puộc, Phọong ở Bắc Lào, Xồ, Xẹc ở Trung Lào, La-ven, Suồi ở Nam Lào
làm thêm ruộng hoặc chuyển sang làm ruộng là chủ yếu. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, tại các vùng giải phóng, được sự giúp đỡ của chính quyền
nhân dân các cấp, nhiều tộc thuộc nhóm Lào thơng chuyển sang làm ruộng nước.
Công cụ sản xuất của người Lào thơng trước đây còn thô sơ như rìu, dao, gậy
bằng gỗ hoặc tre đẽo nhọn, dùng cày chìa vôi bằng gỗ hoặc xương trâu, bò. Đến
mùa thu hoạch, ở một số vùng còn tuốt lúa bằng tay, giã gạo bằng cối gỗ, chày
tay. Do ở xa các con sông, suối lớn nên người Lào thơng chưa biết đánh bắt cá
bằng các loại lưới, mà chỉ dùng lờ, đơm, đó đánh bắt trên các suối nhỏ. Trừ một
số tộc xuống làm ruộng, học được nghề dệt vải với người Lào lùm còn đại bộ phận
người Lào thơng chưa biết dệt vải hoặc dệt còn thô sơ. Người Lào thơng thường
trao đổi với người Lào lùm vải mặc hoặc một số hàng thiết yếu khác như muối,
mắm, đường. Vật phẩm để trao đổi, chủ yếu là lâm thổ sản, bởi vậy việc khai
thác lâm thổ sản có vị trí quan trọng đối với người Lào thơng. Những năm mùa
màng thất bát, hoặc những tháng giáp hạt, các loại củ rừng trở thành nguồn
lương thực quan trọng của người Lào thơng.
Người
Lào thơng xuất hiện khá sớm trên đất Lào. Tại một số vùng đồng bằng nhiều bản
làng người Lào thơng hình thành xen kẽ với bản mường người Lào lùm nên có ảnh
hưởng qua lại về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Người Lào thơng không có chữ
viết riêng, trước đây một số tộc ở vùng Nam Lào có dùng chữ “khỏm” nhưng không
phổ biến. Sau cách mạng năm 1945, người Lào thơng học chữ Lào. Xã hội Lào thơng
còn tồn tại nhiều tàn tích của thời bộ tộc, thị tộc, trình độ sản xuất phát
triển còn chậm.
3-
Nhóm Lào xủng
Nhóm
Lào xủng gồm những tộc cư trú trên những rẻo cao, đỉnh núi, thuộc ngữ hệ Mẹo-Dao,
Tạng-Miến, dân số khoảng 400.000 người gồm có các tộc: Hmông, Dao, Lô-lô,
Hà-nhì, trong đó tộc Hmông đông nhất, gần 250.000 người. Tuy đã cư trú trên địa
bàn Lào hàng thế kỷ nhưng theo lịch sử Lào thì nhóm Lào xủng xuất hiện sau nhóm
Lào lùm, Lào thơng. Tuy nhiên trong quá trình sinh sống bên nhau trong một lãnh
thổ đã tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa các nhóm tộc, đặc biệt sau ngày tuyên
bố độc lập, rồi qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược, tình đoàn
kết gắn bó ngày càng được củng cố và phát triển mạnh mẽ thành ý thức quốc gia
dân tộc thống nhất.
Người
Lào xủng thường sống trên những ngọn núi cao từ 1000m trở lên, nơi khí hậu mát
mẻ về mùa nóng, giá rét về mùa khô, nguồn nước tuy không sẵn nhưng
có đất đai rộng lớn để khai phá. Người Lào xủng sống tập trung ở các dãy núi
phía Bắc Lào thuộc các tỉnh Xiêng-khoảng, Luổng-phạ-bang, Xăm-nửa và Bắc
Viêng-chăn. Do ở trên những ngọn núi cao nên người Lào xủng làm nhà sàn thấp,
bốn bề thưng ván để che gió. Bản làng được dựng trên những mỏm núi cheo leo,
mỗi bản chỉ có khoảng 10-15 nóc nhà. Mỗi bản tuy cách nhau không xa nếu tính
theo đường chim bay nhưng đường bộ đi lại rất khó khăn, phải vượt đèo leo dốc
mất nhiều giờ mới tới. Phương tiện đi lại, vận chuyển không có gì khác ngoài
ngựa.
Người
Lào xủng sinh sống bằng nương rẫy, trồng ngô, lúa. Trên rẫy còn trồng bông, rau
quả, bí đỏ…Trồng bông để tự túc một phần về mặc, còn ngô, bí đỏ để chăn nuôi,
chủ yếu là nuôi lợn, bò, dê, ngựa. Người Lào xủng có kinh nghiệm nuôi lợn,
giống lợn to béo hơn giống lợn ở vùng đồng bằng. Ngoài trồng, ngô, lúa, chăn
nuôi người Lào xủng trước đây còn trồng cây thuốc phiện, một nguồn thu nhập
quan trọng của mỗi gia đình. Về tiểu thủ công, người Lào xủng có nghề rèn,
dệt…nghề dệt còn thô sơ chỉ tự túc được một phần, phải dựa vào việc trao đổi
với nhóm người Lào lùm, nhất là muối ăn hàng ngày. Nghề rèn của người Lào xủng
cũng khá phát triển, một nghề có truyền thống nên các công cụ sản xuất, đặc
biệt súng kíp rất tốt. Thanh niên Lào xủng rất thông thạo về săn bắn trên những
vùng núi cao nhưng lại ít kinh nghiệm đánh bắt dưới sông suối.
Người
Lào xủng cũng thờ đa thần, cúng tổ tiên, một số vùng còn thờ vật tổ nhưng chỉ ở
mức kiêng kỵ không ăn và không giết mổ. Trước kia nhóm người Lào xủng chưa có
chữ viết, đến năm 1960 mới có chữ viết riêng. Xã hội Lào xủng cũng phát triển
chậm, nhiều tập tục của các tôn giáo cổ xưa vẫn còn đậm nét ở một số tộc. Tù
tộc trưởng, thầy cúng, thợ rèn có địa vị cao trong xã hội. Tệ tảo hôn, đa thê
còn phổ biến trong các gia đình chức dịch, giàu có. Người phụ nữ phải lao động
hết sức nặng nhọc, vất vả nhưng lại ở địa vị thấp kém. Ngoài ra còn nhiều hình
thức kiêng kỵ khác ảnh hưởng đến sản xuất.
III-
Một số phong tục tập quán chủ yếu của nhân dân Lào
Nhân
dân Lào có nhiều phong tục tốt đẹp được hình thành trong quá trình lịch sử.
Những phong tục tập quán ấy trở thành lệ làng, nhân dân Lào gọi là “hít bản
không mường”, được các thành viên trong bản mường thừa nhận và tự giác thực
hiện. Thành viên nào làm trái lệ làng sẽ bị phạt, hình thức phạt do các già bản
và tập thể bản mường quyết định. Hầu hết các phong tục tập quán tốt đẹp của
nhân dân có cội nguồn từ bản sản xuất nông nghiệp. Còn bản mường Lào là cái nôi
nuôi dưỡng và bảo vệ một cách có hiệu quả các phong tục tập quán cổ truyền của
dân tộc. Dù có những biến đổi trong mỗi giai đoạn lịch sử, sự khác biệt về hình
thức giữa các địa phương, song những phong tục cổ truyền của nhân dân Lào vẫn
là tấm gương phản chiếu một phương thức sản xuất, một hình thái sinh hoạt nhất
định của xã hội.
Nước
Lào nằm sâu trong lục địa châu Á, nơi giao tiếp giữa hai nền văn minh cổ đại
nổi tiếng Ấn Độ Và Trung Hoa. Bởi vậy trong quá trình lịch sử, nhân dân Lào còn
tiếp thu các trào lưu văn hóa tràn qua vùng này, ảnh hưởng sâu sắc nhất là Phật
giáo và văn hóa Ấn Độ. Việc đạo Phật được truyền bá rộng rãi ở Lào là bước
ngoặt quan trọng đối với nền văn hóa cũng như phong tục tập quán của Lào. Sự
giao lưu văn hóa của các nước láng giềng cũng tác động ít nhiều đến tập quán
của nhân dân Lào. Nhưng những yếu tố khách quan đó càng làm cho bản sắc dân tộc
thêm đậm đà, phong phú, giàu sức sống để vượt qua những thử thách quyết liệt
gần hai thế kỷ, trước chính sách đồng hóa dân tộc của phong kiến Khơ-me, Xiêm
và thực dân Pháp.
Nước
Lào đất rộng, dân không đông lại gồm nhiều dân tộc, bộ tộc. Tuy cùng sinh sống
bằng nghề nông nhưng trình độ sản xuất không đồng đều nên phong tục tập quán ở
mỗi miền có sự khác biệt, thậm chí trong một tỉnh cũng không hoàn toàn đồng
nhất. Vì thế mà phong tục tập quán ở Lào rất đa dạng thể hiện rõ trình độ sản
xuất sinh hoạt của mỗi nhóm dân tộc, bộ tộc. Nhưng ở đây chỉ đề cập đến những
tập quán chủ yếu có tính phổ biến của hệ Lào-Thay nhóm dân tộc của chủ thể, tức
là người Lào lùm.
1-
Về ăn uống
Cây
lương thực chủ yếu ở Lào là lúa nếp và lúa tẻ. Trên nương rẫy hoặc trong vườn
còn trồng ngô, khoai sắn…nhưng đó chỉ là loại lương thực phụ. Trước đây diện
tích lúa tẻ chiếm tỷ lệ không đáng kể và gạo tẻ chỉ để dùng làm bún, bánh trong
những ngày lễ hội. Sau cách mạng năm 1945 diện tích gieo trồng lúa tẻ có tăng lên
nhưng hầu như người Lào ưa thích ăn gạo nếp. Ở nông thôn, xôi thường được ăn
vào bữa trưa để những người đi lao động ngoài ruộng, trên nương rẫy mang theo
tiện lợi. Bữa ăn không cần canh riêu, xào nấu, chỉ khúc cá nướng, gỏi “chèo”
(ớt nướng bóc vỏ giã với cá nướng hoặc với mắm cà), quả chuối hoặc ít quả me
chín ngọt là xong bữa. Cá, ốc, ếch, lươn, tôm, tép…là thức ăn được người Lào ưa
thích và trở thành phổ biến trong các bữa ăn của hầu hết các gia đình. Hệ thống
sông suối, ao hồ dày đặc ở Lào là nguồn tôm cá vô tận để nhân dân Lào đánh bắt.
Thịt thú rừng cũng là nguồn thực phẩm quan trọng như hươu, nai, thỏ, kỳ đà,
chim, sóc,…trong đó đặc biệt là rắn, trút, dũi đất (ỗn, tùn) được người Lào ưa
thích. Thịt trâu, thịt bò được xếp hàng đầu trong các loại gia súc gia cầm,
thịt lợn xếp sau cùng. Ở vườn, đất rất rộng nhưng người Lào không trồng nhiều
rau xanh như nhân dân một số quốc gia lân cận. Ngoài số rau ít ỏi trong vườn,
trên nương rẫy, người Lào còn dựa vào nguồn ra quả hái lượm ở trong rừng. Cùng
với măng rừng, nấm, mướp, bầu, bí người Lào còn rất thích ăn các loại rau quả
có vị đắng, chua, chát. Các loại gia vị được trồng phổ biến ở vườn, nương rẫy
như các loại rau thơm, hành, tỏi, sả…đặc biệt là ớt. Ớt là loại gia vị không
thể thiếu trong bữa ăn của người Lào. Trên nương rẫy, gò đất ở đồng ruộng đều
được trồng ớt. Ớt chín, phơi khô đem gác bếp để ăn quanh năm. Những năm mất mùa
ớt, tuy không như thiếu lúa gạo nhưng cũng khá vất vả, mọi nhà phải xuôi ngược
xa gần để mua bằng được ớt. Có nhà phải ăn giềng hoặc gừng thay ớt.
Do
ăn xôi là chủ yếu nên người Lào hay ăn các món ăn khô, đậm đà như xào, nấu.
Ngoài muối, người Lào thường dùng “pa-đẹc” (mắm cá) để nêm thức ăn như nước
mắm. Đến vụ đánh bắt cá, hộ nào cũng làm năm ba chum mắm để ăn quanh năm. Các
bản mường ven sông suối, đánh bắt được nhiều cá thường làm nhiều mắm để bán
hoặc đổi chác với các bản mường ở miền núi. Mắm cá không những để nêm thức ăn
mà còn trở thành món ăn phổ biến trong những ngày mùa bận rộn công việc đồng
áng hoặc những tháng mưa dầm không đi săn bắt hái lượm được. Trong những ngày
này, bữa ăn ngoài ruộng rẫy chỉ cần khúc cá mắm có ớt, sả thái nhỏ gói lá chuối
đem lùi tro gọi là “môôc-pa-đẹc” là xong bữa. Hầu như người Lào thích ăn các
món nướng, lùi, hông. Từ rau xanh đến các loại quả, củ có chất bột người Lào
đều hong chứ không luộc. Cách nướng hay lùi của người Lào cũng độc đáo, công
phu. Miếng thịt, con cá thường được nướng chín vàng thơm ngon bằng than củi
suốt một hai tiếng đồng hồ.
Những
ngày lễ hội hay bữa cơm khách ở nông thôn lẫn thành thị thường có món gỏi cá
hoặc thịt trâu thịt bò gọi là “lạp”. Vào mùa mưa, sẵn các loại măng tươi, bữa
ăn hay có món canh măng gọi là canh da-nang, thơm ngon đậm đà (lá da-nang hái ở
rừng đem vò kỹ lọc lấy nước nấu với măng). Trong bữa cơm khách dù thịnh soạn
đến đâu, gia chủ thường làm bát “chèo” thường hay “chèo” mắm cá. Theo tập quán
của Lào, trong bữa cơm khách thông thường “chủ nhà dẫn rượu, chủ mâm dẫn ăn”
nghĩa là “tiên chủ hậu khách”. Và cơm nóng, canh sốt cũng là yêu cầu đối với
bữa ăn, người Lào thường nói “ăn lúc đang nóng múa lúc đang say”. Trong bữa cơm
khách, hay buổi liên hoan tập thể, thức ăn đã bưng ra dù ít nhiều ngon hay
không ngon, mỗi người đều ăn mỗi món một chút để khỏi phụ lòng gia chủ. Trái
lại khi nồi cơm, ép xôi quá ít đến mức thiếu, nhưng người ăn bao giờ cũng để ý
chừa lại một ít để tượng trưng cho sự no đủ, thừa thãi cơm gạo.
Những
ngày lễ hội, liên hoan tập thể bản mường hoặc gia đình tổ chức cưới xin, giỗ
chạp người Lào thường uống rượu. Có hai loại rượu phổ biến là rượu cần và rượu
đế nấu bằng gạo nếp. Trong ngày mùa lao động khẩn trương phải dầm mưa để cày
bừa, người Lào cũng hay nấu rượu để uống. Các cụ già cũng thường uống rượu
thuốc, ngâm với các loại rễ cây thuốc nam, mật thú rừng, rắn, bìm bịp…
Trước
kia người Lào hay uống nước mưa hoặc nước giếng, nói chung là loại nước nguội.
Sau cách mạng, nhân dân Lào đã uống nước đun sôi để nguội. Tại các bản mường ở
miền Bắc và Trung Lào các cụ già thường uống nước chè tươi rất đặc hoặc uống
các loại lá rễ có vị chát như chè tươi.
Trước
kia phần lớn nam giới ở Lào hút thuốc lá-loại thuốc rê hộ nào cũng có thể tự
túc được. Ở nông thôn hộ nào cũng có vườn thuốc lá. Sau khi thái và sấy khô,
thuốc lá được xếp vào sọt đem gác trên chạn bếp để hút quanh năm. Nhìn chung
người Lào ưa hút các loại thuốc lá nặng. Phụ nữ Lào cũng ăn trầu thuốc, nhất là
khi lớn tuổi. Những ngày lễ hội, vào dịp dạm vợ, gả chồng, làm lễ cầu yên trên
mâm lễ không bao giờ thiếu miếng trầu, quả cau, điếu thuốc cuốn. Những năm
kháng chiến chống Pháp xâm lược trước đây, khi hành quân qua các bản mường, các
chiến sĩ giải phóng nhân dân Lào và quân tình nguyện Việt Nam thường nhận được
thuốc lá cuộn do các cô gái hoặc Hội mẹ chiến sĩ tặng.
2-
Về nhà ở
Bản
làng người Lào lùm thường ở bên các con sông, suối, thuyền bè xuôi ngược dễ
dàng. Trong bản hầu hết là nhà sàn gỗ, nối tiếp nhau theo dòng sông, suối và
quay về một hướng. Trước đây dưới gầm nhà thường đặt khung cửi, để nông cụ, chuồng
gà, chuồng trâu. Sau cách mạng năm 1945, hưởng ứng phong trào vệ sinh phòng
bệnh, chuồng trâu, bò đã được chuyển khỏi gầm nhà. Có ý kiến cho rằng người Lào
ở nhà sàn để đề phòng thú dữ. Thực ra phải nói người Lào thường ở nhà sàn, nhất
là ở nông thôn là để tránh mọi bất trắc có thể uy hiếp tính mạng, tài sản của
con người như hổ, báo, rắn rết, mối mọt, trộm cướp và cả lũ lụt nữa. Hệ thống
sông suối ở Lào quả có ưu đãi, khoan dung đối với con người, song không phải là
không gây ra tai họa.
Giống
như nhân dân nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á, việc dựng nhà, chuyển đến nhà mới
xưa nay ở Lào được coi là việc hệ trọng và có một số tập quán được mọi nhà tự
nguyện tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Theo quan niệm của người Lào, ngôi nhà
là nơi nương tựa suốt cả một đời người. Cuộc sống ấm no, hạnh phúc lúc vui buồn
của mỗi gia đình đều diễn ra dưới mái nhà sàn gỗ đơn sơ của mình.
Để
dựng một ngôi nhà sàn gỗ, dù lớn hay nhỏ, người Lào thường tiến hành theo trình
tự: tìm cột, chuẩn bị tre, gỗ, chôn cột, dựng nhà, làm lễ chuyển nhà mới, trải
chiếu…Thực hiện các bước trên, xưa nay người Lào thường dựa vào sức mạnh của
tập thể bản mường. Đối với các thành viên trong bản mường coi sự giúp đỡ lẫn
nhau là nghĩa vụ, là tình nghĩa đối với xóm giềng. Theo truyền thống, mỗi hộ trong
bản vào dịp này, thường phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ để xóm giềng có
được ngôi nhà khang trang, mát mẻ thuận tiện cho sinh hoạt. Yếu tố quyết định
độ bền vững của ngôi nhà sàn gỗ ở Lào trước đây là cây cột. Cột được chôn xuống
đất, thường xuyên tiếp xúc với độ ẩm dễ bị mối mọt…nên phải lựa loại gỗ tốt.
Gia chủ chuẩn bị cơm nước cùng xóm giềng vào rừng tìm cột. Những cây gỗ tốt,
thẳng, ít mắt thường được chọn. Không may chọn phải gỗ xấu làm cột nhà, người
Lào xưa kia cho rằng sẽ ảnh hưởng không tốt đến chủ nhân sau này như bệnh tật,
đau ốm…Khi đã chọn được cây gỗ như ý, trước khi chặt, gia chủ thường đi quanh
ba vòng từ trái sang phải, rồi vịn vào thân cây đọc những lời cầu khẩn mọi sự
tốt lành. Khi chặt, gia chủ phải lựa hướng sao cho cây gỗ đổ ngay xuống đất.
Nếu xung quanh cây rậm có thể vướng, thường phải phát quang trước khi chặt.
Chặt hạ xong, cột được chuyển về bản, dùng lửa đốt để bóc vỏ, đục lỗ. Trước đây
chưa có các loại đinh, người Lào thường dùng con xỏ (lĩn-toọc) bằng gốc tre.
Việc tính toán kích thước của ngôi nhà do một người thợ cả đảm nhận. Họ dùng
nắm tay, gang tay, khuỷu tay và sải tay để đo gọi là “căm, khựp, xoọc, va). Các
con số 6, 8, 9 được coi là những số may mắn.
Sau
khi chuẩn bị đầy đủ các vật liệu, các già bản tính toán chọn một ngày lành,
tháng tốt, gia chủ thông báo cho bà con xóm giềng biết ngày dựng nhà. Theo tập
quán ở Lào, hộ nào cũng cử người đến giúp. Nếu nhà không có nam giới thì phụ nữ
đi thay. Vì ngoài công việc dựng nhà, gia chủ còn chuẩn bị cơm nước mời bà con
đến giúp. Phụ nữ đi giúp bà con dựng nhà thường có tục mang theo mắm, muối ớt,
lá chuối, thuốc lá cuốn…và giúp nấu nướng chuẩn bị bữa ăn. Còn nam giới chỉ cần
mang theo con dao dựa hoặc chiếc rìu là hai dụng cụ chủ yếu để làm nhà trước
đây ở Lào. Theo tập quán của bản mường thì mọi công việc từ đào lỗ chôn cột,
dựng nhà, thưng ván, lợp, giải giát sàn…đều phải làm xong trong ngày. Bởi vậy
bà con xóm giềng thường đến sớm, đông đủ và lao động với tinh thần khẩn trương
dưới sự điều khiển của người thợ cả. Người Lào lùm thường dựng nhà quay về
hướng Bắc, lưng tựa vào hướng Nam hoặc chếch đôi chút. Nếu quay về hướng khác
hoặc nhà cắt ngang hướng Đông-Tây là điều kiêng kỵ. Bước đầu tiên của việc dựng
nhà là chôn cột. Theo tập quán người Lào thường làm nhà ba gian nên có tám cột.
Khi đào, phải đào hố chôn cột ở phía Nam trước gọi là “xảu hẹc”. Tiếp theo phải
đào hố chôn cột phía Đông gọi là “xảu khoẳn”. Sau đó có thể đào chôn cột nào
tiếp cũng được. Khi dựng cột nhà cũng phải dựng hai cột ở phía Nam và phía Đông
trước. Trước khi dựng cột thường lót lá chuối tươi hay đổ cát, sỏi xuống trước.
Trên đỉnh mỗi cột buộc các cành lá tươi bằng chỉ trắng hoặc tơ tằm. Với nghi
thức và trình tự trên, người Lào tin rằng hạnh phúc sẽ đến với gia chủ, cuộc
sống lao động sản xuất sẽ gặp nhiều may mắn.
Dựng
xong ngôi nhà, trước khi lên nhà mới, ở Lào cũng có tục làm lễ chuyển đến nhà
mới (khựn hươn mày). Tham gia làm lễ lên nhà mới cũng gồm các thành viên trong
bản mường, trong đó các già bản có vai trò quan trọng. Trước kia lễ chuyển đến
nhà mới thường được chuẩn bị công phu, mất thời gian và tốn kém. Ngày nay chỉ
còn hình thức làm lễ cầu may đến nhà mới gọi là “xù-khoẳn hươn mày” với sự tham
gia của bà con xóm giềng.
Dựng
chòi để lúa (làu khạu), người Lào cũng coi trọng như dựng nhà. Nên các bước
chuẩn bị, trình tự đào hố, chôn cột cũng giống như dựng một ngôi nhà ở.
Người
Lào cho rằng, nếu làm được như vậy thì kho lúa an toàn, lấy ra ăn mãi cũng
không vơi mà ngày càng đầy lên. Nhà ở, trong các bản mường Lào phổ biến là sàn
gỗ, xung quanh thưng ván, trên lợp ngói gỗ hay cỏ gianh. Những hộ nghèo, neo
đơn cũng có ngôi nhà sàn nhỏ đơn sơ, thường thưng phên nứa, giát tre nhưng hầu
hết là cột gỗ. Để bảo vệ rừng, các loại gỗ quý hiếm, ngày nay người Lào đã dùng
cột bê-tông đúc sẵn, ngôi nhà sàn vững chắc và lâu bền hơn gỗ.
Ngôi
nhà của người Lào thường được chia làm hai phần chính. Phía ngoài là nơi ăn
uống, bếp núc và sinh hoạt của toàn gia đình. Phía trong là một dãy buồng riêng
nơi nghỉ ngơi của cha mẹ, con cái. Nếu nhà của trưởng họ hay thầy cúng còn có
một buồng riêng để thờ cúng. Con cháu, phụ nữ, khách lạ tuyệt đối không được
vào căn buồng này. Khách lạ đến nhà có thể đi lại phía ngoài từ cầu thang đến
tận sàn rửa bát. Khi nằm nghỉ ngơi phải nằm theo chiều giát nhà. Chú ý không
ngồi lên các ghế mây tròn nhỏ quanh bếp hoặc vào các buồng ngủ nếu không được
sự đồng ý của gia chủ. Ngôi nhà sàn của người Lào thường có một mái ngắn một
mái dài, nên trong nhà không được sáng sủa. Có thể đó là một kiểu kiến trúc
tránh gió Tây-Nam về mùa mưa và gió Đông-Bắc về mùa khô.
Tìm
hiểu sinh hoạt của người Lào ở nôn thôn thì thấy ngôi nhà trong bản chỉ là nơi
sinh hoạt gia đình vào buổi tối sau một ngày lao động. Phần lớn thời gian, đặc
biệt trong những ngày mùa bận rộn, mọi sinh hoạt gia đình được tập trung tại
ngôi nhà nhỏ được dựng trên khoảng đất bằng phẳng ngay tại ruộng rẫy. Hộ không
dựng nhà cũng cất một cái chòi gọi là “thiểng-na”. Trên chòi có đầy đủ gạo,
nước, mắm muối, nồi xoong, chăn màn để có thể ngủ lại. Xung quanh ngôi nhà
ngoài ruộng còn có vườn nhỏ trồng rau, ngô, chuối, ớt, sả…có nhà còn mang cả gà
vịt ra nuôi. Nhiều hộ ruộng xa, để tiện lợi cho sản xuất, suốt thời gian ngày
mùa đã ngủ lại ngoài ruộng trừ những tối phải lên chùa hoặc họp bản làng. Ngôi
nhà trong bản chỉ có các cụ già không còn sức lao động trông nom và làm nghĩa
vụ đối với nhà chùa.
Sau
ngày hòa bình độc lập thống nhất từ các điểm sơ tán trở về bản mường, nhân dân
Lào có xu hướng dựng nhà mới lớn hơn trước, mái cao, trổ nhiều cửa sổ nên sáng
sủa thông thoáng, dưới gầm nhà chỉ để khung cửi, cối giã gạo và nông cụ. Dưới
chân cầu thang mỗi nhà người Lào thường trồng vài gốc hoa vạn thọ. Đầu cầu
thang có một vò nước có nắp đậy kín và một cái gáo để múc nước. Trong nhà có
việc không lành xảy ra như ốm đau, lâm bệnh trầm trọng, không muốn cho khách lạ
lên, gia chủ cắm một cái “ta-lẻo” (tấm phên nhỏ, rộng hơn bàn tay đan bằng tre
nứa, hình mắt cáo) ở chân cầu thang. Để tránh phiền phức cho gia đình, khách lạ
trước khi lên nhà nên quan sát chân cầu thang có dấu hiệu gì phải kiêng kỵ.
Quanh ngôi nhà của người Lào không hề có nhà vệ sinh. Ở miền Bắc có một số bản
làng người dân thường phóng uế xuống dòng sông suối. Còn hầu hết các địa
phương, người Lào coi việc phóng uế xuống sông suối là một tội lỗi, một điều
tối kỵ. Khi đi đại tiện người Lào ở nông thôn có tục dùng thuổng để đào và lấp
rất kỹ với quan niệm nếu để ma ăn phải phân, người ấy sẽ chết vì bệnh đường
ruột. Do vậy mà dưới gầm nhà nào cũng dựng dăm ba cái thuổng. Tục này đã trở
thành thói quen, ngay cả trẻ em cũng thực hiện một cách nghiêm túc mỗi khi vác
thuổng vào rừng cạnh bản để đi cầu. Người Lào rất sợ phóng uế bừa bãi, không
những gây hôi thối khó chịu mà còn làm cho ma quỷ đến quấy rầy đời sống của con
người.
3-
Về trang phục trang sức
Từ
lâu trong mỗi bản mường, nhân dân có khả năng tự túc được các loại chăn, vải.
Khi chưa có thuốc nhuộm, người Lào dùng các loại quả rừng, củ rừng. Các cô gái
thích mặc vải hoa, vải kẻ có màu đậm, tươi tắn như màu cỏ cây hoa lá tự nhiên
trong rừng núi bao la trùng điệp của quê hương mình. Kiểu áo quần, màu sắc cũng
được chú ý sao cho tiện lợi, phù hợp với từng mùa, từng hoàn cảnh cụ thể khi đi
lao động sản xuất, dự lễ hội, cưới xin, ma chay…
Thanh
niên Lào thường cắt tóc ngắn, mặc áo cổ tròn tay ngắn, quần đùi, bên ngoài quấn
chiếc khăn gọi là “phạ-xà-rông” màu, kẻ ô vuông. Khi đi lao động ngoài ruộng
rẫy, nam giới mặc quần đùi hoặc quần dài nhuộm chàm. Những ngày lễ hội trang
trọng, nam giới mặc y phục dân tộc. Đó là chiếc áo sơ mi cổ tròn, khuy vải, cài
về phía tay trái. Bên ngoài chiếc quần đùi giản dị, các chàng trai Lào quấn
chiếc khăn dài rộng gọi là “phạ nhạo nếp tiêu” màu sắc sặc sỡ (rộng hơn
phạ-xạ-rông, khi mặc cuốn qua háng rồi nhét vào cạp sau). Gia đình khá giả mặc
loại toàn tơ tằm. Một số thanh niên còn quàng loại khăn màu chéo qua ngực gọi
là “phạ-biềng”. Đi dự những ngày lễ hội trong bản mường người thanh niên có thể
mặc bộ y phục dân tộc cũ nhưng nếu mặc áo quần ngắn thì bị dân bản đánh giá
thiếu sự tôn trọng cộng đồng, phong tục truyền thống của dân tộc. Trong lễ hội
cũng như lúc bình thường, nam giới ở Lào hay đeo nhẫn, một số địa phương ở Nam
Lào còn đeo dây chuyền. Trong cuộc sống lao động hàng ngày, người Lào còn
thường dùng một loại khăn gọi là “phạ-phe” (giống khăn rằn ở miền Nam). Ở Lào
khăn rằn được sử dụng một cách phổ biến trong cả nước, ở mọi lứa tuổi. Chiếc
khăn vải kẻ ô vuông màu trang nhã thường được dùng làm khăn tắm, trùm đầu che
nắng che sương, quàng cổ khi trời giá rét. Đi lao động ngoài ruộng rẫy, đi
đường xa “phạ-phe” dùng để gói bộ quần áo thắt ngang lưng rất gọn gàng. Những
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp các chiến sĩ Pa-thêt Lào dùng “phạ-phe”
thay ba-lô trong các cuộc hành quân bôn tập. Phạ-phe còn dùng làm dây trói tù
binh trong những trận thắng lớn. Cùng với chiếc “phạ-phe” một con dao nhọn dắt trong
bao gỗ xinh xắn cũng là một vật không thể thiếu đối với nam giới ở Lào, đặc
biệt là ở nông thôn. Một cuộc hành trình dài ngày, đi sản xuất ngoài ruộng rẫy,
đi săn bắt, người thanh niên Lào dù ở lứa tuổi nào cũng luôn mang bên mình con
dao đánh bằng loại thép quý và thường xuyên được mài rất sắc. Trong những năm
kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ xâm lược, các chiến sĩ Quân giải phóng
nhân dân Lào, quân tình nguyện Việt Nam cũng không thể thiếu con dao nhọn. Con
dao trở thành vật có tác dụng vạn năng đối với người nông dân Lào cũng như các
chiến sĩ hoạt động ở vùng rừng núi.
Lúc
còn nhỏ, phụ nữ Lào để tóc hoặc hớt tóc. Trên mười tuổi thường búi tóc, một số
địa phương như ở Luổng-pha-bang có tục búi tóc lệch hoặc thẳng để phân biệt
giữa các cô gái có chồng và chưa có chồng. Ngoài năm mươi tuổi, phụ nữ Lào
thường hay cắt tóc ngắn với quan niệm đã về già cần ăn mặc giản dị, gọn gàng,
làm gương cho con cháu. Xưa kia cũng như ngày nay phụ nữ Lào thường mặc váy.
Theo tập quán cổ truyền, phụ nữ Lào mặc váy có cạp, có gấu, không quá ngắn hoặc
quá dài. Ai không mặc như trên hoặc dùng vải quá mỏng, quần chẽn bó lấy thân bị
coi là không đứng đắn, trái với cách ăn mặc truyền thống của phụ nữa Lào. Các
em bé gái dưới mười tuổi có thể châm chước trong cách ăn mặc nhưng vẫn kỵ mặc
đảo ngược gấu váy lên trên. Đi lao động ngoài ruộng rẫy như gặt hái, làm cỏ,
hái lượm trong rừng, phụ nữ mặc áo tay dài nhuộm màu chàm hoặc đen. Người lớn
tuổi hay quấn trên đầu chiếc khăn rằn (phạ-phe). Đi dự lễ hội, phụ nữ Lào ăn
mặc theo truyền thống dân tộc. Đó là váy toàn tơ, chân váy có những đường hoa
văn mang màu sắc dân tộc, chiếc áo tay ngắn được may cầu kỳ hơn, có những đường
viền hoặc thêu hình hoa lá, chim muông. Có cô gái mặc áo đính bằng khuy đồng
hay khuy bạc, quàng chéo trước ngực chiếc khăn “phạ-biềng” màu. Bó sát lưng làm
nổi thân hình thon thả của các cô gái là chiếc dây thắt lưng bằng đồng hay bạc
gọi là “khểm-khắt”. Đi dự các ngày lễ hội các cô gái Lào thích đeo đồ trang sức
như hoa tai, dây chuyền, nhẫn bằng vàng hay bạc. Nhưng phổ biến nhất là đôi
bông tai và chiếc thắt lưng, đó là những vậy kỷ niệm của người con gái được cha
mẹ sắm cho từ thưở nhỏ.
Dưới
chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ trước đây, trong các đô thị có một số phụ nữ
ăn mặc lố lăng, xa lạ với tập quán của dân tộc Lào như mặc váy cao trên đầu
gối, áo vải mỏng…Nhưng phần lớn họ là ngoại kiều hoặc có một số nhỏ là người
Lào làm thuê cho các tiệm nhảy, hộp đêm. Còn hầu hết phụ nữ Lào nhất là ở nông
thôn vẫn giữ được cách ăn mặc giản dị, trang nhã theo truyền thống dân tộc. Hơn
hai mươi năm qua cách ăn mặc ở Lào cũng có một số thay đổi theo xu hướng hội
nhập với thời đại nhưng vẫn được nét đặc trưng của dân tộc. Chẳng hạn ở thành
thị, thanh niên ưa mặc âu phục, một số cô gái mặc quần, uốn tóc. Phụ nữ vẫn mặc
váy, riêng chiếc áo sơ mi có nhiều kiểu mới mẻ hơn trước.
4-
Phân công lao động
Việc
phân công lao động trong gia đình người Lào ở mỗi nhóm dân tộc, mỗi miền có
khác nhau đôi chút, song về căn bản đều theo giới và lứa tuổi. Sự phân công lao
động phản ánh khá rõ nền kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc, trong đó mỗi gia
đình là một đơn vị kinh tế hầu như khép kín. Từng gia đình phải sản xuất tự túc
tất cả mọi nhu cầu của đời sống từ lúa, bông, vải, mắm…, đến rau quả, thuốc
hút. Phần còn lại nhờ vào sự trao đổi với xóm giềng hoặc các bản mường lân cận.
Trong
gia đình, người chồng thường làm những công việc nặng nhọc như cày bừa, phát
nương, đắp mương phai, săn bắt, sữa chữa nhà cửa. Các em trai trên mười tuổi
làm công việc nhẹ hơn như chăn trâu, bò, trông coi ruộng rẫy, đan lát, theo cha
để tập sự các công việc của nam giới. Do gắn bó với núi rừng sông suối, lại
được rèn luyện từ nhỏ nên thanh niên Lào rất thành thạo việc săn bắt trên sông
suối và núi rừng. Có nhiều hình thức đánh bắt trên sông suối, đầm hồ tùy theo
mùa nước, loại cá. Chẳng hạn như câu cá có cầu phao, câu chìm, câm cắm, câu
quăng. Vào rừng vào mùa khô gặp một vũng nước có nhiều cá, người thanh niên Lào
chỉ dùng một loại vỏ cây trong rừng gọi là “khưa-hay” đập dập thả xuống một lúc
là cá phải nổi lên. Từ xa xưa, người Lào đã nổi tiếng về săn bắn thú rừng bằng
vũ khí thô sơ và biệt tài đi rừng. Người Lào có thể ngắm hướng băng rừng đi đến
một điểm đã định trước mà không cần địa bàn. Với tài nghệ vượt núi băng rừng,
nghĩa quân Lào yêu nước trước kia, các chiến sĩ quân giải phóng nhân dân Lào
trong những năm kháng chiến chống xâm lược vừa qua đã nhiều phen giáng cho quân
thù những đòn bất ngờ choáng váng.
Để
săn bắt thú rừng, trước đây người Lào dùng các hình thức gài chông, bẫy, bắn nỏ
bằng tên tẩm thuốc độc…khi chế tạo được súng kíp, thuốc súng thì việc săn bắn
chủ yếu bằng súng. Súng săn hiện đại chỉ mới xuất hiện thời gian gần đây, chủ
yếu ở vùng đồng bằng ven đô thị. Còn ở hầu hết các bản mường vùng nông thôn vẫn
sử dụng hình thức săn bắn theo truyền thống của mình. Bằng các loại vũ khí thô
sơ tự tạo nhưng với tinh thần dũng cảm, mưu trí, các chàng trai Lào vẫn diệt
được các loại thú dữ như hổ, gấu, voi…Các địa phương ở Nam Lào có truyền thống
dụ voi về thuần dưỡng. Đây là một nghề hết sức công phu, nguy hiểm đòi hỏi lòng
dũng cảm, thông minh. Người Lào có nghệ thuật bẫy chim, gà, công…rất độc đáo,
có hiệu quả và phổ biến khắp các bản mường từ Bắc xuống Nam. Có thể nói các
chàng trai Lào có biệt tài săn bắt, chỉ cần đem theo con dao, cái nỏ, dăm ba cái
bẫy, ít lưỡi câu là có thể có cá, chim, sóc, gà rừng, đem về sau một ngày lao
động ngoài ruộng rẫy. Khi súng kíp ra đời thì bản làng nào cũng có hàng chục
cây súng và dăm ba người săn bắn nổi tiếng. Giống một số dân tộc khác ở khu
vực, việc săn bắt ở Lào cũng có một số kiêng kỵ. Chẳng hạn, người đi săn không
cho biết trước hướng đi và kết quả mình mong muốn. Súng đạn được giữ gìn cẩn
thận, để ở những nơi cao ráo, tránh những vật ô uế. Thành tích săn bắn của mỗi
người được lưu lại bằng những chuỗi nanh vuốt, răng thú dữ treo ở một góc nhà.
Đối với cây nỏ thì lớp lớp máu dày khô quánh ở thân nỏ, tượng trưng cho tài
nghệ của chủ nhân.
Từ
lâu việc săn bắn ở Lào không đơn thuần để giải quyết thực phẩm cho bữa ăn hàng
ngày mà còn là cuộc đấu tranh khá quyết liệt để bảo vệ sản xuất, nhất là ở vùng
rừng núi. Xung quanh ruộng rẫy ở Lào phải có lớp rào vững chắc, bên ngoài bờ
rào còn có chông, bẫy gọi là “kạ-tầm, kạ-thíp”. Khi lúa chín bên trong rẫy còn
gài thêm các loại bẫy để đề phòng khỉ, lợn rừng vượt rào vào phá hoại. Gần ngày
thu hoạch, nhà nào cũng có người ngủ lại ruộng rẫy để canh giữ. Người Lào
thường ví “voi vào ruộng như quan nha vào bản”. Không chỉ đề phòng thú dữ, thú
lớn mà các loại muông thú khác tuy nhỏ nhưng với số lượng lớn cũng là mối đe
dọa mùa màng như chim, khỉ, chuộc, châu chấu…Ở Lào có tục săn bắn tập thể gồm
nhiều tay súng và hàng chục người tham gia. Đó là các cuộc săn bắn hươu, nai,
hoẵng…Qua vết chân, một thành viên giàu kinh nghiệm phát hiện con mồi còn quanh
quẩn trong khu rừng nào đó, lập tức cả bản đổ ra bủa vây, gõ mõ, hò la để đuổi
con mồi chạy về hướng có các tay súng mai phục sẵn. Nhiều nhà còn dùng cả chó
săn ra lùng sục để uy hiếp con mồi. Cuộc săn bắn rầm rộ tưởng chừng như đơn
giản nhưng thực ra được tổ chức, phối hợp rất chặt chẽ, đòi hỏi người sử dụng
súng phản ứng nhạy bén và tỉnh táo. Kết quả thu được trong cuộc săn bắn tập thể
được chia theo phần, tùy theo công sức của mỗi người. Chẳng hạn người phát hiện
con mồi được phần thỏa đáng. Con mồi bị trúng cùng lúc hai phát đạn, nhưng
người nào bắn trúng chỗ hiểm thì được phần nhiều hơn. Nếu phụ nữ có thai cũng
tham gia thì được chia hai phần.
Những
việc được coi là nhẹ hơn như gặt hái, trông nom vườn tược, chăn nuôi, hái lượm,
nấu nướng, may vá, dệt vải và chăm sóc con cái đều do người phụ nữ đảm nhiệm.
Với sự phân công như trên, người phụ nữ Lào lao động khá vất vả. Có thể nói
người phụ nữ Lào chỉ được nhàn rỗi, tự do bay nhảy cùng bè bạn trong các ngày
lễ hội khi còn con gái, đến khi lấy chồng có con, thường phải lo toan công việc
gia đình bận rộn quanh năm. Các em bé gái cũng sớm tham gia lao động giúp đỡ mẹ
công việc nội trợ. Được mẹ kèm cặp từ nhỏ nên các cô gái Lào rất khéo tay, đảm
đang công việc nội trợ, dạy dỗ con cái. Đối với các cụ già ở Lào chỉ làm những
công việc vặt phù hợp trong nhà, dạy dỗ con cháu và trông nom chùa tháp. Ở Lào
có tục tôn trọng người già cả, nhất là các cụ là trưởng họ hoặc có công với bản
mường, các thành viên trong bản quan niệm người già là những người có công với
con cháu, bản mường, có kinh nghiệm trong đấu tranh, lao động sản xuất, tích
được nhiều phúc đức, con cháu phải noi theo. Dường như dân tộc nào cũng kính
trọng người già nhưng riêng ở Lào các cụ già có vị trí đặc biệt quan trọng gắn
với tập tục truyền thống. Bởi vậy, trong những ngày lễ hội, cưới xin, ma chay,
giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên trong bản, mâu thuẫn trong gia
đình, không thể thiếu các già bản. Sau ngày lễ cưới, cô dâu chú rễ phải đến lễ
các già bản gọi là “xẳm-ma” trước khi về thăm cha mẹ, họ hàng. Cùng với sư thầy,
già bản là trung tâm đoàn kết của bản mường. Vai trò của các già bản cũng được
khẳng định trong kho tàng ca dao tục ngữ: “Không nghe lời người già ba lần sẽ
khó, nghe lời người già tốt hơn nghe lời thầy bói”.
5-
Quan hệ gia đình, họ hàng, xóm giềng
Các
bản mường ở Lào thường có một số dòng họ. Mỗi họ có nhiều gia đình. Các gia
đình này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt truyền thống, tình cảm và kinh tế. Về
họ hàng, người Lào có họ cha, họ mẹ và họ nhà chồng, nhà vợ. Gửi rể là tập quán
phổ biến ở nông thôn Lào. Một số địa phương có tục gửi rể một thời gian nhất
định, khi vợ chồng ra ở riêng sẽ được hưởng một phần tài sản do cha mẹ vợ chia
cho. Tùy mỗi nhóm dân tộc, mỗi địa phương, quyền lực trong gia đình thuộc người
chồng hay người vợ. Đương nhiên, với chế độ tiểu gia đình phụ quyền thì quyền
lực sẽ thuộc về người chồng. Song, nhìn chung người phụ nữ Lào vẫn có một số
quyền hành nhất định, chứ không hoàn toàn ở vào vị trí thấp kém trong gia đình
cũng như xã hội. Trong gia đình, con gái có quyền lợi ngang với con trai. Con
gái được tự do đi dự lễ hội, múa hát dưới ánh trăng cùng bè bạn, kể cả bạn
trai. Trong những ngày lễ hội của bản mường, con gái không bị ngăn cản mà còn
được công nhận như một thành viên chính thức. Các cô gái Lào có thể tự do kéo
sợi, dệt vải, may chăn màn, làm nệm, thêu gối chuẩn bị cho ngày cưới của mình.
Khi bố mẹ chia tài sản, con gái cũng được hưởng một phần ngang với con trai.
Riêng giai cấp phong kiến Lào xưa nay không công nhận vai trò của người phụ nữ,
luật pháp của vương quốc Lào trước đây quy định người phụ nữ không phải làm
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Người
Lào rất quý con, dù trai hay gái. Tất nhiên, những vùng có tục gửi rể, con gái
được quý hơn. Xưa nay, người Lào cũng có tâm trạng phiền muộn, cảm thấy thiếu
hạnh phúc khi vợ chồng lấy nhau lâu mà không có con. Người Lào thường nói
“Không có mèo chuột cắn khung cửi, không có con, họ hàng coi khinh”.
Ở
Lào, gia đình một vợ một chồng là phổ biến. Tầng lớp phong kiến, quan lại giàu
sang lấy hai, ba vợ nhưng thông thường mỗi vợ ở một nhà riêng hoặc một địa
phương khác. Vì cái cảnh vợ lẽ, vợ cả cũng là nguyên nhân gây nên những mối
quan hệ khá phức tạp đúng như người Lào thường ví: “Muốn nhà lắm rác thì ăn
măng, muốn ầm nhà thì lấy vợ lẽ”. Con chú con bác hay con cô con cậu ở Lào
không được lấy nhau. Nhưng trong hoàng tộc, không những con cô con cậu mà chú
có thể lấy cháu. Anh em ruột, anh em họ hay bà con họ hàng thường có quan hệ
gắn bó với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Trong họ, ai săn bắn được con mồi
lớn, bắt được mẻ cá ngon đều được san sẻ, cả họ đều có phần. Lúc gặp khó khăn
hoạn nạn thì họ hàng đùm bọc, cưu mang, chủ động mang đến cho không chứ không
phải hỏi xin hay vay mượn. Bà con họ hàng không đòi hỏi điều kiện gì ngoài lòng
mong muốn người thân vượt qua khó khăn trước mắt, về sau khi làm ăn thuận lợi
khấm khá vẫn không bao giờ quên tình nghĩa anh em họ hàng. Sau ngày mùa, có
thời gian rãnh rỗi, người Lào có tục thu xếp quà cáp đi thăm hỏi bà con họ hàng
gần xa với quan niệm: “Ngọc không dũa ba năm thành sỏi đá, bà con không đi lại
ba năm hóa người dưng”. Gia đình nào hiếm con cái thường nuôi con bác, con chú
cho khỏi vắng vẻ. Một số địa phương ở Nam Lào, chị em gái lấy chồng có con đã
ra riêng nhưng vẫn gần gũi thương mến nhau hơn cả anh em trai.
Cách
xưng hô của người Lào cũng tự nhiên và đơn giản. Tuy có ý thức rõ về anh em họ
hàng, trên dưới nhưng thông thường khi giao tiếp ai lớn tuổi hơn thì được gọi
là anh, là chị. Nhiều địa phương ở Lào có tục không gọi tên thật lúc còn nhỏ,
mà con gái thường được gọi là “bặc e” tương tự như cái đĩ, thằng cu. Các cô gái
15, 16 tuổi trước cái tên thường dùng của mình còn có thêm tiếng “sảo”, con
trai mười tám đôi mươi chưa có vợ gọi là “ai-bào” để hiểu họ là gái chưa chồng,
trai chưa vợ. Vợ chồng lấy nhau đẻ con đầu lòng được đặt tên là gì thì cha mẹ
được dân bản gọi vợ chồng bằng tên ấy và phía trước có thêm tiếng bố hoặc mẹ.
Chẳng hạn đứa con gái đầu lòng đặt tên là Bua thì người cha, người mẹ được gọi
là “phò Bua, mẹ Bua”. Khách nước ngoài đến Lào không khỏi ngạc nhiên khi thấy
người được gọi là cha là mẹ còn quá trẻ. Thực ra, cách gọi đó chỉ có nghĩa là
bố mẹ của đứa con đó mà thôi. Cặp vợ chồng lấy nhau lâu năm không có con thì
dân bản gọi là “phò pàu-mẹ pàu” (bố không, mẹ không).
Ở
Lào còn có tục kết nghĩa anh em, bạn be gọi là “phục-xiều” (kết bạn). Đôi bạn
kết nghĩa thường thân thiết gắn bó hơn anh chị em ruột. Bởi anh em ruột tuy
cùng máu mủ nhưng không chắc đã hợp tính tình. Còn “xiều” thường là bạn chuyển
thành bạn kết nghĩa, nên tâm đồng ý hợp. Hai người bạn cùng lứa tuổi, chơi thân
với nhau một thời gian, nhận thấy có nhiều điểm hợp với nhau, cảm mến, tôn
trọng nhau thì có thể kết nghĩa. Không ít trường hợp chỉ mới quen biết nhau
nhưng đã có cử chỉ, hành động chân tình, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn
nạn, hai người có thể làm lễ kết nghĩa. Việc kết nghĩa không nhất thiết phải
cùng lứa tuổi, nhiều trường hợp hơn kém nhau dăm ba tuổi nhưng thấy thân thiết,
hòa hợp, cần có nhau trong cuộc sống lao động sản xuất vẫn có thể kết nghĩa gọi
là “ai-xiều” và “nọng-xiều” (anh kết nghĩa, em kết nghĩa). Lễ kết nghĩa tuy đơn
giản nhưng trang trọng. Ngoài hai người kết nghĩa, đại diện gia đình hai bên,
còn có các già bản đến chứng kiến buổi lễ buộc chỉ cổ tay và uống nước thề giữ
trọn tình nghĩa bạn bè, anh em kết nghĩa. Những người đến dự cũng chân thành
chúc cho tình nghĩa giữa đôi bạn kết nghĩa mãi mãi bền vững dù trong hoàn cảnh
nào cũng không bỏ nhau. Khi lấy vợ có con, vợ và con của đôi bạn kết nghĩa cũng
quan hệ thân thiết. Họ thường gọi người bạn kết nghĩa của chồng bằng cái tên hết
sức thân mật là “phò-xiều” (bố kết nghĩa). Không chỉ riêng với nam giới, tục
kết nghĩa còn phổ biến trong giới nữ ở mọi lứa tuổi, trẻ cũng như già. Khi lấy
chồng có con, chồng con của đôi bạn kết nghĩa cũng trở nên gắn bó, đi lại thăm
hỏi như bà con họ hàng. Người chồng gọi bạn kết nghĩa của vợ mình là “mẹ-xiều”
(mẹ kết nghĩa) và con gọi là “lục-xiều”. Tục kết nghĩa anh em, bè bạn tồn tại
khá lâu và ngày nay vẫn được duy trì. Rất nhiều đôi bạn kết nghĩa đã quan hệ
đối xử với nhau hết sức tốt đẹp trọn tình, trọn nghĩa, không thua kém anh em
ruột thịt.
Ngoài
họ hàng bà con ra, mỗi thành viên trong bản làng còn có mối quan hệ với xóm
giềng. Dù không cùng chung huyết thống nhưng lại có rất nhiều mối quan hệ ràng
buộc với nhau trong cuộc sống, lao động sản xuất. Có thể nói, họ đã biết dựa
vào nhau, đùm bọc nhau trong cuộc đấu tranh để sinh tồn. Khi trình độ sản xuất
còn thấp kém, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu thì những việc như làm ruộng, phát
rẫy, đắp mương, rồi thiên tai địch họa…đều phải dựa vào sức lao động của cả
cộng đồng. Có thể nói xưa nay, mỗi gia đình trong bản có công việc hệ trọng
như: bệnh tật đau ốm, sinh nở, cưới xin, ma chay, tu hành…đều có sự hỗ trợ to
lớn của xóm giềng, bản làng. Các thành viên trong bản coi việc giúp đỡ lẫn nhau
là nghĩa vụ, là đạo lý làm người, không ai nghĩ rằng mình sẽ được trả ơn sau
này. Về mối quan hệ xóm giềng, bản làng các già bản thường dùng những câu tục
ngữ để khuyên răn con cháu như: “gỗ một cây rào dậu không kín”, lúc thiếu thốn
thì “con cá nhỏ bằng ngón tay út cũng chia đôi”, gặp khó khăn trở ngại thì
“nặng giúp nhau gánh, dai giúp nhau kéo”. Đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cộng
đồng là tập quán tốt đẹp của người Lào được duy trì qua nhiều thế hệ. Nhưng sau
này có nơi đã bị bọn phong kiến, quan lại lợi dụng để bóc lột những người nông
dân lao động cần cù chất phác, phá hoại sự chân tình, vô tư trong sáng một
truyền thống tốt đẹp của bản mường. Ngày nay, tập quán tốt đẹp trên được kế
thừa và phát huy để phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống mới và bảo vệ bản
làng.
Với
tập quán đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau khi có tai biến, lúc mừng vui
không có nghĩa là trong các bản mường không có những mâu thuẩn, va chạm, tranh
chấp với nhau trong cuộc sống, nhất là khi sản xuất chưa phát triển, trình độ
dân trí còn nhiều hạn chế. Nhưng từ thưở xa xưa, người Lào vốn yêu chuộng cuộc
sống hiền hòa, êm ái. Và đây cũng là một trong những bản sắc của dân tộc Lào.
Đứng trước mâu thuẫn, xích mích, người Lào thường có sự kiềm chế rất lớn, với
quan niệm “chín lần nhịn sẽ được thỏi vàng”. Hơn thế nữa, người Lào còn rất kỵ
cách xử thế “ăn cho thỏa đói, nói cho thỏa giận”. Do đó mà trong các bản mường,
kể cả đô thị, nơi tập trung như chợ búa, bến tàu, bến xe thường rất ít xảy ra
cãi cọ, chửi bới, xô xát lẫn nhau. Mọi sự tranh chấp đều được hòa giải một cách
êm thấm có lý có tình thông qua các già bản, trong đó không thể không kể đến sự
nhân nhượng, phục thiện của mỗi bên. Cãi nhau, chửi nhau đối với người Lào là
điều xa lạ, còn đánh nhau là một tội lỗi.
Mến
khách, sẵn sàng giúp đỡ những người gặp hoạn nạn, sa cơ lỡ vận gặp cảnh ngộ éo
le cũng trở thành một tập quán của người Lào. Khách nhỡ độ đường ghé quan bản
thường được mời ngủ lại cùng ăn uống với gia đình. Nếu ngại làm phiền gia đình
thì có thể ra ở “xả-la” một loại nhà từ thiện của bản. Ở đây có đủ xoong, nồi,
mắm muối, gạo nước để khách tự nấu ăn. Nếu khách là người quen biết, dù không
thân thiết nhưng lâu ngày mới có dịp gặp lại thì được gia chủ đón tiếp nhiệt
tình và cởi mở. Còn là khách thân thiết, ngoài bữa cơm rượu thân mật, chủ nhà
còn làm lễ “cầu may” cho khách. Để tăng thêm không khí trang trọng, chủ nhà có
thể gọi các con ra chắp tay trước ngực lễ phép chào hỏi khách. Trước thái độ
chân tình, cởi mở của chủ nhà làm cho khách được tự nhiên thoải mái ăn uống,
trò chuyện. Nhưng dù gia chủ có ân cần cởi mở đến đâu, khách cũng không được
suồng sã, mà cần ý tứ theo đúng tập quán truyền thống để khỏi phật ý gia chủ.
Người Lào rất kỵ sờ đầu và rất chú ý giữ gìn, đặc biệt là nam giới. Họ thường
tránh chui qua gầm nhà, dây phơi quần áo hoặc các vật ô uế khác. Bởi vậy, khách
tuyệt đối không được đụng chạm vào đầu người khác hoặc xoa đầu trẻ em. Trong
phòng chật hẹp khi đi lại tránh không để đụng hoặc bước qua chân người khác.
Khi đi qua trước mặt các cụ già phải xin lỗi và cúi thấp người xuống một chút.
Trong bữa ăn, khi gắp thức ăn tránh để chạm tay người khác.
Về
chào hỏi, những người cùng trang lứa gặp nhau thường chào “sạ-bai-đi” (chào
mạnh khỏe) đồng thời hai tay chắp trước ngực, đầu hơi cúi xuống. Đối với sư
sãi, ông bà, cha chú, thầy cô giáo, hoặc những người cao niên đáng kính khác
khi chào hỏi, nam cũng như nữ thường chắp hai tay ngang trán. Ngày nay, tại các
đô thị, trong công sở, để hòa nhập với xu thế của thời đại các giới chức gặp
nhau thường bắt tay. Nhưng giữa viên chức người Lào với nhau trước khi bắt tay
họ vẫn chắp tay chào theo truyền thống.
Người
quen hay lạ bị lỡ đường khi đi qua nương rẫy có thể ghé vào nhà nghỉ ngơi ở các
chòi canh dù vắng chủ. Trên chòi thường có sẵn gạo, mắm muối, nồi chảo, khách
có thể nấu ăn. Trên rẫy nếu có rau quả như bầu bí, ngô, sắn, khách có thể đào,
hái về nấu ăn. Nhưng sau đó, bằng mọi cách khách báo cho chủ biết việc ăn ở của
mình gọi là “khóp”. Được tin, chủ nương rẫy chẳng những không phật ý mà còn tỏ
ra vui vẻ vì tự nhiên đã làm được một việc thiện. Điều tối kỵ đối với người Lào
là sau khi đã ở lại trên chòi, đã đào hái rau quả, xong cố tình xóa các dấu
vết. Trong trường hợp này, người Lào thường có tập quán làm dấu thật rõ để chủ
nhân nhận biết ngay, gọi là “mải khóp”. Khi đi qua các khu rừng, dù cách xa bản
năm mười cây số, gặp tổ ong mật trên cây, những bụi sa nhân rừng…nhưng đã được
đánh dấu (có vết chặt chéo nhau, gai những cành lá đã khô…) thì coi như đã có
chủ, không được đụng chạm đến. Đây cũng là một quy ước của bản làng. Nếu ai đó
vì lòng tham cứ tùy tiện lấy thì coi như ăn cắp. Nếu biết chính xác người lấy
thì người nhận trước có thể kiện với già bản và đòi bồi thường.
Sống
trung thực, thật thà, không tham lam lấy của người khác là một tập quán hết sức
tốt đẹp của người Lào vốn có từ xa xưa đến tận ngày nay vẫn được kế tục và phát
huy. Trước đây ở các bản làng, theo thường lệ, thiếu thốn thì cho nhau hoặc cho
vay mượn, đến khi có thì trả, không phải trả lãi. Họ thường vay mượn lúa gạo
vào những tháng giáp hạt hoặc mùa màng thất bát do thú rừng phá hoại. Được hộ
cho vay thỏa thuận, người đi vay mang thúng mủng của mình đến nơi để lúa tự
đong đếm. Đến khi trả, sau khi báo cho chủ biết, người vay tự mang lúa đến đổ
vào bồ, không cần sự chứng kiến của gia chủ. Người cho vay cũng như người đi
vay mượn hoàn toàn tin tưởng nhau, không hề nghĩ đến hơn thiệt, vay đầy trả
vơi. Họ quan niệm rằng những ý nghĩ, việc làm như vậy là một tội lỗi. Để đề
phòng những tai biến bất ngờ, người Lào thường phân tán lúa gạo. Sau khi thu
hoạch hộ nào cũng dựng một chòi nhỏ gọi là “làu-khạu” để cất giữ lúa, ngô ở
ngay bên ruộng, rẫy cách xa bản dăm ba cây số nhưng không mấy khi bị mất mát. Ở
Nam Lào các gia đình nuôi trâu bò thả rông từng đàn năm ba chục con gần như
quanh năm trong rừng nhưng vẫn không mất trừ trường hợp bị thú dữ bắt.
6-
Lễ “Cầu yên” (xù-khoẳn) và lễ buộc chỉ cổ tay (phục khẻn)
Ở
Lào có một nghi lễ đơn giản nhưng thiêng liêng, trang trọng phổ biến trong nhân
dân các bản mường gọi là “xù-khoẳn”. Thật vậy, chỉ cần cây nến, bông hoa, bát
gạo, sợi chỉ trắng là có thể làm lễ “xù-khoẳn”. Lễ “xù-khoẳn” trở thành nghi lễ
rất phổ biến từ nông thôn đến thành thị. Theo ngôn ngữ Lào thì “xù-khoẳn” có
nghĩa là “vía trở lại”, mâm lễ để “xù-khoẳn” gọi là “pha-khoẳn”, người làm lễ
gọi là “mỏ-khoẳn” và nội dung cầu mong trong lễ gọi là “xụt-khoẳn”. Xưa nay,
người Lào có tập quán làm lễ “xù-khoẳn” trong cả hai trường hợp may và rủi
trong cuộc đời mỗi người. Cưới vợ, chuyển nhà mới, sinh con đầu lòng, thoáng
khỏi một tai nạn, gặp lại bạn thân, khách quý, đi đường xa đến đích an toàn,
kết nghĩa bạn bè, anh em, hoàn thành một việc hệ trọng…đối với người Lào đều
coi là sự may mắn. Còn các trường hợp như làm ăn thua lỗ, không làm xong một
việc đã định trước, toàn gặp những điều trục trặc đau ốm, cha hay mẹ chết…đều
là những rủi ro trong cuộc sống. Khi gặp toàn những điều may mắn như trên,
người Lào cũng làm lễ “xù-khoẳn” để thể hiện sự biết ơn, niềm phấn khởi tư
tưởng và cầu mong mọi sự được tốt đẹp hơn nữa. Còn gặp những rủi ro, người Lào
làm lễ “xù-khoẳn” cầu mong sự may mắn, để an ủi động viên con người vững tin ở
cuộc sống và hành động của mình.
Không
chỉ đối với con người, ở Lào còn có tục làm lễ “xù-khoẳn” cho các loại gia súc
trực tiếp phục vụ cho sản xuất như trâu, bò, ngựa…các loại nông cụ quan trọng
như cày, bừa, xe trâu, kho để thóc lúa. Chẳng hạn, trước và sau khi cày bừa
xong, người nông dân Lào thường chuẩn bị cỏ non, nước ướp hoa thơm để làm lễ
“xù-khoẳn” cho trâu- nguồn sức kéo chủ yếu trong mỗi vụ sản xuất. Trong buổi lễ
gia chủ đọc những lời cầu mong sao cho loài vật ngày càng sinh sôi nảy nở,
tránh được các loại dịch bệnh, thuần tính, kéo cày bừa khỏe góp phần làm ra
nhiều lúa gạo. Hàng năm, trước và sau khi sử dụng chiếc xe trâu – phương tiện
vận chuyển quan trọng ở nông thôn Lào xưa kia, chủ nhân cũng làm lễ “xù-khoẳn”.
Họ cầu mong chiếc xe được vững chắc, sử dụng luôn được an toàn. Trước lúc
chuyển lúa mới lên kho cất giữ, đa số nông dân Lào làm lễ “xù-khoẳn” cho cái
kho đó. Trong buổi lễ, gia chủ thành tâm cầu mong kho luôn được an toàn và
quanh năm không lúc nào vơi cạn.
Nhân
dân Lào còn làm lễ “xù-khoẳn” trong trường hợp có người thân bỗng nhiên bị ngớ
ngẩn, sợ sệt hoặc như người mất hồn, hoảng loạn do vừa trải qua sự việc ghê rợn
cận kề cái chết như đi rừng gặp hổ, qua sông thuyền bị lật…Theo tín ngưỡng cổ,
người Lào cho rằng mỗi con người đang sống có một linh hồn (vin-nhan) và nhiều
vía (khoẳn). Linh hồn luôn tồn tại gắn liền với cơ thể con người, nếu nó tách
ra thì con người chết, còn vía thì lúc hợp lúc tan, khi nó rời cơ thể thì con
người không còn khôn ngoan như lúc bình thường. Người ta phải làm mọi cách để
giữ nó luôn ổn định trong con người, hình thức hiệu nghiệm nhất là làm lễ
“xù-khoẳn”. Trong những trường hợp này, lễ “xù-khoẳn” có nét giống lễ cầu vía
và đúng với tên gọi của nó. Còn trong nhiều trường hợp khác, lễ “xù-khoẳn”
không đơn thuần là lễ cầu vía như tên gọi của nó. Có thể nói thực chất của
“xù-khoẳn” là lễ cầu may mắn, yên lành. Phải chăng đó là niềm mong ước lớn lao
của người nông dân Lào xưa kia khi trình độ sản xuất còn thấp kém, phụ thuộc
vào thiên nhiên.
Tại
các bản mường, nhân dân Lào còn có tục làm một nghi lễ khác có nội dung giống
“xù-khoẳn” nhưng gọi là lễ “phục-khẻn” nghĩa là lễ buộc chỉ cổ tay. Hình thức
buộc chỉ cổ tay là một nghi thức quan trọng trong lễ “xù-khoẳn”. Căn cứ vào nội
dung và hình thức của lễ “phục-khẻn”, có thể coi đây cũng là một hình thức của
lễ “xù-khoẳn” nhưng nó đơn giản ít tốn kém và qui mô nhỏ hơn. Với lễ buộc chỉ
cổ tay, chỉ quả trứng luộc hoặc quả chuối chín, nắm gạo và sợi chỉ trắng là có
thể làm lễ. Sau khi đặt quả trứng luộc lên bàn tay trái của người chủ lễ, người
làm lễ lấy sợi chỉ trắng cuốn một vòng quanh cổ tay rồi đọc nội dung cầu nguyện
trước khi thắt nút vòng chỉ. Những người cùng dự đưa tay vịn tay người làm lễ
với thái độ chân thành, thận trọng và tin tưởng.
Còn
lễ “xù-khoẳn” có quy mô lớn hơn lễ buộc chỉ cổ tay, cần có một thời gian chuẩn
bị nhất định. Muốn làm lễ “xù-khoẳn”, gia chủ phải chuẩn bị nến, hương hoa, các
loại bánh trái, rượu, thuốc lá đặt trên mâm lễ gọi là “pha-khoẳn”. Một số địa
phương còn có cả gạo, tiền trên mâm lễ - quy mô của mâm lễ tùy thuộc hoàn cảnh,
khả năng của mỗi gia đình. Đối với những gia đình khá giả ở chốn đô thị, trên
mâm lễ còn có một số tư trang quý cho chủ nhận lễ như nhẫn, dây chuyền vàng
cùng với những đài hoa kết thành hình tháp. Mâm lễ còn được đặt trên một tấm
vải đỏ hoặc màu sặc sỡ. Bà con đến dự lễ thường đem theo một khay lễ, một cân
gạo hoặc hoa tươi. Các vị sư ở ngôi chùa bản cũng được mời đến dự lễ
“xù-khoẳn”, đứng ra làm lễ thường là một cụ già cao niên có uy tín trong bản.
Mỗi mâm lễ “xù-khoẳn” có thể lớn nhỏ khác nhau song nội dung cũng như hình thức
đều giống nhau, nhất là không khí thiêng liêng trang trọng. Người chủ mâm lễ
luôn tỏ ra thành tâm tin tưởng, người đến dự lễ biểu thị sự nhiệt tình, chân
thành.
Khi
những người dự lễ đến đông đủ, khói hương trên mâm lễ bốc nghi ngút thì cụ già
làm lễ đến ngồi xếp chân bên mâm lễ theo hướng đã định. Ngồi sát mâm lễ là
người chủ lễ, tay phải vịn vào mâm lễ, tay trái đưa lên, bàn tay để ngửa như
chờ đón mọi sự yên lành. Người làm lễ bắt đầu đọc những lời cầu nguyện với
giọng nghiêm trang tha thiết. Mỗi lễ “xù-khoẳn” có nội dung mục đích khác nhau
nên cũng có những lời cầu nguyện thích hợp. Ở Lào những lời cầu nguyện
(xụt-khoẳn) được sưu tầm in thành sách, nhìn chung nội dung cầu nguyện trong lễ
“xù-khoẳn” phù hợp với từng trường hợp có thể và lòng mong ước cũng không quá
cao xa với cuộc sống thực tại. Sau khi đọc xong lời cầu nguyện, người làm lễ
lấy một sợi chỉ trắng trên mâm lễ buộc một vòng lên cổ tay trái người chủ mâm
lễ. Tiếp theo bà con dự lễ lần lược buộc những vòng chỉ trắng lên cổ tay trái
người chủ mâm lễ. Đến đây, lễ “xù-khoẳn” coi như kết thúc trong không khí cởi
mở, vui tươi. Mọi người ăn uống trò chuyện mừng cho chủ mâm lễ vừa được dón
nhận những vòng chỉ nhiệt thành báo trước mọi sự tốt lành sắp đến. “Xù-khoẳn”
là một nghi lễ rất phổ biến ở Lào. Do tính đơn giản của nó, dù giàu hay nghèo,
sang hay hèn hộ nào cũng có thể tổ chức lễ “xù-khoẳn”. Và bất kỳ người Lào, dù
trai hay gái trong cuộc đời của mình đều trải qua hàng chục, hàng trăm lần làm
lễ “xù-khoẳn”. Cùng với thời gian, lễ “xù-khoẳn” không ngừng được biến đổi để
thích ứng với sự phát triển của xã hội. Chẳng hạn, nó hòa nhập với đạo Phật khi
tôn giáo này được truyền bá và phát triển rộng rãi ở Lào, nhưng “xù-khoẳn” vẫn
giữ được cái cốt lõi của một tín ngưỡng cổ, đó là tính đơn giản, thiêng liêng
và quan trọng. Nội dung cầu nguyện trong lễ “xù-khoẳn” được bổ sung phong phú
hơn, về hình thức cũng được trau chuốt bóng bẩy, giàu nhạc điệu khi đọc có sức
hấp dẫn hơn trước. Tóm lại lễ “xù-khoẳn” đã vượt quá khuôn khổ của một nghi lễ
bình thường, trở thành một tình cảm, niềm tin và nguồn động viên lớn về mặt
tinh thần đối với người Lào trong cuộc sống, lao động sản xuất.
7-
Về sinh đẻ
Trước
đây cũng như ngày nay, người Lào quan niệm việc sinh đẻ, tu hành, cưới xin, ma
chay là những bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mỗi người. Và đây cũng là
dịp để mọi người thể hiện tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong gia đình, bà
con, xóm giềng, bản làng. Ở các vùng thôn quê cũng như đô thị trước kia việc
sinh đẻ có nhiều kiêng kỵ, phức tạp. Có những nội dung được đúc kết từ thực
tiễn cuộc sống, nhưng không ít điều cấm kỵ mang đậm dấu ấn tín ngưỡng cổ và
Phật giáo. Những cấm kỵ này tồn tại suốt một thời gian dài cho đến khi mạng
lưới y tế được triển khai xuống tận bản làng thì mới có sự thay đổi mạnh mẽ
dưới chế độ mới sau năm 1975.
Nước
Lào đất rộng người thưa, nhân dân Lào tôn sùng đạo Phật nên rất quý trọng con
người, coi con người là tài sản quý giá nhất. Do đó mọi kiêng kỵ từ xa xưa
không ngoài mục đích bảo vệ con người. Đa số người Lào tin rằng ở hiền sẽ gặp
lành, ăn ở tai ác sẽ gặp họa. Muốn có con người hiền lành, người mẹ phải lo
sống chuẩn mực ngay từ lúc đứa con còn nằm trong bụng. Dù là trai hay gái, đứa
con trong bụng đều chịu ảnh hưởng đến tính tình của người mẹ, do đó người phụ
nữ Lào khi mang thai thường được khuyên không nên cáu gắt, phiền muộn hoặc nói
dối mà phải luôn sống vui vẻ, tâm hồn thanh thản. Ngoài ra còn một số điều răn
khác được một số bà mẹ mang thai ở Lào quan tâm thực hiện đồng thời để tích
phúc đức cho đứa con sau này như:
-
Luôn có lòng bác ái.
-
Không đánh đập, hành hạ động vật.
-
Không nói dối, ăn cắp dù rất nhỏ.
-
Không ăn nói chua ngoa.
-
Không say mê điều gì theo ý thích chủ quan của mình.
Trong
giai đoạn này cũng có một số lời khuyên đối với người chồng, đồng thời cũng là
trách nhiệm của người cha đối với đứa con sắp ra đời.
-
Chăm sóc vợ.
-
Quan tâm đến việc ăn uống của vợ.
-
Giữ tâm hồn mình luôn trong sạch.
-
Tránh sự say mê bất kỳ điều gì theo ý thích của mình.
Khi
người phụ nữ có thai, nhất là đứa con đầu, cả gia đình họ hàng đều vui mừng. Để
chia sẻ niềm vui đồng thời cầu nguyện mọi sự yên lành cho người mang thai, cha
mẹ thường làm lễ “xù-khoẳn”. Lúc này thông thường người mẹ đẻ quan tâm nhiều
nhất đến con gái mình. Việc phá thai đối với người Lào là một điều tối kỵ, là
một tội lỗi. Bởi vậy việc phá thai đối với người Lào, nhất là ở nông thôn là
điều xa lạ.
Về
chế độ ăn uống, trước đây trình độ tuy còn nhiều hạn chế nhưng từ thực tiễn
người Lào đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm bổ ích đối với người mang thai.
Chẳng hạn người mang thai không được ăn uống cho bõ thèm, tránh ăn những thức
ăn quá béo, cay, ngọt, chua và mặn. Dù có mệt mỏi nhưng không nên nằm, ngồi
nhiều. Ở nhiều địa phương còn có một số điều kiêng kỵ phổ biến khác người mang
thai thường được người già nhắc nhở giữ gìn như: không ăn sọ dừa, sợ đặc ruột,
không ăn trái cây dính liền nhau sợ đẻ sinh đôi, tránh bước qua những sợi dây
bện, sợ nhau bị cuốn. Người có thai còn phải tránh không đứng ngồi ở ngưỡng cửa
ra vào, nói chung ở vị trí nối tiếp nhau giữa trong ngoài, trên dưới, sợ lúc
sinh sẽ dở dang, kéo dài. Về ngày tháng sinh con, tuy không có trình độ chẩn
đoán như ngày nay, nhưng các cụ già lúc ấy đã đúc kết “con so chửa mười, con rạ
chửa chín” (con so trên chín tháng, con rạ trên tám tháng). Vào tháng cuối,
người phụ nữ có thai chỉ làm việc lặt vặt quanh quẩn trong nhà. Người gần gũi
săn sóc, sẵn sàng hỗ trợ, lúc này thông thường là mẹ đẻ, nếu không còn mẹ thì
chị em, họ hàng người thân cùng giới.
Khi
trở dạ, người nhà nhanh chóng đi mời bà đỡ gọi là “mỏ tăm-nhe”. Vào thời điểm
này, điều tối kỵ là có người đứng ở cầu thang, thập thò ở ngưỡng cửa hoặc nói
những chuyện khúc mắc không giải quyết được dù người ấy là người nhà, họ hàng
xóm giềng chạy sang thăm hỏi giúp đỡ. Người Lào cho rằng hành động và lời nói
trên sẽ ảnh hưởng đến việc sinh nở của sản phụ. Đỡ lưng, xoa bụng, an ủi sản
phụ trong suốt thời gian đẻ đau này là một phụ nữ đứng tuổi, có họ hàng gần
gũi, đông con, gia đình sống hạnh phúc. Đẻ xong sản phụ được dìu đến nằm bên
bếp lửa và bắt đầu từ đây phải qua thời gian nằm lửa gọi là (dù-căm). Thông
thường người đẻ con so ít nhất cũng qua 15 ngày nằm lửa, con rạ khoảng 10 ngày.
Suốt thời gian nằm lửa, người nhà, bà con thân thuộc thay phiên nhau đẩy củi
quanh bếp lửa để canh chừng sản phụ với quan niệm để phòng ma tà có thể đến làm
hại gọi là “căn-phay-lượt”. Những ngày này sản phụ được ăn uống khá tốt để
nhanh chóng phục hồi sức khỏe, có nhiều sữa cho con bú. Gia đình thường tránh
không cho sản phụ ăn các món ăn có chất béo, chất khó tiêu hóa. Còn nước uống
sản phụ chỉ được uống các loại nước lá đun sôi – một loại thuốc dân gian gọi là
“mõ-kăm”. Sau một hai ngày nằm lửa, nếu sức khỏe bình thường thì sản phụ được
tắm rửa bằng nước nóng. Tắm xong người nhà lên chùa xin nước phép (nặm-môn) về
vẩy cho sản phụ.
Theo
tục lệ của người Lào chỉ có con hay cháu ruột mới được sinh đẻ trong nhà. Còn
người ngoài dù thân quen đến đâu cũng phải dựng tạm một cái lán ngoài vườn để
sinh nở. Người Lào cho rằng nếu không phải con cháu mà đẻ trong nhà thì sẽ xui
xẻo, ảnh hưởng đến công việc làm ăn bình thường của gia đình. Trong thời gian
nằm lửa, gia đình thường tổ chức ngâm, đọc các loại truyện cổ dân gian, đánh
bài, trai gái đến hát ca tạo không khí vui vẻ tránh buồn tẻ hoặc sợ hãi. Cũng
dịp này, bà con họ hàng, xóm giềng đến thăm hỏi tặng quà mừng như hoa quả, váy
áo, vòng cổ, vòng tay để thể hiện tình cảm thân thiết đối với sản phụ và gia
đình. Đối với số gia đình neo đơn, chị em bè bạn đến thăm thường giúp đỡ một số
công việc vặt nhưng thiết thực như giặt giũ, gánh nước. Trong thời gian này,
gia đình thường cắm “ta-lẻo” và một cành lá dưới cầu thang để ngăn chặn ma tà
đồng thời là tín hiệu báo cho khách lạ biết trong nhà đang có người phải kiêng
cữ để giữ ý tứ trong giao tiếp. Chẳng hạn không nói chuyện dữ, tin không vui
làm ảnh hưởng đến tư tưởng sản phụ.
Hết
thời gian nằm lửa, gia đình làm lễ “xù-khoẳn” cho sản phụ, bà con xóm giềng đến
dự lễ và buộc chỉ cổ tay chúc mừng sản phụ sinh đẻ an toàn, mẹ tròn con vuông,
bởi người Lào coi việc sinh nở rất hệ trọng, dễ nguy hiểm đến tính mạng cả mẹ
lẫn con. Sau lễ “xù-khoẳn”, sản phụ có thể tắm rửa bằng nước lạnh, ăn uống bình
thường không phải kiêng khem như trước.
Đối
với trẻ sơ sinh, từ lúc lọt lòng đến khi được ẵm đến đặt nằm bên người mẹ tuy
chỉ là thời gian ngắn nhưng cũng phải qua một số nghi lễ. Sau khi được bà đỡ
cắt rốn trẻ sơ sinh được đặt xuống nền nhà. Đây là thời điểm rất quan trọng
được coi là giờ phút cất tiếng chào đời của trẻ sơ sinh. Cha mẹ phải ghi nhớ để
sau này còn xem số tính tuổi đi tu, lấy vợ, lấy chồng. Theo tục lệ cổ truyền,
lúc đặt xuống sàn nhà con trai phải nằm ngửa, con gái phải nằm sấp. Nếu đặt
ngược lại thì coi như điều nghịch, sau này lấy vợ lấy chồng sẽ không có con
hoặc con cái bị tàn tật. Ngay sau đó bà đỡ sẽ dùng dầu dừa hay sáp ong xoa toàn
thân đứa trẻ rồi dùng khăn lau sạch. Tiếp theo đứa trẻ sơ sinh được tắm bằng
một nồi nước lá đun sôi để nguội. Người tắm thường chú ý nắn chân tay cho trẻ.
Tắm rửa, mặc áo, quấn tã xong trẻ lại được nằm trong một cái nia có lót một
miếng vải trắng. Đây cũng là một tục phổ biến ở nông thôn Lào với quan niệm là
đứa trẻ sẽ khỏe mạnh, mập mạp. Sau khi nằm vào chiếc nia, người nhà bê chiếc
nia ra đặt ngay ở ngưỡng cửa ra vào để cúng ma tà, người làm lễ đẩy miệng nia
sát vào cửa đồng thời khấn đi khấn lại: “Nếu con bay thì lấy đi, qua ngày nay,
ngày mai là con tao”. Tục cúng này cũng phổ biến ở vùng nông thôn Đông Bắc Thái
Lan với quan niệm ba ngày đầu đứa trẻ có thể chết do ma quỷ đầu thai, sang đến
ngày thứ tư mới chắc là một kiếp người đầu thai.
Tục
cúng như trên nảy sinh và tồn tại do nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên
nhân quan trọng nhất có thể do lúc bấy giờ ở Lào tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh
khá cao do hình thức đỡ đẻ quá lạc hậu và nhiều tục lệ dị đoan thường xuyên đe
dọa tính mạng trẻ sơ sinh. Làm lễ cúng ma tà xong trẻ sơ sinh mới được ẵm đến
đặt nằm cạnh người mẹ. Bình thường sau một hai tuần trẻ được nằm nôi. Lễ nằm
nôi được tổ chức khá trang trọng, có đông đủ bà con xóm giềng đến tham dự. Một
hình thức được nhiều địa phương quan tâm trong lễ nằm nôi là bỏ giấy bút vào
nôi cùng lúc với trẻ với niềm tin sau này lớn lên đứa trẻ sẽ học hành thông
minh. Nếu con gái thì bỏ kim chỉ vào nôi để sau này trở thành cô gái giỏi công
việc may vá, cán bông dệt vải.
Trước
đây, người Lào không đặt tên ngay cho con sau khi sinh, điều quan trọng là cha
mẹ nhớ kỹ ngày giờ sinh (lúc đặt xuống sàn nhà). Ở nhiều nơi đứa trẻ đã biết
chạy nhảy tung tăng dưới sân nhưng vẫn gọi bằng cái tên chung như “bặc e,
i-nang” (giống thằng cu, cái đĩ) bởi người Lào rất ngại đặt tên lúc mới lọt
lòng cũng như ở tuổi nhi đồng vì sợ ma tà quấy rầy hoặc bắt mất. Có trường hợp
đứa trẻ cạo đầu nhập tu làm chú tiểu mới đặt tên thật, một số gia đình hiếm hoi
hoặc khó nuôi con, thường có tục làm lễ gửi gắm cho một nhà sư đỡ đầu với ý
nghĩa ma tà sẽ kiêng nể những người tu hành. Trẻ em được nhà sư đỡ đầu trước
cái tên thật của mình còn có thêm tiếng “khên” nghĩa là dâng, cúng như Khên Mi,
Khên Ma chẳng hạn. Việc đặt tên cho đứa con theo tục lệ xưa ở Lào cũng không
hoàn toàn theo ý muốn của ông bà, cha mẹ mà phải dựa vào ngày sinh là ngày
“cứng” hay “mềm”, chẳng hạn trẻ sinh vào ngày thứ ba là ngày cứng thì tên con
phải mềm cho dung hòa như Òn-Xả, Òn-Xỉ (òn có nghĩa là mềm). Nếu sinh vào ngày
thứ hai là ngày mềm phải đặt tên cứng như Thong-Mi, Thong-Ma (Thong là đồng).
Để biết được ngày cứng hay mềm cha mẹ phải nhớ ngày giờ sinh rồi nhờ sư bác
tính. Người Lào thường thích chọn cho con mình những cái tên rất đẹp gắn với âm
thanh, màu sắc của núi rừng, sông suối hoặc những đức tính tốt của con người
gồm toàn thanh bằng, có hai âm tiết nghe rất êm ái. Con trai thường được đặt
tên như: Thong-Đăm, Thong-Đeng, Bun-Mi, Bun-Ma (đồng đen, đồng đỏ, có phú, phúc
đến)…còn con gái thường mang tên các loài hoa, ánh trăng hoặc các loại đá quý
như Bua-Khăm (sen vàng), Chăn-Phêng (trăng rằm)…do đó người Lào thường có tên
trùng lặp nhau.
Về
họ, trước đây người Lào không có khái niệm giống như một số dân tộc khác, con
phải mang họ cha thể hiện sự kế tục của dòng họ, bởi vậy suốt một thời gian dài
người Lào không dùng họ đặt sau tên mình. Vào khoảng thập kỷ ba mươi, bốn mươi
của thế kỷ XX này tầng lớp trí thức, phong kiến quý tộc mới bắt đầu dùng họ đặt
sau tên nhưng không phải con mang họ cha. Lúc ấy người Lào thường lấy họ theo ý
thích cá nhân hoặc tiểu gia đình, bởi vậy trước đây không thể căn cứ vào họ để
tìm mối quan hệ về huyết thống dòng họ ở Lào. Dưới thời chủ nghĩa thực dân kiểu
mới của đế quốc Mỹ có một số gia đình quý phái, trí thức, tư sản mại bản có ý
thức dùng họ cha để củng cố uy thế của dòng họ, vợ lấy họ chồng, thậm chí một
số tay chân thân tín cũng lấy họ “chủ” của mình như họ Chăm-pa-sắc ở Nam Lào,
họ Xạ-nạ-ni-kon ở Viêng-chăn. Ở một số vùng nông thôn vẫn có trường hợp người
con trai đến làm rể lấy họ vợ là chuyện bình thường. Hiện tượng này không bị
ràng buộc hoặc đối lập nhau mà tồn tại một cách tự nhiên trong xã hội, mặc dầu
chế độ phụ quyền được khẳng định từ lâu trong lịch sử.
Từ
lúc lọt lòng mẹ đến khi chập chững biết đi, trẻ thơ chủ yếu dựa vào nguồn sữa
mẹ, cháo hoặc cơm nhai. Ở nông thôn trước kia, lúc ốm đau dù nặng hay nhẹ đều
nhờ thuốc cổ truyền dân tộc kết hợp với cúng bái, cầu xin Trời, Đất, Thần,
Phật. Nhiều trẻ thơ do không thích nghi được với môi trường sống nên sinh bệnh
tật, nhất là khi có các dịch bệnh. Rất nhiều trường hợp cha mẹ phải bó tay
trước giây phút hấp hối của con cái, chỉ vì không có mạng lưới y tế, thuốc men,
đường sá không có, đi lại gặp rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh lo sợ thương
con nhưng bất lực nên dẫn cha mẹ đến chỗ mê tín, sẵn sàng làm mọi nghi lễ miễn
có thể cứu được con mình. Ở nhiều địa phương còn có những tục kiêng kỵ khác như
thấy con khỏe mạnh, mập mạp cũng không dám khen mà đâm lo sợ phải đi xin người
đỡ đầu, nhận làm con nuôi, đeo nhiều vòng vía bằng bạc ở cổ tay, chân hoặc
những gói bùa phép do thầy cúng cấp. Phải đến cuối năm 1975, đất nước được giải
phóng hoàn toàn mới có điều kiện phát triển mạng lưới y tế xuống tận bản làng.
Hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao
kiến thức cho các sản phụ. Hơn 20 năm qua nhiều nhà hộ sinh được xây dựng khắp
bản mường lớn, giao thông đi lại giữa các bản được nối liền thuận tiện. Những
tục lệ kiêng kỵ mê tín dị đoan, cách đỡ đẻ phản khoa học của các bà mụ xưa kia
đã bị đẩy lùi trước ánh sáng sản khoa hiện đại. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã
được kéo xuống ở mức thấp nhất trong lịch sử.
8-
Tu hành
Tu
hành là một bước ngoặt quan trọng đối với mỗi thanh thiếu niên Lào (nam giới).
Trong cuộc đời mỗi người Lào trước đây, hầu như ai cũng qua một đôi lần cạo đầu
đi tu, việc đi tu trở thành tục lệ phổ biến đối với người Lào. Những người qua
tu hành được coi như là người “lành”, người Lào gọi là “khôn xúc” (người chín)
được xã hội trọng vọng, một trong những tiêu chuẩn được các cô gái ngưỡng mộ.
Trong suốt cuộc đời, nếu không qua một lần đi tu là điều không bình thường
trong xã hội Lào trước kia. Tục lệ đi tu ở Lào xưa kia phát xuất từ quan niệm
của Phật giáo là thuyết luân hồi và khái niệm về dục vọng. Theo triết lý của
đạo Phật ở Lào thì cuộc đời con người được coi là bể khổ, nguồn gốc của nỗi khổ
ấy là dục vọng (tăn-hả). Khái niệm về dục vọng được chia làm nhiều loại như:
xác thịt (kăm-tăn-hả), danh vọng, giàu sang (pha-vạ-tăn-hả) và những điều không
muốn mà nó cứ đến (vi-pha-va-tăn-hả). Con người muốn thoát khỏi cái bể khổ ấy
chỉ có một con đường là từ bỏ dục vọng. Không cắt bỏ được dục vọng thì con
người cứ lẩn quẩn trong cái vòng luân hồi (viên-cợt), dù có đầu thai sang kiếp
khác vẫn cứ bị chìm đắm trong bể khổ. Còn dục vọng thì con người cứ quẩn quanh
giữa hành động (kăm-mạ), hậu quả (vĩ-bạp) và tội lỗi (ki-la-tăn-hả). Kiếp sau
có được sống hạnh phúc (xuc-cạ-ti-phạp) hay là khổ sở hơn (thúc-kha-ti-pháp)
phụ thuộc vào tỷ lệ giữa phúc và tội từ kiếp trước. Hình thức tránh được tội
lỗi và tích được nhiều phúc đức là con đường tu hành.
Trên
đây là quan niệm nhân sinh quan của các phật tử thuộc tầng lớp trí thức phong
kiến quý tộc ở Lào. Còn đa số phật tử là nông dân lao động thì cho rằng tu hành
là một tập quán xã hội hoặc khi gia đình xảy ra tai biến. Quan niệm này được
thể hiện khá rõ trong các trường hợp đi tu của thanh niên Lào trước đây. Phổ
biến nhất là đi tu theo tập quán của xã hội. Người con trai đến tuổi trưởng
thành cha mẹ phải lo cho con đi tu một thời gian theo lệ của bản mường. Thời
gian và số lần đi tu tùy thuộc mỗi gia đình. Tuy không phải là điều bắt buộc
nhưng qua nhiều thế hệ dường như ít có phật tử nào không làm theo tập quán này.
Trường hợp thứ hai người thanh thiếu niên Lào tạm khoác áo cà sa một thời gian
khi gia đình xảy ra tai biến như bố mẹ chết, lâm bệnh trầm trọng hoặc xảy ra
những tai nạn bất ngờ. Cha hay mẹ chết, người con trai thường phải đi tu để
tích thêm phúc đức giúp cha mẹ được đầu thai ở kiếp sau sung sướng hơn. Sau
trận ốm “thập tử nhất sinh” của ông bà, cha mẹ, con cháu cũng đi tu một thời
gian nhất định để có thêm phúc đức giúp người bệnh vượt qua mọi sự mệt mỏi,
bình phục nhanh chóng.
Ngoài
ra còn có một số trường hợp khác người Lào cũng cạo đầu đi tu nhưng không phổ
biến. Chẳng hạn làm ăn gặp nhiều trắc trở, liên tiếp bị thua lỗ cũng cho con đi
tu để cầu mong gặp sự may mắn. Có người cha mẹ chết sớm, không có anh em họ
hàng thân thích, cảm thấy cô đơn nên phải nhờ tu hành để tìm lại niềm lạc quan,
tin tưởng trong cuộc sống. Lại có người cảm thấy tâm hồn trống trải, cằn cỗi
không hòa nhập được với cộng đồng, thiếu niềm tin ở cuộc sống trần tục nên đã
gửi gắm cả cuộc đời mình vào chốn cửa Phật với hy vọng mọi sự tốt đẹp ở kiếp
sau.
Việc
tu hành trở thành tục lệ phổ biến nhưng vẫn có những quy định tối thiểu đối với
người thanh thiếu niên trước lúc đi tu. Trước hết người xin đi tu phải đủ tuổi.
Ở vùng Đông Bắc Thái Lan quy định phải hai mươi tuổi trở lên mới được công nhận
là nhà sư, dưới hai mươi tuổi ai đi tu mới chỉ là chú tiểu. Người xin đi tu
phải là người sinh sống lương thiện có gia đình, bà con cư trú ở một bản mường
nhất định. Người thanh niên xin nhập tu phải có tư cách đúng đắn, sống lành
mạnh, không nghiện rượu, đam mê cờ bạc hoặc hút thuốc phiện. Về sức khỏe, phải
có cơ thể lành lặn không mắc các bệnh mãn tính, tâm thần, nếu mắc bệnh thông
thường có thể hoãn một thời gian để chạy chữa. Về trình độ văn hóa, người xin
nhập tu tối thiểu phải biết đọc, biết viết. Đối với những người chuyên trộm
cướp, có tội với bản mường, phạm pháp đang bị truy nã, bị kết án…không được vào
tu. Nói chung nhà chùa nghiêm cấm những kẻ lợi dụng cửa Phật để trốn tránh tội
lỗi, nghĩa vụ đối với xã hội hoặc công nợ do làm ăn thua lỗ.
Khi
có đủ điều kiện, gia đình và người xin đi tu phải làm lễ nhập tu theo quy định
của nhà chùa gọi là “Kong-buột”. Trước hết cha mẹ mua nến, hương hoa rồi dẫn
con lên chùa tỏ ý xin đi tu và nhờ vị sư thầy giúp đỡ. Sau khi được vị sư trụ
trì ở ngôi chùa chấp thuận và định ngày tháng nhập tu, nhà chùa sẽ báo tin cho
các tín đồ trong bản mường biết gọi là “Pạ-khên-nác” nghĩa là “dâng Rồng”.
Thông thường nhà chùa hẹn trước lễ nhập tu ba mươi ngày. Đây là thời gian quan
trọng để nhà chùa trang bị cho người thanh niên sắp đi tu những điều cần thiết
như cách xưng hô, đi đứng, ngồi, quỳ, vái lạy, được coi là yêu cầu cơ bản phải
thuần phục ngay từ ngày nhập tu cũng như trong suốt thời gian tu hành. Ở một số
địa phương người sắp đi tu còn phải học thêm chữ “thăm”-loại chữ ghi chép kinh
kệ trên các tập lá cọ.
Đối
với gia đình có con em sắp đi tu thì đây cũng là thời gian rất quý để chuẩn bị
cho ngày lễ được chu đáo hơn, ngoài nến, hương, hoa, vải, vàng, dao cạo đầu,
chủ lễ còn lo liệu thức ăn, các loại bánh dân tộc để dâng lên chùa và thết đãi
bà con họ hàng, xóm giềng đến dự. Với nhà chùa, đây cũng là thời gian cần thiết
để hiểu thêm về người đi tu thông qua các Phật tử trong bản mường.
Ở
Lào cũng như Thái Lan sắp đi tu gọi là “Nác”. Theo tiếng Lào “Nác” có nghĩa
trong sạch hoặc rồng. Trong trường hợp này được gắn với nghĩa Rồng bởi nó xuất
phát từ một truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi ở Lào cũng như Thái Lan.
Theo các già bản, truyền thuyết đó có thể tóm tắt như sau: Thưở xa xưa thấy các
chàng trai trong bản làng đến tuổi mười tám đôi mươi ai cũng cạo đầu đi tu một
thời gian, chúa Rồng cũng hóa thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú xin đi tu.
Nhưng đến khi ngủ thì nhà sư kia lại hiện nguyên hình là một chúa Rồng. Một đêm
nọ tung tích của nhà sư ấy bị lộ và đến tai Phật. Hay tin, Phật bèn cho mời
chúa Rồng lên hỏi hư thực ra sao và khuyên nên sớm thoát tục. Để biểu hiện sự
lưu luyến đối với việc tu hành và ghi nhớ những ngày tháng ngắn ngủi đầy hấp
dẫn ấy, trước lúc rời nhà chùa, chúa Rồng ngỏ ý muốn Phật cho lấy tên mình để
gọi các chàng trai sắp đi tu. Để đáp lại lòng thiết tha chân thành của chúa
Rồng, Phật chấp nhận và từ đó những người chuẩn bị cạo đầu đi tu đều được các
Phật tử gọi là “Nác”.
Sau
non một tháng tập trung học ở chùa, trước buổi lễ nhập tu một đôi ngày, người
thanh niên được xuống bản chào các già bản, ông bà, cha mẹ, xóm giềng và bè bạn
thân thiết khác. Nếu có vay mượn, nợ nần ai thì cũng trang trải cho xong xuôi
để lúc nhập tu lòng được thanh thản. Tục này người Lào gọi là “Pòi-nác” (thả
Rồng).
Đúng
ngày giờ đã hẹn, gia đình có con em sắp đi tu làm lễ gọi là “Kong-buột”. Lễ
nhập tu có thể tổ chức ở nhà hay ở chùa tùy mỗi gia đình. Nếu trong bản có hai,
ba người làm lễ nhập tu cùng một ngày thì thường tổ chức ở chùa cho rộng rãi,
tiện lợi và vui vẻ hơn. Ngay từ buổi chiều trước ngày lễ nhập tu, tại gia đình
chủ lễ đã nhộn nhịp đông vui. Để chia sẻ niềm vui đối với gia đình chàng trai
sắp đi tu, anh em, họ hàng, xóm giềng, bè bạn tấp nập đến thăm hỏi, chúc mừng.
Hầu như ai đến mừng cũng mang theo tặng phẩm dù chỉ là một âu hoa tươi, gói
nến, bó nhang, đĩa trầu cau, bó thuốc lá… để thể hiện tình nghĩa bản làng, góp
phần làm cho lễ nhập tu thêm ấm cúng, trang trọng. Khi bà con dân bản đến đông
đủ, nghi lễ chúc mừng được bắt đầu một cách long trọng. Mọi người chắp tay
trước ngực, kính cẩn nghe tăng lữ tụng kinh cầu nguyện. Đến tối tổ chức vui
chơi, múa hát gọi là “ngăn-kong-buột”. Gia đình có con cháu đi tu trở thành một
ngày lễ hội. Đây cũng là dịp gặp gỡ ca múa, tỏ tình tỏ ý của trai gái trong bản
làng và các bản lân cận. Mọi người đến dự đêm vui “ngăn-kong-buột” đều bày tỏ
niềm vui, chân thành chúc mừng gia chủ có con đi tu, sẽ tích thêm nhiều phúc
đức, bản làng sẽ có thêm một người “lành”, một tri thức. Đặc biệt sự có mặt của
các cô gái, các chàng trai, thường góp phần quan trọng làm cho đêm vui thêm rộn
ràng, náo nhiệt. Theo người Lào tục vui chơi, ca múa trước lúc nhập tu là sự
khích lệ đối với gia đình và chàng trai sắp tạm biệt cuộc sống trần tục.
Sáng
sớm ngày lễ nhập tu, gia đình làm lễ dâng cơm, bánh trái cho sư (Liễng-phạ).
Tiếp theo gia đình, bà con, xóm giềng mặc những bộ váy áo dân tộc đến tham dự
đám rước chàng trai đi tu lên chùa gọi là “hè nác” (rước Rồng). Thanh niên trai
gái còn mang theo các loại nhạc cụ dân tộc như trống, chiêng, khèn bè. Phương
tiện để rước chàng trai tùy mỗi gia đình, bản làng. Có nơi rước bằng voi, ngựa,
thuyền hoặc kiệu. Ở các đô thị thời hiện đại, các gia đình khá giả rước bằng ô
tô nhưng hình thức phổ biến là rước bằng kiệu gọi là “tiêng” hay “măng”
(giường). Chàng trai khoác áo cà sa, mặc “phạ-va”, quấn “phạ-biềng” (khăng
quàng chéo qua ngực) màu vàng, đầu, lông mày cạo nhẵn, ngồi nghiêm trang trên
kiệu do bốn người khiêng. Theo sau kiệu là các già bản, gia đình, bà con, xóm
giềng, bầu bạn. Họ vừa đi vừa múa hát reo hò xen lẫn tiếng trống, tiếng chiêng,
tiếng khèn réo rắt, sôi động. Đám rước thường đi vòng quanh bản rồi mới lên
chùa. Nếu trong bản hay bản lân cận cũng tổ chức rước “Nác” trong ngày cùng một
chùa thì thường hẹn nhau ở một cánh đồng hoặc dưới cây cổ thụ để nhập thành một
đoàn cho thêm phần tưng bừng náo nhiệt. Khi đi vào sân chùa đám rước đi quanh
ngôi “xỉm” (ngôi nhà để các pho tượng Phật) ba vòng từ trái sang phải.
Đám
rước kết thúc, mọi người vào chùa làm lễ cầu yên cho chàng trai (xù-khoẳn-Nác).
Người đi tu ngồi sát mâm lễ, phía sau là cha mẹ, bà con, xóm giềng. Phía trong
là sư thầy và các nhà sư, chú tiểu trong chùa. Sau những lời cầu nguyện mọi sự
tốt lành của chủ lễ, mọi người lần lượt buộc chỉ cổ tay cho người đi tu. Lễ
“xù-khoẳn-Nác” xong cha hay mẹ dẫn người con nhập tu vào “xỉm”. Nếu cha thì dắt
tay trái, mẹ thì dắt tay phải. Trường hợp không còn cha mẹ thì người thân thay
thế. Vào “xỉm” người đi tu vào thắp hương lạy Phật rồi trở về ngồi bên cha mẹ
để nhận thêm áo quần của nhà chùa. Sau đó người tu chắp tay lạy cha mẹ, chào
tạm biệt họ hàng, bè bạn rồi vào ngồi cùng các nhà sư trong chùa, hai tay cung
kính chắp trước ngực, mắt hướng về phía sư thầy hứa làm tròn bổn phận một nhà
tu hành và xin thực hiện “xỉn-síp” (thập giới). Sư thầy khoác bình bát lên vai
người mới nhập tu và căn dặn một số điều cần thiết và từ giờ phút này chàng
trai chính thức trở thành một nhà sư ở ngôi chùa. Lễ nhập tu kết thúc, bà con
dân bản trở về nhà trong không khí vui vẻ, tin tưởng. Các chàng trai cô gái lại
nổi trống, chiêng múa hát cho đến lúc chia tay nhau tại nhà chàng trai mới đi
tu.
Ba
ngày đầu mới nhập tu nhà sư được học thêm một số điều răn khác nữa. Chẳng hạn
người đi tu chỉ được mặc áo cà sa do nhà chùa cấp. Hàng ngày phải đi khất thực.
Người đi tu có thể uống các nước lá cây rừng nấu (giống lá vối, ngành ngạnh)
hoặc ngồi một mình dưới các gốc cây trong chùa. Người đi tu tuyệt đối không
được đàn hát, giết súc vật, ăn cắp… Trong ba ngày đầu, từ sáng sớm nhà sư
thường khoác bình bát đi khất thực và mang theo một lọ nước mát. Khi nhận thức
ăn do các Phật tử dâng cúng phải dùng hai tay đỡ, nếu là con gái phải lấy khăn
lót. Nhận thức ăn xong, nhà sư lui lại mấy bước rồi ngồi xuống, một tay để xuôi
xuống ngực, một tay cầm lọ nước rỏ xuống đất cầu mong cho phúc đức lan rộng
trong thế gian, con người tránh được nghiệp chướng, bệnh tật. Lễ rỏ nước được
tiến hành trong ba ngày đầu mới nhập tu gọi là “dạt-nẵm”. Từ ngày thứ tư trở
đi, gia đình có con mới đi tu thường làm lễ cầu yên cho con. Sau khi dâng xôi,
bánh trái, cho sư trên chùa, gia đình còn soạn mâm lễ buộc chỉ cổ tay cho người
mới đi tu.
Xưa
kia, không ít người Lào đã từ bỏ cuộc sống trần tục giành trọn cuộc đời mình
cho việc tu hành. Nhưng dần dần quan niệm về tu hành cũng có sự đổi thay. Việc
đi tu đối với thanh niên Lào ngày càng phổ biến nhưng thời gian được rút ngắn
hơn. Số người đi tu mười lăm hai mươi năm cũng chỉ là cá biệt. Người thanh niên
đi tu không bị ràng buộc bởi thời gian, muốn nhập tu bao lâu
hoàn toàn do người đi tu và gia đình quyết định.
Qua
một thời gian tu hành, gia đình muốn cho con cháu trở lại với cuộc sống trần
tục, về sum hợp với gia đình, tham gia lao động sản xuất thì chỉ qua một nghi
thức đơn giản gọi là “kong-síc”. Sau khi ngỏ ý với sư thầy và hẹn ngày giờ, gia
đình soạn một mâm “khoẳn” gồm nến, hương, hoa dâng lên chùa. Người sư xin thoát
tục đến lạy Phật và nhận mọi lỗi lầm đã phạm phải trong thời gian khoác áo cà
sa và hứa hẹn trở về cuộc sống trần tục sẽ suy nghĩ, hành động xứng đáng với
người đã qua tu hành. Sau ba lần đọc lời hứa, nhà sư xin thoát tục ra ngoài cởi
bộ cà sa vàng, mặc bộ đồ trắng rồi quay lại chào sư thầy và các nhà sư khác
trong chùa. Các nhà sư tụng kinh cầu phúc đức cho người xin thoát tục, dứt phần
kinh các nhà sư đọc “xá-thụ”, thì người xin thoát tục cúi lạy ba lần rồi lại
gần sư thầy nhận nước phép. Cuối cùng trước khi ra về, người xin thoát tục một
lần nữa vái chào sư thầy và các nhà sư còn tiếp tục tu hành. Đối với
chú tiểu khi thoát tục được miễn nghi thức này.
Ngày
nay, sau hơn một phần tư thế kỷ, đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất, tục đi
tu đối với thanh niên Lào tuy vẫn tồn tại nhưng không còn phổ biến như xưa. Bởi
mặt bằng dân trí không ngừng được dâng cao. Và từ thực tiễn lịch sử, nhất là
hai cuộc kháng chiến oanh liệt chống ngoại xâm, rồi qua hơn hai thập kỷ xây
dựng đất nước bảo vệ độc lập chủ quyền, các nhóm dân tộc Lào đã thấy rõ để có
một cuộc sống ấm no hạnh phúc, một xã hội công bằng văn minh, một quốc gia độc
lập thịnh vượng không thể bằng con đường tu hành, cầu nguyện, tích phúc đức.
9-
Tục lệ cưới xin
Sau
sinh nở, tu hành, cưới xin cũng là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mỗi con
người. Theo quan niệm của người Lào thì cưới xin là thời kỳ con người phải
trưởng thành về nhiều mặt để bước vào cuộc sống tự lập đầy khó khăn thử thách.
Hơn thế nữa, họ lại chuẩn bị làm cha, làm mẹ, một điều hết sức mới mẻ đối với
người thanh niên. Bởi vậy ông bà, cha mẹ, họ hàng thường đặc biệt quan tâm giúp
đỡ con cháu trong bước ngoặt quan trọng này. Tục cạo đầu đi tu ở một số địa
phương trước khi cưới vợ, phải chăng cũng là một sự chuẩn bị để người thanh
niên bước vào cuộc sống tự lập.
Hình
thức cưới xin ở Lào khá phong phú, đa dạng, mỗi nhóm dân tộc mỗi địa phương
thường có một số nghi lễ cưới xin khác nhau, song xét về bản chất thì giống
nhau. Có thể nói cưới xin phản ánh khá rõ nét một hình thức sinh hoạt tinh thần
của người Lào và tích tụ nhiều tập quán cổ của mỗi nhóm dân tộc.
Chế
độ phong kiến tồn tại khá lâu trong lịch sử dân tộc Lào. Những ý thức hệ phong
kiến, tín ngưỡng, và các tập quán cổ truyền không ngăn cản sự tiếp xúc giữa
trai gái. Ngược lại việc gặp gỡ giữa trai gái được coi là điều tự nhiên và
dường như được bản mường, cộng đồng khuyến khích, bởi nó thường mang đến cho
bản mường không khí tươi vui, rộn ràng. Tục ngữ Lào đã đúc kết: “Ruộng tốt nhờ
màu, bản ấm cúng nhờ có nhiều cô gái” (Na đi nhõn phùn, bãn ùn nhõn sảo lải).
Quả vậy bản mường nào có nhiều cô gái nết na xinh đẹp, chăm chỉ lao động, giỏi
dang công việc nội trợ thì vào những đêm trăng hầu như không bao giờ vắng tiếng
ca hát xen lẫn tiếng khèn bè dìu dặt của các chàng trai. Ở nông thôn, nhà có
con gái, cha mẹ thường dựng một cái lán dưới sân gọi là “hươn khuồng”. Tối đến
các cô gái thường xuống lán ngồi quay sợi, cán bông dưới ánh “cà-bong” (gỗ mục
giã nhỏ trộn với dầu rái cuốn lá đốt thay đèn dầu). Và đây là lúc để các chàng
trai trong bản mường hoặc các bản lân cận đến vui chơi, thổi khèn bè, tỏ tình,
tỏ ý bằng những làn điệu dân ca uyển chuyển hay những câu nói giao duyên, ví
von giàu hình tượng gọi là “pha-nhả”. Tiếng khèn, tiếng ca rộn ràng vang lên từ
“hươn khuồng” là niềm tự hào của gia đình. Gia đình có con gái mà vắng tiếng
khèn, tiếng ca trong những đêm trăng là không bình thường.
Với
quan niệm, tập quán trên, trai gái ở Lào có nhiều dịp tốt để gặp gỡ nhau, đặc
biệt là trong lao động sản xuất, những đêm trăng hội hè, cưới xin. Qua đó, tình
yêu trai gái nảy nở một cách tự nhiên, trong sáng. Xưa nay, trai gái ở Lào là
con em nhân dân lao động thường được tự do chọn người yêu, hầu như không bị ép
buộc như một số nước phong kiến khác. Đương nhiên, khi trai gái lấy nhau cũng
qua bàn bạc và sự chấp thuận của cha mẹ họ hàng hai bên. Việc chọn lựa người
bạn trăm năm tất nhiên không thể tách rời trình độ sản xuất, sự phát triển của
xã hội và tập quán cổ truyền của mỗi nhóm dân tộc. Chẳng hạn các cô gái thường
để ý đến các chàng trai khỏe mạnh, giỏi công việc cày bừa, phát rẫy, dũng cảm
trong săn bắn, chài lưới và trong những ngày lễ hội lại có tiếng khèn bè dìu
dặt tha thiết. Nếu chàng trai đó đã qua tu hành, được phong sắc “thít” (sư
chú), “chan” (sư bác) thì càng tốt. Còn các chàng trai thường chọn các cô gái
có nhan sắc, múa dẻo, có giọng ca ngọt ngào quyến rũ lại giỏi lao động như gặt
hái, chăn nuôi, dệt vải. Ngoài ra các chàng trai và cả gia đình còn để ý đến
một điểm khác đã đi vào kho tàng ca dao tục ngữ Lào: “Bờng xạng hãy bờng hảng,
bờng nang hãy bờng mè” (xem voi hãy nhìn đuôi, xem nàng hãy nhìn mẹ). Người Lào
cho rằng người con gái chịu ảnh hưởng sâu sắc tính cách của người mẹ. Nếu người
mẹ phúc hậu, lao động cần cù, thạo công việc nội trợ thì người con gái cũng có
tính nết tương tự. Tiêu chuẩn môn đăng hộ đối thường được tầng lớp phong kiến,
quan lại quyền quý coi trọng.
Có
thể do xuất phát từ trình độ sản xuất, điều kiện kinh tế nên các chàng trai Lào
ở mỗi miền có quan niệm, sự lựa chọn người yêu khác nhau. Chẳng hạn một số địa
phương ở miền Trung, các chàng trai thường bị chi phối bởi quan niệm:
Trai
tơ lấy phải nạ dòng.
Như
nước mắm thối chấm lòng lợn thiu.
Nạ
dòng lấy được trai tơ.
Đêm
nằm hí hửng như mơ được vàng.
Ngược
lại, ở một số địa phương Lào trước đây tuy không phổ biến, nhưng người thanh
niên có thể lấy nạ dòng đã có một hay hai con là chuyện bình thường trong gia
đình cũng như trong bản mường. Bởi vậy, tục ngữ mới có câu “Đi quăng chài được
cá trứng, mới lấy vợ đã có con là phúc nhà từ trước” (Pay tức hẻ, đay pa khày, au
mia mày đạy lục phõm, bun sãng tặng tè lẳng). Ở miền Nam Lào, các chàng trai
lại rất kỵ lấy vợ là một nạ dòng hay gái góa, nên mới có câu tục ngữ:
Gái
nạ dòng ba xu cũng không cưới
Gái
tơ ba trăm cũng cưới.
(Sảo
mẹ hãng, sảm xạ tang kọ bồ tèng.
Sảo
ọi lọi sảm họi kọ tèng au).
Trước
đây ở Lào người con gái mười lăm, mười sáu tuổi đã lấy chồng. Phổ biến nhất là
ở lứa tuổi mười tám đôi mươi, ngoài hai mươi lăm tuổi được coi là quá lứa hoặc
ế chồng. Con trai thường lấy vợ ở tuổi ngoài hai mươi. Ở vùng nông thôn và vùng
dân tộc ít người, con trai thường lấy vợ sớm hơn ở đô thị. Trước kia cũng như
ngày nay, ở nông thôn cũng như thành thị gia đình người Lào phổ biến là một vợ,
một chồng. Vợ chồng thường chỉ chênh lệch nhau dăm ba tuổi. Riêng tầng lớp
phong kiến quan lại thường lấy nhiều vợ và vợ lẽ thường ít hơn chồng mười lăm
hai mươi tuổi. Nhất là trong các đô thị dưới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ
trước đây, không ít những công chức sĩ quan ngụy có quyền thế lấy đến ba, bốn
vợ, có cô vợ lẽ trẻ hơn chồng đến ba, bốn mươi tuổi. Trong vùng giải phóng
trước kia và dưới chế độ dân chủ nhân dân ngày nay, con trai Lào thường ngoài
hai mươi lăm tuổi mới lấy vợ, con gái trên mười tám mới lấy chồng. Riêng các
dân tộc ít người ở miền núi xa xôi vẫn có khuynh hướng dựng vợ gả chồng sớm hơn
nhân dân vùng đồng bằng, đô thị.
Tục
cưới xin của người Lào trước đây cũng như ngày nay thường theo trình tự như dạm
hỏi, lễ cưới, lại nhà. Khi con cái trưởng thành, ông bà cha mẹ
thường nghĩ đến việc dựng vợ gả chồng. Cha mẹ nhắm một người nào đó
mình ưng ý rồi hỏi ý kiến con cháu. Hoặc trai gái tự tìm hiểu, thương yêu nhau
rồi chủ động báo cho cha mẹ. Sau khi thỏa thuận trong gia đình, cha mẹ nhờ
trưởng họ, các già làng có uy tín chọn ngày lành tháng tốt mang lễ vật sang nhà
gái dạm hỏi gọi là “can xù-khỏ”. Mâm lễ trong buổi ngỏ ý này rất đơn giản, chỉ
cần trầu cau, thuốc lá. Người Lào vùng Đông Bắc Thái Lan trong lễ dạm hỏi này
thường có thêm một cái âu bạc đựng ba bat (đơn vị tiền tệ Thái Lan) gọi là tiền
thăm dò gia đình nhà gái. Nếu ưng thuận thì nhà gái nhận tiền. Nếu không ưng
thuận thì nhà gái không phải trả lời, mà chỉ cần xếp tiền bỏ lại trong âu bạc
của nhà trai.
Khi
họ nhà trai ngỏ ý xin làm thông gia, nếu họ nhà gái nhận lời thì hẹn một ngày
nhất định, mời họ nhà trai đến để thách cưới và chọn ngày giờ tổ chức lễ cưới.
Theo tập quán, dù nhận lời hay không nhà gái cũng đón tiếp họ nhà trai một cách
niềm nở, trân trọng. Đúng ngày giờ đã hẹn, họ nhà trai mang lễ vật sang nhà
gái. Lễ vật có trầu cau, thuốc lá, các loại bánh… một số địa phương ở Nam Lào
trong mâm lễ còn có cả thóc giống, vừng , hạt bông. Các lễ vật do họ nhà trai
mang đến, nhà gái sử dụng một phần để biếu bà con họ hàng nội ngoại và một phần
gửi lại biếu cho nhà trai. Trong buổi gặp gỡ này, họ hàng nhà gái thường đến
đông đủ. Đặc biệt phía họ nhà gái không thể thiếu ông cậu. Sau nội dung ngỏ ý
xin cưới của vị đại diện họ nhà trai, phía nhà gái thách cưới gọi là
“Khạ-đong”. Thông thường nhà gái thách tiền, vàng, bạc, trâu, gạo, rượu. Việc
thách cưới nhiều hay ít tùy theo tục lệ mỗi địa phương, mỗi gia đình và tùy
theo địa vị xã hội cha mẹ nhà gái.
Con
gái thuộc tầng lớp phong kiến, quan lại cao cấp thường thách cưới cao hơn lớp
quan lại, viên chức ở cơ sở. Đối với tầng lớp này, việc thách cưới mang tính
chất mua bán, trục lợi và người con gái thường về làm dâu ngay sau lễ cưới. Còn
đối với đông đảo nông dân lao động việc thách cưới dường như là một tập quán,
có tính chất tượng trưng để đề cao con gái của mình. Chính vì hàm ý đó mà trong
lễ rước rể, đón rể có tục cả hai họ đều có những hành động ngăn cản buổi lễ như
thách thức giăng chỉ cản đường, ra câu đố… nhằm đề cao chú rể cũng như cô dâu.
Gặp trường hợp nhà gái thách cưới cao, nhà trai trình bày xin giảm bớt theo tập
quán bản mường và đặc biệt chú ý đề cao cô dâu tương lai là người có nhan sắc,
nết na, được nhiều chàng trai bản đầu trên xóm dưới để ý. Nhưng theo tục lệ từ
xưa dù ít hay nhiều cũng phải có khoản tiền thách cưới và họ nhà trai phải trao
cho họ nhà gái ngay khi mở đầu lễ cưới trước sự chứng kiến của hai họ. Nếu là
gái góa, nạ dòng thì tiền thách cưới thường thấp hơn các cô gái chưa chồng. Con
trai góa vợ hay bỏ vợ, họ nhà gái thường thách cưới cao hơn các chàng trai chưa
vợ.
Thỏa
thuận thách cưới xong, hai họ cùng bàn ngày cưới. Đó là một ngày lành tháng tốt
do thầy số hoặc các già bản giàu kinh nghiệm chọn. Những ngày xấu, ngày dữ, cấm
kỵ không được tổ chức đám cưới với quan niệm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh
phúc của đôi vợ chồng trẻ. Người Lào thường tổ chức đám cưới vào khoảng thời
gian từ 15 tháng 10 đến 15 tháng 3 nông lịch Lào tức từ tháng 9 đến tháng 2
dương lịch.
Sau
lễ dạm hỏi, thách cưới và hẹn ngày cưới, đôi trai gái có thể đi lại thăm hỏi,
giúp đỡ gia đình hai họ trong lao động sản xuất một cách tự nhiên. Ở một số địa
phương có tục trai gái yêu nhau, trước ngày cưới thường trao cho nhau những vật
làm tin chỉ hai người biết gọi là “khõng-mẵn” như nhẫn, hoa tai, vòng tay, trâm
cài tóc, gương lược… Nếu đã nhận vật làm tin của một chàng trai nhưng cô gái
thay đổi đi hứa hôn với người khác thì phải trả lại vật làm tin. Ngược lại, nếu
chàng trai thay lòng đổi dạ, yêu một cô gái khác thì không có quyền đòi lại vật
làm tin. Đây cũng là một lệ được các chàng trai cô gái Lào chấp nhận.
Gần
đến ngày cưới, vì lý do chính đáng, chàng trai phải vắng mặt một thời gian thì
cô gái vẫn chờ đợi, vì sự thỏa thuận giữa hai họ thông qua già bản là sự bảo
đảm chắc chắn. Trong suốt thời gian này, họ hàng nhà trai phải quan tâm đúng
mức đến cuộc sống, lao động sản xuất của nhà gái và khi gặp khó khăn trở ngại
cần được sự giúp đỡ tích cực. Việc làm trên coi như thay cho sức lao động của
chú rể đáng lẽ đã trở thành một lao động chính của nhà gái. Cũng trong thời
gian này nếu họ nhà gái muốn từ chối, cô gái có quan hệ tình ý với một người
khác thì họ nhà trai có quyền xóa bỏ sự thỏa thuận trước đó và đương nhiên họ
nhà gái phải hoàn lại các lễ vật.
Trước
ngày cưới, nhà trai cũng như nhà gái đều lo chuẩn bị chu đáo ngày hạnh phúc cho
con cháu. Theo tục lệ trước đây ở nông thôn Lào sau ngày cưới chàng trai thường
đến ở rể một thời gian, có trường hợp chàng trai ở rể khá lâu tùy thuộc mỗi gia
đình, mỗi địa phương. Trước kia, rất ít các cô gái sau ngày cưới về làm dâu nhà
chồng. Nhà gái thường chuẩn bị nệm, gối, chăn … và cả áo quần, khăn quàng để cô
dâu biếu trưởng họ, cha mẹ chồng gọi là “khương xẳm-ma”. Nếu nhà gái thấy phải
làm nhà mới thì phải báo trước cho nhà trai chuẩn bị tre, gỗ, và mọi thứ cần
thiết khác đem sang nhà gái dựng. Bà con, họ hàng, xóm giềng của hai họ đều
tham gia dựng nhà mới cho cô dâu chú rể. Theo tục lệ của người Lào việc dựng
nhà phải xong trong một ngày. Do đó, cả hai họ cần có sự chuẩn bị chu đáo. Việc
tiếp đãi, tổ chức ăn uống cho bà con xóm giềng đến tham gia dựng nhà do nhà gái
đảm nhận.
Theo
tập quán cổ ở Lào, xưa nay đám cưới là dịp vui chơi, ăn uống của hai họ và cộng
đồng bản mường. Gia đình khá giả thường mổ trâu, bò, nhà nghèo cũng mổ lợn, gà,
nấu rượu ngon để thết đãi bà con họ hàng đến dự. Đối với gái trai đây cũng là
dịp gặp gỡ múa hát, tỏ tình, tỏ ý. Đám cưới ở Lào thường có một số nghi lễ như
mời sư tụng kinh, làm lễ cầu may “xù-khoẳn”, rước rể, làm lễ cầu may chung cho
cô dâu chú rể. Đại diện hai họ dặn dò khuyên bảo dâu, rể, cô dâu chú rể tặng lễ
vật cho trưởng họ, cha mẹ chú rể. Bao trùm lên tất cả vẫn là không khí vui tươi
náo nhiệt của trai gái, cộng đồng bản làng.
Trước
ngày cưới, nhà trai cùng nhà gái đều chuẩn bị trầu cau, thuốc lá, bánh trái,
cơm nước để đón bà con xa gần đến mừng. Vào dịp này bà con xóm giềng thân thiết
thường đến giúp đỡ gia chủ nấu nướng, têm trầu bổ cau, gánh nước, tiếp đón
khách. Nhà trai cũng như nhà gái thường mời sư đến làm lễ cầu nguyện hạnh phúc
cho con cháu . Nếu nhà cô dâu chú rể ở gần nhau thường được mời sang cùng dự lễ
cầu yên.
Đúng
ngày cưới, anh em, bà con thân thiết dù ở xa gần cũng đến dự đám cưới khá đông
đủ. Ai cũng có tặng phẩm mừng cô dâu chú rể để thể hiện tình cảm của mình. Tặng
phẩm cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào khả năng mỗi người, chẳng hạn ở nông thôn
trước đây, đi mừng lễ cưới thường có tiền, vải vóc, váy áo, bát đĩa, xoong nồi,
gạo thóc, gà vịt, rượu… Theo truyền thống xưa nay, dù nhiều hay ít, dù những lễ
vật giản dị đơn sơ nhất, gia chủ đều hết sức trân trọng cảm ơn, bởi quan niệm
đó là tình nghĩa, là tấm lòng của chòm xóm. Đến dự lễ cưới, mọi người đều mặc
những bộ váy áo dân tộc đẹp nhất, luôn tỏ thái độ hồ hởi, vui mừng, sẵn sàng dự
bữa cơm rượu và tham gia vui chơi múa hát.
Đến
giờ đã định, họ nhà trai bắt đầu rước rể sang nhà gái. Dẫn đầu là vị trưởng họ,
tay bưng âu bạc đựng tiền thách cưới. Đi sau là bốn cô gái chưa có chồng, mỗi cô
gánh một cái tráp đựng trầu cau, thuốc lá và một vò rượu được bọc vải hoặc giấy
màu. Tiếp theo là mâm lễ (pha-khoẳn) rồi đến chú rể, các chàng trai phù rể, gia
đình, họ hàng, bạn bè. Để chuẩn bị đón chú rể, nhà gái cũng soạn một mâm lễ để
chú rể đến sẽ làm lễ cầu may chung một mâm với cô dâu. Trên mâm lễ thường có
hoa quả, gạo nếp, trầu cau, bánh trái, đặc biệt không thể thiếu một quả chứng
gà luộc. Nhiều địa phương trên mâm lễ còn có những cây hình tháp được kết bằng
hoa lá gọi là “tổn mạc-bèng”. Có vùng còn chuẩn bị một âu nước hoặc vỏ một con
ốc biển lớn ngâm các cánh hoa thơm để vẩy cho cô dâu chú rể.
Từ
nhà chú rể sang nhà cô dâu, đám rước luôn sôi động bởi tiếng hò reo, hát ca của
các chàng trai, cô gái. Đến gần nhà gái đám rước rể thường bị những sợi chỉ
trắng giăng ngang buộc phải dừng lại. Những người làm việc này tự xưng là họ
nhà gái và đòi phải có lễ vật mới được đi qua, chú rể mới lấy được cô dâu – một
cô gái nết na, xinh đẹp là con cháu của họ, có địa phương họ nhà gái ra câu đố,
họ nhà trai trả lời được mới cho đi qua. Đám rước phải dừng lại, họ nhà trai
vui vẻ, ôn tồn xin đi và trao các lễ vật đã chuẩn bị trước mới được vào cổng.
Đám rước rể đến chân cầu thang nhà gái thì đã có đại diện đón tiếp. Đó là một
phụ nữ đứng tuổi, đông con, gia đình sống hòa thuận, nói năng hoạt bát khéo léo
thay mặt họ nhà gái xuống đón chú rể và mời họ nhà trai lên nhà. Lúc này đến
lượt họ nhà trai đề cao chú rể. Bạn bè, chú rể dọa giữ chú rể lại, không cho
lên nhà cô dâu, họ nói chú rể là một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, lao động
giỏi không bao giờ ế vợ… Đại diện họ nhà gái lễ phép, chắp hai tay trước ngực
xin trưởng họ, cha mẹ, họ hàng, bè bạn nhà trai cho chú rể lên nhà dự lễ cưới
và ngỏ ý nhà gái đã chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp chu đáo, nồng nhiệt nhất. Các chàng
trai dự lễ rước rể đáp lại lời thỉnh cầu của nhà gái bằng những tiếng reo hò
vang dội.
Họ
nhà trai lần lượt lên nhà trước sự chào hỏi đón tiếp niềm nở của nhà gái. Mở
đầu, trưởng họ nhà gái ngỏ ý nhắc lại tiền thách cưới được hai bên thỏa thuận.
Trưởng họ nhà trai vui vẻ tuyên bố sẵn sàng làm theo tập quán bản mường và đúng
lời hứa rồi trao âu tiền cho trưởng họ nhà gái trước sự chứng kiến của xóm
giềng và bà con hai họ. Sau khi vào lễ bàn thờ nhà gái, chú rể ra ngồi cạnh cô
dâu bên mâm lễ để bước vào nghi thức chính của đám cưới. Mở đầu, các nhà sư
tụng kinh (xụt-môn dên) cầu nguyện hạnh phúc và vẩy nước phép (hốt nẵm-dên) cho
cô dâu chú rể. Ở một số địa phương sư thầy còn rắc những cánh hoa thơm lên mái
tóc của cô dâu chú rể mong Trời-Phật ban cho cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc.
Tiếp đến là lễ “xù-khoẳn” – một nghi lễ phổ biến ở Lào. Nhưng đây là lễ
“xù-khoẳn” đám cưới (xù-khoẳn-đong) được tiến hành trong không khí trang trọng
hơn, có tăng lữ, trưởng họ, cha mẹ, bà con, xóm giềng, bầu bạn cả hai họ cùng dự,
còn được gọi là lễ cầu may lớn (xù-khoẳn nhày).
Ngồi
bên mâm lễ, chú rể khoác tay cô dâu gọi là “xù-khoẳn cặp cài” tượng trưng sự
gắn bó thủy chung giữa cô dâu và chú rể. Trưởng họ nhà trai, nhà gái lần lượt
chúc cô dâu chú rể thương yêu gắn bó với nhau cho đến lúc tóc bạc răng long,
rồi vẩy nước “hỏi sẳng” và buộc chỉ cổ tay. Đây là loại nước tượng trưng cho
mối tình gắn bó thủy chung như nhân vật Xẳng-Thong trong truyện thơ Xỉn-xay một
tác phẩm cổ điển nổi tiếng ở Lào. Giữa lúc các cụ già, cha mẹ, họ hàng lần lượt
buộc chỉ cổ tay cho cô dâu chú rể thì một cụ già lấy quả trứng luộc trên mâm
bóc vỏ rồi dùng một sợi tóc cắt làm đôi xem lòng đỏ có đầy đặn không. Người Lào
cho rằng sự tròn khuyết của lòng đỏ quả trứng có quan hệ nhất định đến hạnh
phúc trăm năm của đôi vợ chồng trẻ. Xem xong cụ già trao cho cô dâu chú rể mỗi
người một phần. Cô dâu trao phần trứng của mình cho chú rể tượng trưng cho sự
chăm sóc của vợ đối với chồng. Để đáp lại tình cảm đằm thắm đó, chú rể lại trao
phần trứng của mình cho cô dâu rồi cả hai cùng ăn.
Ở
nhiều địa phương còn tục chọn người dẫn cô dâu chú rể vào phòng ngủ. Đảm nhận
việc này là người phụ nữ được chọn làm đại diện họ nhà gái ra đón chú rể ở chân
cầu thang. Người phụ nữ này dùng một sợi chỉ gấp làm đôi, mỗi người cầm một đầu
rồi dẫn vào phòng ngủ, cô dâu đi trước, chú rể theo sau. Việc trải chiếu nệm do
cô dâu chú rể cũng được chú ý. Khi đám rước rể lên nhà thì một người phụ nữ
phúc hậu hoặc một cặp vợ chồng đông con cái, sống hòa thuận vào buồng ngủ trải
chiếu, nệm cho cô dâu chú rể. Người Lào tin rằng cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc
của người trải nệm, chiếu có ảnh hưởng đến đôi vợ chồng trẻ sau này.
Tiếp
theo chú rể mang nến, hương đến lễ trưởng họ nhà gái. Cô dâu cũng mang lễ vật
dâng cho trưởng họ, cha mẹ chú rể. Lễ vật tùy thuộc tập quán mỗi địa phương,
mỗi gia đình. Ở nông thôn Lào trước đây cô dâu thường mừng trưởng họ, cha chồng
mỗi người một bộ quần áo, một khăn tắm và mẹ chồng một bộ váy áo. Việc làm này
biểu hiện lòng kính trọng và biết ơn của cô dâu đối với công sinh dưỡng của cha
mẹ chồng. Có địa phương ngay sau đám cưới, trưởng họ nhà gái dẫn cô dâu sang
nhà chú rể tặng lễ vật cho trưởng họ và cha mẹ chồng. Có vùng sau đám cưới ba
ngày trưởng họ nhà gái mới dẫn cô dâu sang nhà chú rể dâng lễ. Dù thời điểm ở mỗi
địa phương có khác nhau, song nghi lễ này thực chất là hình thức biểu lộ tình
cảm, sự tôn kính của cô dâu đối với trưởng họ và cha mẹ họ hàng chú rể.
Kết
thúc lễ cưới, trưởng họ nhà trai ngỏ lời cảm ơn sự đón tiếp thân tình, nồng
nhiệt của nhà gái và xin gửi gắm chú rể ở lại làm con cháu nhà gái. Đại diện
nhà gái vui vẻ nhận lời và dặn dò cô dâu cách ứng xử, trách nhiệm đối với cha
mẹ, anh em nhà chồng. Đám cưới chấm dứt, chú rể cùng họ hàng trở về nhà mình.
Vào một giờ đã hẹn trước, thông thường khoảng sáu, bảy giờ tối, họ hàng nhà
trai, đông nhất là bè bạn, chính thức tiễn chú rể sang nhà cô dâu. Nhà gái
thường chuẩn bị cơm rượu để đón mừng chàng rể cùng họ hàng, bạn bè nhà trai.
Đây là buổi liên hoan cuối cùng của đám cưới thường diễn ra trong không khí hết
sức vui nhộn, bởi bạn bè của cô dâu chú rể đến dự rất đông. Họ vừa ăn uống vừa
múa hát chúc mừng cô dâu chú rể.
Sau
lễ cưới, chàng trai ở rể và tham gia lao động sản xuất với gia đình cha mẹ vợ.
Chàng rể trở thành một thành viên - một lao động chính của gia đình nhà vợ. Năm
ba năm sau, do vợ chồng xin phép hoặc cha mẹ gợi ý cho đôi vợ chồng ra ở riêng.
Khi ra ở riêng vợ chồng được mang theo một số lúa gạo, nông cụ, trâu bò và một
số đồ dùng khác do cha mẹ vợ chia cho. Thời gian đầu ra ở riêng, nhìn chung cặp
vợ chồng thường gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Việc
cưới xin ở Lào còn có tục được gọi là “kan-xu” nghĩa là một hình thức cho nợ lễ
cưới. Vợ chồng có thể lấy nhau, sau khi làm ăn khá giả, sẽ tổ chức đám cưới
theo tập quán của bản mường. Bởi vậy, ở Lào có những cặp vợ chồng có đến hai ba
đứa con mới tổ chức đám cưới và con cái được dự đám cưới của cha mẹ. Đó là
những trường hợp cha mẹ chàng trai nghèo túng chưa có khả năng lo liệu được
hoặc đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng cha mẹ ngăn cản, họ vẫn có thể lấy
nhau và được bản mường cộng đồng công nhận. Để vượt qua rào cản này, thường họ
hẹn nhau vào một ngày nào đó, cô gái đón chàng trai đưa vào phòng của mình.
Sáng hôm sau cô gái dậy sớm báo cho cha mẹ biết đêm qua có một chàng trai đến
“xu”. Được tin, cha mẹ liền cho người đi mời già bản, họ hàng cùng với cha mẹ
chàng trai đến chứng kiến và bàn việc cưới xin sau này. Chỉ sau khi cha mẹ, bà
con chàng trai đến nhận con và hứa sẽ tổ chức cưới theo tập quán của bản mường
thì chàng trai mới được ra khỏi phòng cô gái. Sau nghi thức “xu khoẳn” đơn giản
với sự chứng kiến của hai họ, đôi trai gái chính thức trở thành vợ chồng. Ở
Lào, trước đây không ít cặp vợ chồng lấy nhau bằng hình thức “xu” nhưng vẫn
sống hạnh phúc có con đàn cháu đống. Đây là tục lệ tiến bộ, mang đạm tính nhân
văn, giúp các chàng trai cô gái yêu nhau tha thiết vượt qua khó khăn để nên vợ
nên chồng. Tất nhiên, nếu nhà trai, chàng rể bội bạc không giữ lời hứa, bỏ vợ
con sẽ bị bản mường trừng phạt. Hình phạt tùy mỗi địa phương gia đình nhà gái.
Trước
kia, con gái chửa hoang bị trừng phạt rất nặng. Ngoài hình thức phạt vạ theo lệ
làng như tiền, trâu, bò, cả cô gái lẫn chàng trai còn bị cạo trọc đầu dội nước.
Vì theo tục lệ bản làng cho rằng đó là hiện tượng không bình thường có thể ảnh
hưởng xấu đến sinh hoạt, lao động sản xuất của cộng đồng.
Ngày
nay việc cưới xin ở Lào cả ở thành thị cũng như nông thôn thường được tổ chức
theo đời sống mới. Các nghi lễ câu nệ gây lãng phí tiền của, thời gian ngày
càng giảm dần. Tuổi kết hôn có khuynh hướng chậm hơn trước, nhất là nam giới.
Các nét độc đáo của dân tộc, địa phương gắn chặt với lao động sản xuất, nghè
nghiệp, tín ngưỡng vẫn được kế thừa và phát huy trong lễ cưới. Đặc biệt là tính
hợp quần, tình đoàn kết của cộng đồng bản mường.
10-
Ma chay
Trước
đây người Lào coi cái chết là bước ngoặt quan trọng cuối cùng của đời người,
bởi nó chấm dứt một kiếp tu nhân tích đức, chuẩn bị chuyển sang một kiếp khác.
Nhờ kiếp này tích được nhiều phúc đức nên kiếp sau sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đối với các phật tử Lào, cái chết không chỉ là sự mất mát buồn thương mà còn là
hình thức giải thoát của con người từ kiếp này sang kiếp khác.
Quan
niệm trên được thể hiện khá đậm nét trong các nghi thức tổ chức ma chay ở Lào.
Đặc biệt là các tín ngưỡng cổ, thuyết luân hồi, quan niệm về sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa các sung lực như: âm-dương, sinh-tử, phúc-tội dường như xuyên
suốt các nghi thức. Người Lào cho rằng cái chết của con người gồm hai loại:
chết lành (tai-đi) và chết dữ (tai hãi). Người chết do già yếu, bệnh tật thông
thường được coi là chết “lành” hợp quy luật. Người chết không bình thường, chết
bất đắc kỳ tử (chết đuối, hổ vồ, cây đè, sét đánh, tai nạn…) đều coi là chết
“dữ”. Theo phong tục ở Lào, chỉ những người chết “lành” mới được tổ chức ma
chay đầy đủ nghi thức của lệ làng. Còn cái chết “dữ” được coi là bị trừng phạt
do kiếp trước có nhiều tội lỗi nên lúc chết không tắm xác, phải chôn, không
được hỏa thiêu. Sau khi chôn cất, người thân thường làm lễ cầu hồn, mời sư sãi
đến đọc kinh cầu nguyện giải thoát cho oan hồn. Nhưng dù là cái chết lành hay
dữ, hình thức tổ chức ma chay có đôi chỗ khác nhau, đối với người Lào thì đây
là dịp thể hiện tình cảm gia đình, anh em, xóm giềng, tính hợp quần, sự hòa
nhập của mỗi thành viên trong cộng đồng, một truyền thống tốt đẹp được hình
thành qua bao thế hệ gắn bó bên nhau trong sản xuất đấu tranh.
Khi
trong nhà có người đang hấp hối thì con cháu nhanh chóng soạn mâm lễ đơn giản
có gạo, nến, hương hoa để người sắp vĩnh biệt kiếp này kịp làm lễ cầu Phật lần
cuối cùng. Có địa phương con cháu mang hương hoa đến lễ và nhận mọi tội lỗi
mình đã gây ra đối với người sắp qua đời. Người Lào cho rằng với việc làm ấy sẽ
làm cho người đang hấp hối tự tin hơn ở cuộc sống kiếp sau và khi chết sẽ góp
phần đem lại sự bình yên, may mắn cho các thành viên trong gia đình.
Trong
nhà có người thân mới tắt thở, con cháu báo tin ngay cho họ hàng và tuy đau
thương nhưng người Lào không khóc lóc thảm thiết mà thường nén lòng chịu đựng.
Chủ tang lễ là người thân trong gia đình, anh em thân thiết hoặc một thầy pháp
có uy tín trong bản. Khi anh em, bà con đến đầy đủ, người thân bắt đầu tắm cho
người chết (ạp-nẵm-xộp) bằng nước nóng hay nước lạnh. Một số địa phương có tục
tắm cả bằng nước nóng lẫn nước lạnh. Sau đó được rửa lại bằng nước thơm (trước
kia thường là nước được ngâm các loại hoa). Người chết là ông bà cha mẹ, con
cháu thường dùng nước dừa non để rửa mặt. Những gia đình quyền quý còn có tục
dùng giấy in dấu tay chân để thờ cúng. Tắm rửa xong, người thân lấy một cái
lược mới bẻ gẫy rồi chải đầu, một mái tóc chải ngược về phía sau, một mái chải
xuôi về phía trước (vỉ phổm xộp). Chải xong chiếc lược đem vứt bỏ, người sống
kỵ không được dùng. Về khâm liệm (nũng hồm pha xộp) nếu mặc quần áo phải mặc
hai bộ, bộ bên trong lộn trái, bộ bên ngoài mặc bình thường. Nếu liệm bằng vải
(pha hảng) cũng quấn hai lớp, lớp bên trong đuôi vải liệm gài phía trước và lớp
ngoài đuôi vải liệm gài phía sau. Những tục trên, theo người Lào là thể hiện
tính kế tục giữa cái chết và sự sống.
Khâm
liệm xong, thi hài được đặt lên giường, chân tay duỗi thẳng. Con cháu lấy hương
hoa để trong cái đĩa hoặc đặt lên một cái gối để bên cạnh rồi lấy nước thơm vẩy
lên thi hài (hốt nẵm hỏm xộp). Sau khi vẩy nước thơm, người thân lấy đồng tiền
được mài sáng cho vào miệng người chết (ngân sày pạc xốp). Nhiều vùng ở Lào
thường dùng đồng hào bằng bạc với ý nghĩa để người chết tiêu pha trên đường
chuyển sang kiếp khác. Gia đình giàu sang thường dùng vàng sống trong lễ phạn
hàm. Nếu lúc sống nghiện trầu cau thì khi chết con cháu cũng giã trầu cau cho
vào miệng. Tiếp đó, người thân cầu khấn và lấy chỉ trắng buộc một vòng vào cổ,
hai tay, hai chân người chết (mắt xốp) rồi thắt ba nút. Người Lào kỵ không cắt
chỉ thừa sau khi buộc. Sau đó người thân dùng sáp ong gắn mắt, mũi, miệng, hai
lỗ tai người chết. Các tục này gắn với niềm tin là làm cho linh hồn người chết
được thanh thản khi chuyển sang kiếp khác, rũ bỏ mọi vấn vương của kiếp trước
và dầu muốn cũng không thể quay lại kiếp cũ vì đã mất hết cảm giác, không nghe,
không thấy không biết đường cũ để quay về. Ngoài ra nó còn xuất phát từ quan
niệm cho rằng cuộc đời mỗi con người đều bị ràng buộc bởi ba điều là vợ, con và
của cải mà tục ngữ Lào đã đúc kết: “Quý con như dây buộc cổ, quý vợ như vợ buộc
tay, quý của cải như vòng trói chân” (hắc lục pan xược phục kho, hắc mia pan po
phục xoọc, hắc khãu khỏng pan pọc xụp tin).
Ở
Lào, người chết dù chôn hay thiêu cũng dùng áo quan. Áo quan thường là một thân
cây gỗ đục hoặc bằng gỗ ghép. Dưới áo quan thường được lót lá chuối khô, thuốc
lá, sợi, gạo rang hoặc lá ớt sấy khô. Một số địa phương còn có tục làm một
chiếc cầu thang nhỏ có ba bậc (khẵn-đay xốp) để trong quan tài giúp người chết
lên xuống dễ dàng. Đến ngày giờ đã chọn trước, con cháu đến đầy đủ, sau khi các
nhà sư tụng kinh, người chết được đặt vào áo quan rồi dùng nhựa cây gắn nhiều
lớp thật kín và được để trong nhà từ ba đến bảy ngày. Con cháu, người thân thay
nhau túc trực bên quan tài. Ở hai đầu quan tài thường xuyên thắp nến hoặc đèn
dầu. Hàng ngày, đến bữa ăn, con cháu đem cơm, thức ăn, kể cả thuốc lá, trầu cau
đặt trên quan tài để cúng. Trong thời gian để quan tài trong nhà, hàng ngày đến
giờ quy định, con cháu mời sư sãi đến tụng kinh cầu nguyện và tổ chức dâng cơm
cho sư (liệng-phạ). Số lượng tăng lữ tùy khả năng, yêu cầu của mỗi gia đình,
nhưng trong ma chay thường ít nhất cũng có năm nhà sư đến tụng kinh cầu nguyện
cho linh hồn người chết được siêu thoát.
Người
Lào rất xem trọng hướng đặt thi hài (tẵng-xộp). Ngay sau khi tắt thở, dù đặt
nằm ở đâu hay khi đã nhập quan thì đầu luôn quay về hướng tây, chân về hướng
đông và không đặt người chết nằm cùng chiều với giát sàn nhà.
Trong
nhà có ma chay, người Lào thường ngăn nhà gọi là “khốp-ngăn”. Phòng đặt quan
tài để bà con xóm giềng, bè bạn đến phúng viếng gọi là ‘hươn đi” (nhà tốt).
Phòng kế bên là nơi ăn uống, ngâm vị thơ ca, đọc những pho truyện cổ dân gian,
đánh bài, vui chơi thâu đêm để mừng cho gia chủ có người được siêu thoát, đưa
tiễn một thành viên trong bản làng chuyển sang kiếp khác tốt đẹp hơn. Có thể
nói từ lúc trong nhà có người chết cho đến khi chuyển quan tài ra nơi hỏa táng,
phòng này dường như không bao giờ thiếu không khí tươi vui rộn ràng. Bởi vậy
cho nên ở Lào khi đi dự tang lễ không chỉ có thái độ buồn đau, thương cảm mà
sau khi vào viếng và chia sẻ cùng tang gia, khách sang phòng bên có thể hòa
nhập cùng gái trai ăn uống, hát ca. Việc tổ chức ma chay lớn hay nhỏ tùy gia
đình. Nhà khá giả có khả năng, đón tiếp bà con xóm giềng đến viếng, tổ chức ăn
uống linh đình thì có thể để quan tài trong nhà bảy ngày hoặc lâu hơn nữa. Gia
đình nghèo thường chỉ trong hai ba ngày là đem hỏa táng.
Sau
mấy ngày, anh em, bà con xóm giềng đến viếng người qua đời, chia buồn cùng tang
gia và dự vui chơi, người thân chuẩn bị đưa tang (xồng xạ-can xộp). Đây là nghi
lễ quan trọng nhất của đám tang. Ngoài con cháu họ hàng còn có tăng lữ và xóm
giềng đến dự. Nếu người qua đời là ông bà, cha mẹ, thường con trai, cháu trai
từ bảy tuổi trở lên cạo đầu đi tu năm bảy ngày hay một tháng. Con gái, cháu gái
hoặc con trai không có điều kiện đi tu thì bận áo váy màu trắng. Con cháu đi tu
càng đông thì càng tích đức được nhiều phúc đức cho người đã khuất. Bà con, họ
hàng gần, khi đi đưa tang bận quần áo trắng.
Trước
kia ở nông thôn có tục người chết ở buồng nào thì đặt ở buồng ấy. Khi chuyển
quan tài ra khỏi nhà, phải dỡ liếp hay ván thưng để tránh khiêng qua kèo nhà.
Người Lào cho rằng khiêng quan tài qua kèo nhà sẽ ảnh hưởng xấu đời sống, lao
động sản xuất của con cháu. Tục kiêng kỵ này ngày càng giảm dần và ngày nay hầu
như không còn nữa.
Trước
khi đưa quan tài ra nơi hỏa táng, người thân mời tăng lữ xuống tụng kinh, mời
thầy pháp đến làm phép đuổi ma tà, bệnh tật. Gia chủ vẩy nước phép từ chỗ đặt
quan tài ra đến hiên đầu cầu thang, ném các khăn lau bẩn lên bàn ghế, đổ hết
nước trong các chum vại rồi úp miệng xuống đất. Sư sãi tụng kinh xong, con cháu
tắt tất cả đèn nến đang cháy trên quan tài (đắp phay xốp), sau đó lại thắp lại.
Theo người Lào tục này tượng trưng cho cái chết - chấm dứt cuộc đời của một
kiếp và sự sống của một kiếp mới sẽ bắt đầu. Để chuẩn bị chuyển quan tài ra
khỏi nhà, con cháu, người thân lần lượt vái lễ một lần nữa. Bạn bè, xóm giềng
tập trung ở chân cầu thang chờ tiễn đưa người đã khuất ra nơi hỏa táng. Đi đưa
đám ma, người Lào thường mang theo hương, hoa, bó củi, cà-bong, dầu hôi… Khi
quan tài được chuyển xuống đất, gia chủ liền đảo cầu thang, mặt trong chuyển ra
mặt ngoài (phíc khăn-đay) và lấy một cành cây có gai buộc vào chân cầu thang
trong bảy ngày. Ở cửa ra vào, gia chủ cũng dắt hai cành cây nhỏ cài vào nhau và
khi khiêng quan tài ra khỏi nhà mới tháo bỏ. Tục này với ý nghĩa ngăn chặn
không cho ma quỷ lên nhà quấy rầy đồng thời để người chết không thể quay trở
lại mà phải chuyển sang một kiếp khác.
Ở
nông thôn, người Lào thường khiêng quan tài từ nhà ra nơi hỏa táng hay chôn
cất. Ở đô thị có thể dùng xe do người đẩy hoặc xe hơi. Dù bằng phương tiện nào
người Lào cũng luôn chú ý để chân ra phía trước. Nếu khiêng thì kỵ không được
đổi vai hoặc dừng chân ở dọc đường. Thông thường bà con xóm giềng ghé vai
khiêng một mạch, từ nhà ra địa điểm hỏa táng. Dẫn đầu đám tang là các nhà sư
tay cầm sợi chỉ trắng nối liền với quan tài (chung xộp). Tiếp sau là con cháu
nắm vào sợi dây để cùng dẫn người đã khuất ra nơi hỏa táng. Xóm giềng, bè bạn
đi sau quan tài. Đám tang từ nhà ra bãi tha ma, con cháu thường không khóc lóc,
than vãn mà chỉ sụt sùi để còn lắng nghe các nhà các nhà sư tụng kinh cầu
nguyện. Khi đưa đám người Lào có tục rắc gạo (xắt khạu-xản), rắc bỏng (vàn
khạu-tọc chẹc) đồng thời rải các cành cây ngang dọc đường (mãy khịt-thang) hoặc
bẻ gẫy các cây nhỏ hai bên đường.
Chọn
vị trí chôn cất hay hỏa táng trong bãi tha ma, người Lào thường dùng một nắm
xôi hay quả trứng tung lên, nếu rơi xuống chỗ nào thì chọn chỗ ấy làm nơi quả
táng hay chôn cất với quan niệm chủ chỗ đất ấy đã chấp nhận (thĩ pổng xộp). Trước
ngày hỏa táng, con cháu, họ hàng vào rừng chặt củi chất thành dàn lớn, bốn góc
đóng bốn cái cột (kong phon). Trước khi đặt quan tài lên dàn thiêu, quan tài
được khiêng đi quanh ba vòng (viên xảm họp), từ trái sang phải. Có địa phương
còn có tục lấy đòn khiêng gõ vào quan tài ba lần trước lúc đặt lên dàn thiêu.
Để giữ cho quan tài không bị đổ xuống lúc hỏa thiêu, người ta dùng hai cây cột
lớn dài chôn sâu xuống đất để nẹp hai bên quan tài gọi là “mạy khồm hểng”.
Mở
đầu lễ hỏa táng, các nhà sư đọc kinh cầu nguyện, vẩy nước phép rồi tháo sợi chỉ
trắng buộc quan tài. Vải vóc, áo quần để trên quan tài cũng được bỏ ra. Con
cháu, bà con, xóm giềng dự lễ đều kính cẩn chắp tay trước ngực nghe tăng lữ
tụng kinh. Chủ tang lễ một tay đặt xuôi trước ngực, một tay cầm bình nước phép
rỏ xuống đất để dâng phúc đức cho người chết - có thể nói đây là nghi lễ có
không khí trang nghiêm nhất trong các bước tổ chức ma chay ở Lào. Trước lúc vị
sư châm mồi lửa vào dàn thiêu, chủ tang lễ cho tung tiền bố thí (vàn
kạ-lạ-phức). Đó là những quả “mạc-khụt” (giống quả chấp, dùng để gội đầu nhưng
vỏ xù xì), những bẹ chuối cắt nhỏ thành hình thù khác nhau, bên trong nhét
tiền. Thế là trẻ em, cả người lớn đi dự đám tang đều xông vào nhặt, họ tranh
giành, xô đẩy nhau tạo không khí hết sức ồn ào náo nhiệt. Vào dịp này những gia
đình khá giả thường làm lễ dâng tiền bạc, vải vóc cho các nhà sư dự tang lễ và
tổ chức tung tiền bố thí suốt từ nhà ra nơi hỏa táng. Khi ngọn lửa trên dàn
thiêu bốc cháy, những người đi dự đều góp thêm lửa nhưng không được châm lửa
của nhau. Họ tự đánh diêm hoặc châm từ một đống lửa đã đốt sẵn ở bên ngoài. Đến
đây, lễ hỏa táng coi như kết thúc.
Khi
về nhà, con cháu thường tắm rửa, gội đầu, hơ lửa để xua đuổi tà khí hay làm lễ
“xù khoẳn”. Có gia đình thỉnh sư sãi xuống làm lễ đọc kinh cầu nguyện cho gia
chủ bớt nỗi nhớ thương, tránh mọi ốm đau bệnh tật, ma quỷ không đến quấy rầy
gọi là lễ “mông-khôn”. Tục thiêu xác trở thành phổ biến ở Lào đối với những
người chết bình thường (tai-đi). Nhưng không phải ngày nào cũng có thể làm lễ
hỏa táng. Xưa nay người Lào không làm lễ hỏa táng vào các ngày kiêng kỵ (văn
phạ) hoặc vào thứ ba. Theo người Lào, hỏa thiêu vào những ngày ấy sẽ ảnh hưởng
không tốt đến con cháu. Ngày giờ thiêu thường do các già bản hoặc thầy pháp
tính toán quyết định.
Ba
ngày sau khi thiêu xác, người thân mời bà con, xóm giềng, và các nhà sư ra làm
lễ nhặt xương (kết đục). Cùng với tiểu đất nung, nước rửa xương, tang gia còn
chuẩn bị cơm, nước, bánh trái để cúng hồn người chết. Chủ tang lễ khấn báo cho
linh hồn người chết ngày mai con cháu sẽ làm lễ “khạu-chẹc” và mời về dự trước
khi đi đầu thai một kiếp khác. Khấn xong người thân nhặt xương xếp thành hình
người nằm quay đầu về hướng Tây với ý niệm đây là người chết rồi tăng lữ đọc
kinh gọi là “xụt-môn xắc-băng xạ-cun tai”. Ngay sau đó, người thân lại xếp bộ
xương thành hình người nằm quay đầu về hướng Đông, tượng trưng cho sự sống, các
nhà sư lại đọc kinh gọi là “xụt-môn băng xạ-cun pên”. Tăng lữ tụng kinh cầu
nguyện xong, coi như kết thúc các nghi lễ ma chay ở Lào. Con cháu gạt than, tro
xuống một cái hố gần nhất để chôn. Cốt của ông bà, cha mẹ được rửa sạch cho vào
tiểu sành đem về chùa chôn và có thể dựng một tháp nhỏ lên trên. Vào những ngày
kiêng kỵ hoặc lễ hội, mỗi khi lên chùa nghe tụng kinh niệm Phật, người thân
thường ghé qua phần mộ này đặt bông hoa, thắp nén nhang khấn vái tưởng nhớ
người đã khuất.
Ngày
nay cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mặt bằng dân trí ngày càng
được nâng cao. Đặc biệt thế hệ trẻ có điều kiện học tập văn hóa tiếp cận với
khoa học kỹ thuật. Dù còn nhiều tồn tại trong nếp nghĩ, thói quen của tập tục
cũ đã có từ lâu đời, việc tổ chức ma chay ở Lào có xu hướng tiến bộ rõ rệt,
những hủ tục rườm rà tốn kém được giảm dần, những tục lệ tốt đẹp được kế thừa
và phát huy.
11-
Ca múa nhạc
Nhân
dân các dân tộc Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân ca truyền
thống. Không chỉ trong những ngày lễ hội, vui chơi hợp quần… người Lào còn hay
ca hát trong sản xuất ngoài ruộng nương, đi hái lượm trong rừng, xuôi ngược
trên các dòng sông.
Dân
ca Lào rất phong phú, giàu âm điệu, mang đậm bản sắc dân tộc được phổ biến rộng
rãi trong nhân dân từ nông thôn đến thành thị. Người có công lớn trong việc sưu
tầm, phổ biến và nâng cao các làn điệu dân ca là các “mỏ-lăm” (ca sĩ), “mỏ
khen” (nhạc công, thổi khèn bè). Đội ngũ “mỏ lăm, mỏ khen” ngày càng phát triển
trước yêu cầu thưởng thức ca múa của nhân dân ở các bản mường, trong đó có
nhiều nghệ sĩ tài ba nổi tiếng vừa có thể sáng tác vừa biểu diễn được đông đảo
nhân dân ưu ái, mến mộ. “Mỏ lăm” ở Lào có vị trí thật đặc biệt trong xã hội. Họ
sống gần gũi nhân dân, đi đến bản làng nào cũng được đón tiếp nồng nhiệt. Họ am
hiểu sâu sắc cuộc sống, xã hội Lào, nắm bắt được tình cảm, ước mơ của các tầng
lớp nhân dân. Có thể nói, họ là một tri thức, một nghệ sĩ của nhân dân, được
nhân dân nuôi dưỡng.
Dân
ca của Lào có nhiều loại như lăm, khắp, xỡng, kạp, ăn nẳng-xử… Mỗi loại lại
mang sắc thái riêng của từng miền, từng dân tộc, từng địa phương. “Lăm” sử dụng
nhiều thể loại thơ nhất được quần chúng ưa thích nhất và phổ biến trong cả
nước.
1.
Lăm (ca)
Theo
các “mỏ lăm” ở Lào thì “lăm” được chia thành hai loại là “lăm-xẵn” (khúc ca) và
“lăm nhao” (trường ca) còn gọi là “lăm lượng” nghĩa là ca sĩ thuật lại một câu
chuyện thơ bằng các làn điệu dân ca.
a.
“Lăm xẵn”: là những bài ca ngắn diễn đạt tâm tư, cảm xúc của con người như niềm
vui, nỗi buồn, cảnh chia ly thương nhớ hoặc châm biếm, hài hước, phổ biến là
tình yêu lứa đôi. Lời của “lăm xẵn” thường là văn vần, giàu hình tượng đã có từ
trước hoặc sáng tác ứng khẩu theo tình huống đặt ra. Trai gái thường vận dụng
ca dao, “phạ-nhả” (câu ví) - phong phú của dân tộc để ca đối đáp lẫn nhau.
“Lăm-xẵn” thường có hai người hoặc hai tốp ca đối đáp lẫn nhau, kết hợp với
múa.
“Lăm-xẵn”
có nhiều làn điệu khác nhau mang tính địa phương, phản ánh điều kiện sản xuất,
thiên nhiên, con người như “lăm loòng”, “lăm vay”, “lăm tạy”, “lăm tỡi”, “lăm
tắt”…
-
“Lăm-loòng”: từ Viêng-chăn trở xuống miền Nam Lào, đặc biệt nhân dân sinh sống
ven sông rất thích “lăm loòng”, còn được gọi là “lăm loòng-khoỏng” (ca xuôi
dòng Mê-kông). Xuôi ngược trên các dòng sông vào đêm khuya thanh vắng các chàng
trai, cô gái hay “lăm loòng”. Nhịp điệu của “lăm loòng” thường ngân dài, lúc
bổng lúc trầm tha thiết, uốn lượn, mênh mong như sóng nước. Nội dung “lăm
loòng” chủ yếu miêu tả sông nước, mây trời, làng xóm, bến bờ, cảnh vật ven
sông.
-
“Lăm-vay”: phổ biến ở các địa phương miền Trung. “Lăm-vay” cũng diễn tả thiên
nhiên, ruộng rẫy, bản làng nhưng nhịp điệu sôi nổi như thôi thúc, giục giả, có
lúc như giễu cợt. “Lăm-vay” cũng kết hợp với múa nhưng chỉ múa lúc ngừng ca
hoặc múa giữ nhịp theo tiếng khèn bè.
-
“Lăm-tạy”: (ca phía Nam) còn gọi là “lăm xỉ-phăn-đon” (tên một địa phương của
tỉnh Chăm-pa-sắc) một loại ca ở các tỉnh miền Nam. Nhịp điệu “lăm-tạy” dịu
dàng, uyển chuyển. Lời ca “lăm-tạy” thường giàu hình ảnh, ví von, đối đáp, tỏ
ý, tỏ tình.
-
“Lăm-tắt”: là những khúc ca phản ảnh sự việc, cảnh vật trong xã hội, thiên
nhiên. “Lăm-tắt” thường có một người biểu diễn, có đệm khèn bè, kết hợp với múa
nhưng ít hơn các loại “lăm” khác. Nhịp điệu của “lăm-tắt” êm ái, tầm bổng, chậm
rãi, thỏa mãn thính giác mọi người. Mở đầu “lăm-tắt”, người biểu diễn thường
dạo giọng bằng tiếng “ồ” ngân dài, trầm lắng và người nghe thường hò reo đế
theo.
-
“Lăm-tỡi”: (giống hát ví) “Lăm-tỡi” là loại “lăm” phổ biến trong cả nước, đặc
biệt từ Viêng-chăn xuống các tỉnh miền Nam. Nhịp điệu của “lăm-tỡi” sôi nổi,
dồn dập như những đợt sóng. “Lăm-tỡi” thường được biểu diễn hai người, một
trai, một gái, vừa ca vừa múa theo tiếng khèn bè. Trong “lăm-tỡi” múa được sử
dụng nhiều hơn, hai người biểu diễn múa lượn (phõn-kiễu) nhịp nhàng, tình tứ
quấn quít bên nhau. Có thể nói “lăm-tỡi” là sự kết hợp biểu diễn khéo léo những
động tác để diễn đạt tình cảm như: lời ca, múa, ánh mắt, nụ cười.
Nội
dung các khúc ca “lăm-tỡi” thường xoay quanh tình yêu trai gái, đôi bên tỏ ý tỏ
tình, niềm thương nỗi nhớ hoặc trai gái gặp gỡ thử tài trí nhau, thách đố lẫn
nhau, giễu cợt nhau. Họ phải vận dụng kho tàng ca dao, “phạ-nhả”, nhiều lúc
phải tự đặt ra để đối đáp.
Trong
“lăm-tỡi” lại có một số làn điệu “tỡi” khác mang sắc thái địa phương như tỡi
hủa-nuôn-tan, “tỡi pha-mã”, “tỡi khon xạ-vẳn”, tởi xỉ-phôn…
Tỡi
pha-mã được ca ở một số bản mường miền Bắc nhưng không phổ biến. Tỡi khon
xạ-vẳn và tỡi xỉ-phôn được ca ở một số địa phương miền Trung, thường có lời ca
dài hơn các làn điệu “lăm tỡi” khác. Về nhịp điệu, ba loại “lăm tỡi” trên không
sôi động bằng “tỡi hủa nuôn tan”.
“Tỡi
hủa nuôn tan”, còn được gọi là “tỡi Ma-hả-xay” (tên một địa phương trong tỉnh
Khăm-muôn, trung Lào là loại “tỡi” phổ biến nhất, được đông đảo nhân dân ưa
thích nhất. “Lăm-tỡi” được ca rộng rãi trong mọi dịp như: lễ hội, đêm liên
hoan, cuộc họp bản làng, trai gái gặp nhau trong những đêm trăng sáng, đi hái
lượm trong rừng, ngồi trong các chòi canh lúa, ngô trên ruộng rẫy… Nhịp điệu
của “tỡi hủa-nuôn-tan” sôi trào, dồn dập nối tiếp nhau tưởng chừng như không
bao giờ dứt. Đây là những khúc ca ngắn, có giai điệu rõ ràng, nhịp điệu nhất
quán từ đầu đến cuối.
b.
Lăm-nhao: (trường ca) thường có các ca sĩ chuyên nghiệp trình diễn. Vào dịp lễ
hội lớn, dân bản thường cử người đi mời các “mỏ-lăm” về biểu diễn. Cùng đi với
“mỏ-lăm” còn có “mỏ-khen” (nhạc công chuyên thổi khèn bè). Mỗi lần về bản, họ
thường ở lại biểu diễn một vài tối và là khách quý của bản mường. Được tin có
“mỏ-lăm” về biểu diễn, nhân dân các bản xa gần cũng nô nức kéo nhau về dự làm
đêm hội thêm đông vui nhộn nhịp.
Bằng
các làn điệu dân ca, người “mỏ-lăm” trình diễn một trích đoạn hoặc một truyện
thơ nổi tiếng ở Lào như Xỉn-xay, Thão Hùng, Thão-Chương, Ka-lạ-kệt,
Cham-pa-xi-tỗn, Teng-Òn… Hòa quyện với tiếng khèn bè rộn rã, “mỏ lăm” khéo vận
dụng các làn điệu dân ca diễn tả một cách sinh động, phù hợp với cảnh, với
người trong câu chuyện như: khi leo dốc nhịp điệu chậm rãi, nước chảy nhịp réo
rắt, xuôi thuyền trên sông nhịp êm ả, khoan thai, miêu tả núi rừng nhịp điệu
trầm hùng, ngợi ca chiến công nhịp điệu nhanh, sôi nổi … Các buổi biểu diễn
“lăm-lượng” thường kéo dài đến khuya, có khi thâu đêm, các “mỏ-lăm” thường thay
nhau biểu diễn từng đoạn. Dân bản lắng nghe một cách thích thú và thỉnh thoảng
hò reo tán thưởng.
Ngày
nay, “lăm-lượng” vẫn được nhân dân Lào ưa thích, đặc biệt ở nông thôn. Không
riêng ở Lào, mà vùng đông bắc Thái Lan “lăm-lượng” cũng phổ biến. Vào các ngày
lễ hội, chợ phiên buổi tối thường có tụ điểm tổ chức “lăm-lương”. Do thời lượng
dài nội dung “lăm-lượng” phong phú, bố cục chặt chẽ hơn “lăm-xẵn”. Đặc điểm
chung của văn thơ cổ của Lào là để ca nên các tác giả hết sức chú ý đến nhịp
điệu, gieo vần (phổ biến là gieo vần lưng). Một số tác phẩm văn xuôi được
chuyển thành thể văn vần. Trước đây, một số tác giả người Lào đã mượn cốt
truyện thần thoại, anh hùng ca trong Ramayana của Ấn Độ để sáng tác. Tuy có sự
vay mượn nhưng các tác giả đã dựng lại trong bối cảnh của xã hội Lào, nhân vật
mang tâm tư tình cảm của người Lào và được viết theo thể thơ ca quen thuộc của
Lào.
2.
“Khắp”
Cùng
với “lăm”, “khắp” cũng là thể loại dân ca phổ biến ở Lào. “Khắp” là những khúc
ca ngắn giống hò ở Việt Nam (hò lơ, hò mái nhị, hò giã gạo… “Khắp” xuất hiện
khá sớm trong lịch sử và gần như một hình thức thơ trữ tình ở Lào. “Khắp” có
một số nét khác với “lăm”. Về nhịp điệu “khắp” tự do hơn “lăm”. Âm thanh của
“khắp” trầm lắng, dịu dàng. Mở đầu, dạo giọng “khắp”, người ta thường cất tiếng
“ời” ngân dài vút cao nồng nàn, tha thiết, sau đó người nghe đế, hò theo. Lúc
kết, “khắp” cũng ngân dài nhưng trầm xuống. Lời của “khắp” có thể không phải là
văn vần. Nhạc cụ đệm cho “khắp” ít dùng khèn bè, mà là cây nhị hai dây (xo).
Với đặc điểm trên “khắp” được coi là có tính quần chúng, thể hiện tình cảm rõ
hơn “lăm”. Riêng “khắp” Ngừm (Viêng-chăn) khó phân biệt, vì vừa là “khắp” vừa
mang tính chất “lăm-loòng”.
Nội
dung của “khắp” rất phong phú, nhưng thường phản ánh tình cảm của con người
trước cảnh vật, cuộc sống sinh hoạt quen thuộc của bản mường. Những hình ảnh
thân thuộc, bình thường nhưng đã gắn bó với mỗi người suốt cuộc đời như dòng
sông, bến nước, gốc bồ đề cổ thụ, tiếng trống chùa… đều đi vào “khắp”. Trai gái
cũng dùng “khắp” để tỏ ý tỏ tình nhưng thường tế nhị, kín đáo hơn “lăm”.
“Khắp”
được phổ biến rộng rãi ở các tỉnh miền Bắc Lào. Mỗi địa phương, mỗi dân tộc lại
có làn điệu “khắp” mang sắc thái riêng của mình. Ở Luổng-pha-bang có “khắp”
Thum, Xam-xao, “khắp” Xăm ở Xăm-nửa, “khắp” Lự ở Mường Xinh, “khắp” Ngừm ở
Viêng-chăn, “khắp” Tăng-vải ở Xa-vẵn-nạ-khệt. Dân tộc Phu-thay, Thay Đăm có làn
điệu riêng gọi là “khắp” Phu-thay, “khắp” Thay-đăm…
3.
Xỡng
Xỡng
cũng là một thể loại dân ca đơn giản, xuất hiện sớm nhất ở Lào nhưng không phổ
biến. Ca “xỡng” thường kèm với múa một người hoặc tập thể. “Xỡng” cũng có nhiều
loại như: xỡng bẵng-phay (ca trong lễ hội pháo thăng thiên), “xỡng” xuồng-hưa
(ca trong lễ hội đua thuyền)… Trong đám cưới, các cụ già thường ca “xỡng” mừng
cô dâu, chú rễ hoặc những ca khúc dành cho trẻ tuổi nhi đồng.
4.
“Àn nẳng-xử” (ngâm vịnh)
Đọc
có diễn cảm hoặc ngâm vịnh theo nội dung của một bài thơ hay một câu chuyện.
“Àn nẳng-xử” phổ biến nhất ở Luổng-pha-bang.
5.
I-kê-la-khon
Là
hình thức ca nhạc-kịch cổ có từ lâu đời ở Lào. Nội dung của “I-kê” thường là
những chuyện, truyền thuyết, cổ tích, ngợi ca những nhân vật anh hùng, những
người có công với bản mường trong lao động sản xuất, bản vệ bản làng, những
người nêu cao cái thiện, giàu lòng bác ái, từ bi. Ngoài ra còn có nhiều vở
“I-kê” đả kích bọn áp bức bóc lột, phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân
dân. Nhưng nhiều nhất vẫn là nội dung ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, tình
yêu trong sáng, thủy chung của nam nữ thanh niên.
6.
Loọng-phêng (hát)
“Phêng”
ở Lào có hai loại: những bài hát mới (tân nhạc), ảnh hưởng dòng nhạc phương Tây
và Thái Lan; một loại “phêng” tách ra từ I-kê (ca nhạc kịch).
Những
bài hát mới do các nhạc sĩ Lào sáng tác, bước đầu không mấy thành công. Số bài
hát hay được phổ biến rộng rãi không nhiều. Một thời gian sau mới xuất hiện một
số bài hát mới thấm đượm chất liệu dân ca, nội dung ca ngợi quê hương đất nước,
niềm tự hào dân tộc được phổ biến rộng rãi trong cả nước. Suốt một thời gian
dài những ca khúc này thường được thay lời mới cho phù hợp với thời đại và vẫn được
quần chúng ưa thích. Từ đây, “loọng-phêng” đã khẳng định được vị trí của mình
nhất là trong tầng lớp thanh thiếu niên ở các đô thị.
Loại
bài hát tách ra từ “I-kê” (ca nhạc kịch) gần gũi với dân ca được ưa chuộng
không kém “lăm”, “khắp”. Loại nhạc này giàu âm điệu, uyển chuyển, nhịp nhàng
gắn với các điệu múa truyền thống của Lào. Một số nhạc sĩ Lào đã thành công
trong sáng tác những bài hát mới trên cơ sở kế thừa và phát huy loại nhạc này.
7.
Múa
Múa
ở Lào cũng phổ biến rộng rãi, từ thành thị đến nông thôn. Trong những ngày lễ
hội lớn nhỏ ở Lào đều tổ chức vui chơi hợp quần trong đó không thể thiếu tiết
mục múa. Có điệu múa một người, hai người hoặc tập thể vài chục người
(lăm-vông). Những đêm hội, già trẻ, gái trai đều tham gia múa ca một cách tự
nhiên thoải mái. Các điệu múa của Lào thường uyển chuyển, nhịp nhàng theo nhịp
trống, động tác khá tự do, mang đậm màu sắc dân tộc.
Các
điệu múa xuất hiện sớm nhất ở Lào là múa “Bẵng-phay”, “Lăm phen”, rồi đến điệu
múa “Xỉ-nuôn”, “Kò-thạt”, Đoọc-bua (hoa sen)… Múa “Bẵng-phay” là điệu múa tập
thể trong ngày lễ hội pháo thăng thiên (Bẵng-phay). Múa “Lăm-phen” giống múa
tiên ở Ấn Độ, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xia. Múa “Kò-thạt” là múa tập thể xung
quanh ngọn tháp trong các ngày lễ hội tôn giáo. Đặc biệt là múa “lăm-vông” (múa
vòng tròn) tuy xuất hiện sau nhưng được phổ biến rộng rãi từ Bắc xuống Nam, từ
nông thôn đến thành thị và được coi như điệu múa tập thể tiêu biểu của dân tộc.
Múa “lăm-vông” xuất hiện vào thời điểm nào của lịch sử, đến nay chưa có lời
giải đáp thống nhất của các nhà nghiên cứu văn hóa Lào, nhưng nó đã tồn tại
nhiều thập kỷ qua và ngày nay nó vẫn có vai trò thật đặc biệt. Trong các ngày
lễ hội, dịp vui chơi tập thể, các buổi liên hoan của một cơ quan, nhà trường,
đơn vị vũ trang đều mở đầu và kết thúc bằng “lăm-vông”. Từng đôi nam nữ (có thể
cả hai đều là gái hoặc trai) múa vòng tròn theo nhịp trống (nhịp 2/4 hoặc 4/4).
“Lăm-vông” dễ múa, động tác sinh động, duyên dáng, uyển chuyển. Có thể
“lăm-vông” xuất phát từ điệu múa “lăm-thôn” (múa 1 người).
Trước
đây giai cấp phong kiến quý tộc Lào thường tổ chức múa cung đình và dùng đàn
“la-nát” (đàn thuyền). Đan “la-nát” ít phổ biến và dường như ít thấy ở các bản
làng chốn thôn quê. Ở thành thị, một số gia đình quý tộc, giàu sang mới dùng
đàn “la-nát”. Họ dùng đàn “la-nát” để biểu diễn trong các ngày lễ, hội hè do
gia đình tổ chức.
Múa
cung đình có múa đơn, múa đôi hoặc tập thể. Các vũ nữ múa cung đình được tuyển
chọn kỹ và tập luyện khá công phu do một số nghệ sĩ được đào tạo ở nước ngoài
(thường ở Ấn Độ hoặc Khơ-me) hướng dẫn. Khi biểu diễn các vũ nữ được ăn mặc hết
sức lộng lẫy, sang trọng. Múa cung đình ít di chuyển, mà thường múa tại chỗ,
kết hợp biểu diễn nhiều động tác mềm mại, dịu dàng, uốn lượn của ngón tay, bàn
tay, cánh tay, vai, cổ, đầu, bàn chân cho đến ánh mắt, nụ cười, nét mặt theo
tiếng đàn “la-nát”. Múa cung đình là dịp mua vui cho nhà vua, hoàng tộc và số
quan chức gần gũi nhà vua. Một số điệu múa cung đình Lào được mô phỏng theo các
điệu múa cổ Ấn Độ, Khơ-me và xoay quanh đề tài đề cao, chúc tụng, sùng bái nhà
vua.
8.
Nhạc cụ
- Khèn
bè (khen):
Là
loại nhạc cụ phổ biến nhất ở các bản làng từ Bắc xuống Nam. Khèn bè dễ làm,
dùng nguyên liệu ngay trong rừng, dưới sự hướng dẫn của “mỏ-khèn”, các tràng
trai trong bản có thể tự làm được. Nhưng để có chiếc khèn bè âm thanh chuẩn
phải tìm mua ở các chợ phiên, do các nghệ nhân chuyên sản xuất bày bán. Từ lúc
còn tuổi thiếu niên con trai Lào đã học thổi khèn.
Khèn
bè không thể thiếu trong các đêm biểu diễn dân ca ở Lào. Những đêm trăng người
Lào thường rủ nhau sang chơi các bản làng lân cận, đi canh giữ hoa màu trên
chòi một mình, các chàng trai thường đeo theo chiếc khèn bè. Khèn bè đa âm, đa
sắc có thể biểu diễn được nhiều giai điệu khác nhau. Với nghệ thuật biểu diễn
tài tình của “mỏ-khen”, tiếng khèn bè lúc róc rách như dòng suối cạn giữa rừng
khuya, khi sôi nổi, dồn dập như thác đổ, có lúc khoan thai êm ả như dòng nước
trôi lững lờ… Có một số bản nhạc trữ tình mang tính tự sự mô phỏng thiên nhiên,
con người được “mỏ-khèn” biểu diễn hấp dẫn, gây xúc động lòng người, được quần
chúng yêu thích như bản: Mẹ góa ru con, Kiến cam ngắm hoa, Gió thổi qua rừng…
Khèn bè cũng được thổi trong dịp phong sắc cho sư, các đám rước trong các ngày
lễ hội Bẵng-phay (pháo thăng thiên), Phạ-vệt. Có thể nói rằng, cùng với tiếng ru,
tiếng trống, tiếng khèn bè đã đi vào ký ức tuổi thơ mỗi người Lào khi còn địu
trên lưng mẹ.
- Trống
(kong):
Trống
cũng là nhạc cụ phổ biến ở Lào. Có thể nói rằng không có bản làng nào ở Lào
không có trống và không ngày nào vắng tiếng trống, tiếng mõ ngân vang (bản có
chùa). Có nhiều loại trống như trống cái, trống cơm, trống con…
Trống
cái hai đầu bọc da dài khoảng trên một mét được treo trong một cái chòi nhỏ gọi
là “hỏ-kong”. Bản có chùa, thì treo trong chùa. Thông thường mỗi bản làng chỉ
sử dụng một cái trống cái và được đánh trong các trường hợp sau: lễ hội, ngày
kiêng kỵ trong tháng, cầm nhịp thời gian trong ngày, hội họp bản làng, báo tin
dữ xảy ra trong bản làng (cháy nhà, thú dữ tấn công, người chết, tăng lữ lâm
bệnh trầm trọng.
Trống
cơm (koong-tũm):
Trống
cơm được đánh cùng với một số nhạc cụ khác để múa tập thể trong ngày lễ hội
“bẵng-phay” (pháo thăng thiên). Trống con (Koong kình) được đánh trong các buổi
lễ cầu phúc.
Ngoài
ra còn nhiều loại nhạc cụ khác được dùng phổ biến trong các ngày lễ hội sản
xuất, tôn giáo, ma chay như: “khoọng” (chiêng), “xình” (rạo bạt), “pì” (sáo),
“khùi” (tiêu), “mạc chặp pì” (đàn), “xo” (nhị), “pôông” (mõ), “xèng” (thanh
la)…
Đôi
nét về nền văn nghệ kháng chiến:
Hơn
nửa thế kỷ dưới thời Pháp thuộc dòng thơ ca viết chính thống sống lay lắt,
nghèo nàn; chỉ còn thơ ca cổ truyền thống phát triển và là nguồn nuôi dưỡng ý
chí tự lập tự cường của dân tộc. Năm 1945, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc. Một nước Lào độc lập ra đời, sau đó không bao lâu lại bước vào cuộc
đấu tranh chống ngoại xâm suốt ba thập kỷ vô cùng gay go ác liệt, gian khổ hy
sinh song cũng là chặng đường vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc. Tinh thần
quật khởi của nhân dân các dân tộc Lào trong cuộc kháng chiến trường kỳ là đề
tài mới vô cùng phong phú cho thơ ca. Từ đây, thơ ca truyền thống được kế thừa
và phát huy mạnh mẽ, thơ ca viết được phục hồi.
Để
giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc, ý thức bạn thù, tạo không khí lạc quan
trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng khốc liệt, Mặt trận Lào Ít-xạ-la đã liên
tiếp phát động phong trào sáng tác thơ ca. Theo chỉ thị của Chính phủ kháng
chiến, Ban chấm thi thơ ca từ cấp huyện trở lên được thành lập. Phong trào sáng
tác thơ ca diễn ra sôi động, rộng rãi ở khắp các cơ quan, đơn vị vũ trang,
xuống đến các bản làng. Với hình thức cũ, nội dung mới, thơ ca trong thời kỳ
này phát triển gần như độc tôn và đã góp phần cổ vũ nhân dân các dân tộc Lào
vượt qua muôn vàn gian nan thử thách trong những năm đầu của cuộc kháng chiến.
Cùng
với sự lớn mạnh về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế… văn nghệ kháng
chiến cũng có bước phát triển đáng khích lệ. Ngoài thơ ca truyền thống nhiều
thể loại mới ra đời. Đó là thơ mới, văn xuôi (ký, truyện ngắn, truyện dài) múa,
nhạc, kịch, nhiếp ảnh, điện ảnh… đặc biệt là ca hát (tân nhạc). Nhiều ca khúc
mới nổi tiếng xuất hiện, không chỉ được phổ biến rộng rãi trong vùng giải phóng
mà còn được đông đảo nhân dân, giới công chức, sĩ quan, binh lính ngụy trong
vùng địch kiểm soát ưa thích (Tiếng hò bên sông Mê-kông, Đất nước tự do…). Trên
cơ sở thơ ca cổ truyền thống, thơ ca kháng chiến ra đời và phát triển nhanh
chóng. Đó là những truyện thơ theo phương thức tự sự, ca ngợi những tấm gương
anh dũng kiên cường trong chiến đấu và sản xuất của nhân dân các dân tộc Lào.
Có nhiều bài thơ thuật lại một câu chuyện, một trận thắng oanh liệt của lực
lượng vũ trang cách mạng được phổ biến rộng rãi bằng hình thức “lăm-lượng”
(ca).
Những
năm kháng chiến, văn xuôi phát triển khá nhanh so với thơ ca, khoảng cách không
ngừng được rút ngắn. Tuy nhiên thơ ca vẫn dẫn đầu, vượt văn xuôi một chặng
đường dài. Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật mới đã làm cho nền văn
nghệ kháng chiến trở nên đa dạng, phong phú, có tác dụng to lớn trong việc giáo
dục tình cảm cách mạng cho nhân dân trong vùng giải phóng cũng như vùng địch
tạm chiếm.
Nội
dung của các tác phẩm văn nghệ kháng chiến cũng có sự thay đổi sâu sắc. Trước
đây, nhân vật điển hình thường là những chàng trai, cô gái xuất thân từ tầng
lớp quý tộc xinh đẹp, tài ba, giàu lòng nhân ái nhưng bị đày đọa khổ ải, phải
nhờ đến phép mầu của Thần, Tiên, Phật mới thoát nạn. Ngày nay, nhân vật điển
hình là những con người mới, người chiến sĩ, công nhân, nông dân đang trực tiếp
chiến đấu, sản xuất anh dũng kiên cường chống quân xâm lược góp phần giải phóng
quê hương đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử văn nghệ của dân tộc, những tình
cảm mới cao đẹp đã đi vào các tác phẩm như tình quân dân thắm thiết, tình đồng
chí, đồng đội keo sơn, tình đoàn kết quốc tế cao cả…
Lực
lượng sáng tác, biểu diễn văn nghệ kháng chiến ngày càng đông đảo. Bên cạnh các
nghệ sĩ, ca sĩ cũ tham gia kháng chiến, còn có đội ngũ nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc
công trẻ trưởng thành trong khối lửa của hai cuộc kháng chiến trường kỳ, được
đào tạo cơ bản ở trong nước và nước ngoài. Hàng chục đoàn văn công Trung ương,
địa phương, của Quân đội được thành lập. Mỗi bản làng đều có đội văn nghệ quần
chúng. Họ là những nghệ sĩ đồng thời là chiến sĩ trong suốt hai cuộc kháng
chiến trường kỳ.
Một
sự kiện lịch sử đã nửa thế kỷ trôi qua, nhưng ngày nay vẫn được các nhà nghiên
cứu văn hóa giáo dục Lào nhắc lại một cách tự hào và ngợi ca. Mới thành lập
được hơn một tháng dù chiến tranh ác liệt, công việc bề bộn nhưng Chính phủ
kháng chiến Lào đã quyết định thành lập Ban nghiên cứu ngôn ngữ (9-9-1950) do
Thủ tướng, hoàng thân Xu-pha-nu-vông trực tiếp làm Trưởng ban, Bộ trưởng Giáo
dục Chãu Xúc vông-xắc làm Phó Trưởng ban. Qua một thời gian ngắn nghiên cứu
theo phương châm: dân tộc, nhân dân và tiến bộ, Ban nghiên cứu ngôn ngữ đã đưa
ra một số cải cách quan trọng như: mẫu tự Lào được quy định thống nhất theo
nguyên tắc âm vị học, vừa hợp lý vừa đơn giản dễ đọc, dễ học. Sau đó Ban nghiên
cứu ngôn ngữ quy định tiếng Lào, chữ Lào trở thành thông ngữ trong cả nước,
chấm dứt hơn 60 năm bị đẩy xuống hàng một thổ âm, chỉ được dùng trong giao tiếp
của nhân dân (các trường tiểu học phổ thông, thời thuộc Pháp chỉ dạy chữ Lào
mỗi tuần vài giờ). Và từ đây ngôn ngữ dân tộc được hồi sinh, tạo ra một bước
ngoặt cho văn học, nghệ thuật, văn hóa giáo dục phát triển mạnh mẽ.
Đồng
thời với việc cải cách ngôn ngữ, Ban nghiên cứu ngôn ngữ đã phát động phong
trào xóa nạn mù chữ rầm rộ, chưa từng có khắp các bản làng. Và thơ ca giữ vai
trò tuyên truyền, cổ vũ đắc lực nhất cho phong trào. Để tạo điều kiện thuận lợi
cho vai trò thông ngữ của tiếng Lào, chữ Lào, Ban nghiên cứu ngôn ngữ còn tiếp
tục phổ biến một số danh từ mới, đưa một số khái niệm, kiến thức mới vào đời
sống xã hội. Những việc làm của Ban nghiên cứu ngôn ngữ lúc bấy giờ có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các tầng lớp nhân dân trong cả nước, nhất là giới trí thức,
công chức, học sinh, sinh viên.
Trong
những năm kháng chiến, thơ ca cổ truyền thống được kế thừa và phát huy, thơ ca
kháng chiến ra đời, đồng thời nhiều thể loại mới xuất hiện. Văn nghệ kháng
chiến thực sự trở thành vũ khí sắc bén, góp phần tích cực vào việc giáo dục chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, động viên lòng yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc
trong quần chúng nhân dân các dân tộc Lào. Đã một phần tư thế kỷ đi qua, nhưng
ngày nay các tầng lớp nhân dân Lào vẫn say mê và tự hào về những ca khúc, những
bài thơ mang hơi thở của một thời đại oanh liệt, hào hùng của dân tộc./.
Đề cương gợi ý một số nội dung chính trong
12 chủ đề thi viết tìm hiểu “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào –
Việt Nam”
(Tạp chí Tuyên
giáo)
1. Những
cơ sở tạo nên việc thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam
(5-9-1962). Ý nghĩa của việc thiết lập quan hệ ngoại giao của hai nước.
Mục
đích: Làm rõ những nhân tố tạo nên việc thiết
lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam và ý nghĩa đặc biệt của sự
kiện này.
Yêu cầu: Bài dự thi phải nêu được:
- Nêu
được các yếu tố hình thành và phát triển dựa trên những điểm tương đồng về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị và xã hội; truyền thống chống giặc ngoại xâm
của hai tộc và tinh thần tự nguyện phối hợp chiến đấu của nhân dân hai nước,
được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặt nền móng và được phát triển không
ngừng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ ở
Đông Dương.
- Bối cảnh lịch sử và những đòi hỏi của cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung cần phải củng cố, phát triển quan hệ ngoại giao của hai nước nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp do sự can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào các nước Đông Dương. Từ đó, tiếp tục gắn kết hai dân tộc lại với nhau trên cùng một trận tuyến chống lại kẻ thù chung.
Ý nghĩa của việc thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam.
- Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm vóc lịch sử to lớn trong quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam.
- Góp phần tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác thân thiện giữa hai dân tộc anh em tiến lên một tầm cao mới. Nhờ đó, đã giải quyết được những khó khăn, thử thách mới với nhiều diễn biến phức tạp do sự can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào các nước Đông Dương.
- Khẳng định đường lối nhất quán, đúng đắn trong mối quan hệ chiến lược của hai Đảng và nhân dân hai nước; đảm bảo sự thống nhất về đường lối chính trị, quân sự, để hai dân tộc tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra.
- Là cơ sở vững chắc để quân dân hai nước tiếp tục sát cánh bên nhau chiến đấu và giành nhiều thắng lợi mới trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tay sai, giành độc lập tự do cho mỗi nước.
2. Phát triển liên minh chiến đấu, đánh
thắng các chiến lược chiến tranh của Đế quốc Mỹ, giành thắng lợi hoàn toàn
(1963-1975).
Mục đích: Làm rõ quá trình liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những năm tháng chiến tranh gian khổ và đầy hy sinh xương máu, đánh thắng các chiến lược chiến tranh của Đế quốc Mỹ giành thắng lợi hoàn toàn.
Yêu cầu:
- Nêu được mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặt nền móng đã phát triển không ngừng qua các thời kỳ lịch sử từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954); cuộc đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ, chống chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ , thiết lập quan hệ ngoại giao ( 1954 – 1962).
- Nêu bật được quá trình liên minh chiến đấu của hai dân tộc qua các giai đoạn từ 1963-1975: Xây dựng vùng giải phóng Lào, xây dựng tuyến vận tải chiến lược Tây Trường Sơn, từng bước đánh thắng chiến lước chiến tranh đặc biệt ở Lào và chiến tranh cục bộ ở Việt Nam (1963-1968); đánh thắng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam và chiến tranh đặc biệt tăng cường ở Lào (1969-1973); phối hợp đẩy mạnh đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn (1973-1975).
- Trong giai đoạn này, quan hệ Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam phát triển lên đỉnh cao của hình thức liên minh chiến lược trực tiếp chống đế quốc, trở thành một mẫu mực về tình đoàn kết, chiến đấu, hỗ trợ lẫn nhau trên mọi lĩnh vực.
- Thủy chung với tình hữu nghị truyền thống, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã giúp đỡ, hỗ trợ đến mức cao nhất cả về vật chất lẫn tinh thần cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân các bộ tộc Lào. Đáp lại, Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, hết lòng ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Trong cuộc trường chinh đầy gian khổ ấy, quân tình nguyện Việt Nam đã cùng Quân đội giải phóng nhân dân Lào mở nhiều chiến dịch cùng hàng loạt trận chiến đấu thắng lợi, đánh bại từng bước chiến lược“Chiến tranh đặc biệt”, rồi “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” của Mỹ ở Lào, làm cho đế quốc Mỹ phải phân tán lực lượng đối phó, góp phần hỗ trợ đắc lực, tạo thời cơ thuận lợi cho các bước chuyển biến của chiến tranh cách mạng ở Việt Nam, tạo đà phát triển đi lên của cách mạng Campuchia, dẫn tới thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.
- Từ thực tiễn đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam-Lào trong những năm tháng chiến tranh chống kẻ tù chung đã để lại một số bài học lịch sử, rất cần chắt lọc, vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mỗi nước.
3. Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam
Mục đích: Làm rõ vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Yêu cầu:
- Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nêu bật được công lao to lớn của Người với vai trò là người đặt nền móng cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam. Đặc biệt, nêu được sự lãnh đạo, chỉ đạo và tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng, vun đắp mối và tăng cường tình đoàn kết chiến của quân và dân hai nước chống thù chung qua các thời kì lịch sử. Bên cạnh đó, cần làm rõ tình cảm của Hồ Chí Minh dành cho nhân dân Lào và những tình cảm quý báu của nhân dân Lào dành cho Hồ Chí Minh.
- Đối với Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản: Nêu được quá trình hoạt động của đồng chí từ thời niên thiếu tới lúc trưởng thành; tinh thần học tập và đấu tranh của đồng chí trên đất Việt Nam những thập kỉ đầu của thế kỉ XX. Đặc biệt, phải làm rõ được những cống hiến của đồng chí sau khi trở thành đảng viên của Đảng, trong đó nhấn mạnh đến mối quan hệ gắn bó giữa Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như với các thế hệ cán bộ lãnh đạo Việt Nam qua những thời cách mạng; cuối cùng cần phải khẳng định, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản là một trong những người đặt nền móng cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Đối với Chủ tịch Xuphanuvông: Bài dự thi cần phải khẳng định đây là một nhân vật đặc biệt, một biểu tượng của mối quan hệ và tình đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam, trong đó nêu bật quá trình sinh ra và lớn lên trong Hoàng cung Lào, sớm gắn bó và để lại nhiều dấu ấn đậm nét với cách mạng Việt Nam (qua một số công trình thiết kế thời kì Hoàng thân là kĩ sư hoạt động trên đất Việt Nam những thập kỉ đầu của thế kỉ XX); đặc biệt, phải làm rõ được mối quan hệ gắn bó giữa Hoàng thân với Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi. Tiếp đó, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kì xây dựng, bảo vệ Tổ quốc sau này, cần nhấn mạnh những tình cảm tốt đẹp mà Hoàng thân dành cho các thế hệ, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm quốc tế tại Lào; những cống hiến xuất sắc của Hoàng thân trên cương vị là Chủ tịch nước trong xây dựng mối quan hệ đặc biệt Lào-Việt Nam.
Đối với lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, bài dự thi cần nhấn mạnh vai trò của các thế hệ lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước trong việc gìn giữ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam ở cả quá khứ, hiện tại, trong đó nhấn mạnh các hoạt động thông qua những cuộc gặp cấp cao của lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước nhằm thống nhất về chủ trương, đường lối trong xây dựng, vun đắp mối quan hệ đặc biệt.
4. Quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào- Việt Nam từ năm 1976 đến nay. Ý nghĩa và tầm quan trọng của Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (được ký kết ngày 18-7-1977)
Mục đích: Làm rõ những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam từ sau khi hai dân tộc đánh bại kẻ thù chung, đất nước được hoàn thành giải phóng; quan hệ giữa Việt Nam và Lào bước sang một thời kỳ mới – thời kỳ từ quan hệ chủ yếu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước, chuyển sang quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng cầm uyền, hai Nhà nước và hai quốc gia độc lập, có chủ quyền, cùng khảo nghiệm, tìm tòi từng bước đổi mới để đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Yêu cầu: Nêu bật được sự phát triển trong quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện cả về chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, giáo dục... Đây là đặc điểm quan trọng nhất, chi phối dẫn tới sự thay đổi về chiến lược trong nội dung, phương thức và các nguyên tắc quan hệ giữa hai quốc gia – dân tộc, nâng quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước lên tầm cao mới.
Bài viết lựa chọn vấn đề, đáp ứng mục đích, yêu cầu trên. Trong đó, tập trung phản ánh tinh thần đoàn kết hữu nghị và hợp tác toàn diện và phát triển trên các giai đoạn:
1. Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong giai đoạn khảo nghiệm, mở đường đổi mới (1976-1986). Trong đó, phải tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định xây dựng đất nước, từng bước mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện (1976-1981); Những năm đầu tìm tòi khảo nghiệm con đường đổi mới (1982-1986).
- Nêu bật những sự kiện quan trọng đưa quan hệ hữu nghị Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam lên tầm cao mới. Đặc biệt là sự kiện hai nước đã thỏa thuận ký kết các Hiệp ước và ra Tuyên bố chung, tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước.
- Nêu bật tầm quan trọng của Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (được ký ngày 18-7-1977) là Hiệp ước toàn diện đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược, là cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng có và tăng cường lâu dài, bền chắc tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.
- Hiệp ước khẳng định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt liên minh đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc không chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn cả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau chiến tranh.
Việc ký kết Hiệp ước còn có ý nghĩa quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.
- Việc
triển khai quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào về các mặt, đặc biệt là các
vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục – y tế; quóc phòng an nình...
2. Quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (1986-2017).
- Nêu rõ bối cảnh quốc tế và khu vực; những chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Đảng Nhân dân cách mạng Lào; những thành tưu về củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện trong giai đoạn đầu công cuộc đổi mới của hai nước Việt Nam – Lào (1986-1996).
- Nêu rõ yêu cầu mới, nội dung và những thành tựu của sự hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào-Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công cuộc đổi mới (1996- 2017), là yếu tố quyết định trong việc củng cố và phát triển, tạo tiền đề cho việc tăng cường và mở rộng hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào-Việt Nam trong giai đoạn mới.
5. Những kỷ niệm sâu sắc về tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai dân tộc Việt-Lào trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay
Mục đích: Ghi lại những câu chuyện, những kỷ niệm sâu sắc của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ từng thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Yêu cầu: Bài viết phải phản ánh trung thực, khách quan, đúng với những gì lịch sử diễn ra.
- Đó có thể là một kỉ niệm thời trận mạc;
- Những trang hồi ức sâu nặng nghĩa tình;
- Những tình cảm gắn bó, thắm thiết giữa cán bộ, chiến sĩ Việt Nam với quân dân Lào trong những năm kháng chiến;
- Những ấn tượng sâu sắc về thành tựu của quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.v.v...
6. Những biểu hiện sinh động của mối quan hệ đoàn kết, gắn bó thủy chung, son sắt của hai dân tộc Việt Nam -Lào dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước từ khi thiết lập mói quan hệ hợp tác và hữu nghị đến nay.
Mục đích: Làm rõ những thành tựu của mối quan hệ đoàn kết, gắn bó thủy chung, son sắt của hai dân tộc dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1977 đến nay, đó là những biểu hiện sinh động của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Yêu cầu: Bài dự thi phải khái quát được những thành tựu:
- Trong giai đoạn 1977 đến nay, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng với nỗ lực và sự đoàn kết quyết tâm cao, hai nước Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam vẫn đạt được nhiều thành công lớn trên mọi lĩnh vực.
+ Về lĩnh vực hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại;
+ Lĩnh vực quốc phòng, an ninh;
+ Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học-kỹ thuật;
+ Về hợp tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân.
- Đó thực sự là những biểu hiện sinh động của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt trong thời kì mới dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước.
7. Những kinh nghiệm quý báu về việc gìn giữ, củng cố, phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào
Mục đích: Làm rõ những bài học học kinh nghiệm chủ yếu về việc gìn giữ, củng cố, phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Yêu cầu: Bài dự thi phải nêu và phân tích được những kinh nghiệm chủ yếu:
Thứ nhất, phải xác định đúng đắn hệ thống quan điểm lí luận về mối quan hệ dân tộc và quốc tế trong thời đại mới giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Thứ hai, phải xác định nội dung, phương thức xây dựng quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam là cụ thể hóa hệ thống quan điểm lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ quốc gia và quốc tế trong điều kiện cụ thể của hai nước để hướng dẫn hoạt động của Đảng, của hệ thống chính trị và quân, dân hai nước Việt Nam, Lào nhằm đạt tới mục tiêu cách mạng do hai bên xác lập.
Thứ ba, tình cảm cách mạng thủy chung, trong sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào là một nhân tố trọng yếu tạo nên độ bền vững và phát triển của mối quan hệ Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Thứ tư, khai thác, phát huy các nhân tố, điều kiện cần thiết để xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
8. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong lịch sử của hai dân tộc và trên những chặng đường phát triển mới.
Mục đích: Làm rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong lịch sử của hai dân tộc và trên những chặng đường phát triển mới.
Yêu cầu: Bài dự thi phải chuyển tải được các nội dung:
- Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mỗi nước; là quy luật tồn tại và phát triển của cả hai nước ở hiện tại và tương lai.
- Gìn giữ và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam chính là gìn giữ thành quả cách mạng mà biết bao thế hệ quân dân hai nước đã hy sinh vì nền độc lập, tự do của hai nước; gìn giữ truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nhân dân hai nước được lưu truyền qua nhiều thế hệ; gìn giữ công cuộc xây dựng đất nước và cuộc sống ấm no mà nhân dân hai nước đang thụ hưởng.
- Gìn giữ, phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam là mong muốn và nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước vì sự phát triển bền vững; là góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động hòng xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, hai dân tộc.
- Đối với thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của hai nước, gìn giữ và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, nó gắn liền và quyết định tới mọi thành công của mỗi người trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước của thế hệ trẻ.
9. Những cảm nhận về nền văn hóa, về đất nước và con người Lào.
Mục đích: Nêu lên những cảm nhận của mình đối với nền văn hóa, về đất nước và con người Lào.
Yêu cầu:
- Về nền văn hóa:
+ Lào có nền văn hóa được hình thành từ lâu đời, không ngừng bồi tụ, phát triển theo thời gian; rất phong phú và đa dạng.
+ Văn hóa Lào nằm trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á nên mang những đặc trưng chung của văn hóa Đông Nam Á
+ Tuy có những nét chung của văn hóa Đông Nam Á nhưng văn hóa Lào có rất nhiều nét riêng biệt, đó là bản sắc văn hóa của dân tộc Lào.
* Về văn hóa vật chất của người Lào.
* Về văn hóa tinh thần của người Lào.
- Về đất nước:
+ Đất nước Lào có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đối với Đông Dương và Đông Nam Á.
+ Lào là một đất nước thanh bình, thiên nhiên hùng vĩ, giàu tài nguyên.
+ Đất nước Lào có truyền thống lịch sử lâu đời, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm anh dũng kiên cường.
- Về con người:
+ Nhân dân Lào cần cù, chăm chỉ và ham học hỏi.
+ Có tinh thần vươn lên khắc phục khó khăn trong lao động sản xuất cũng như chống giặc ngoại xâm.
+ Có tinh thần cố kết dân tộc cao và tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, đặc biệt với nhân dân Việt Nam.
10. Cần làm gì để gìn giữ, phát huy tình cảm hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào.
Mục đích: Nêu những nội dung cần phải làm để gìn giữ, phát huy tình cảm hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào.
Yêu cầu: Bài dự thi phải nêu được những nội dung sau:
Để gìn giữ, phát huy tình cảm hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào chúng ta cần phát suy sức mạnh tổng thể của cả hệ thống chính trị và nhân dân hai nước trên cơ sở phát huy những kinh nghiệm được đúc kết trong lịch sử và tăng cường đẩy mạnh hợp tác trên mọi lĩnh vực.
+ Hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại. Đây là lĩnh vực hợp tác đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam. Do vậy, hai bên phải thường xuyên có các cuộc tiếp xúc, trao đổi đoàn cấp cao và các cấp, thông báo cho nhau tình hình phát triển của mỗi nước và cùng nhau trao đổi, hợp tác giải quyết những vấn đề liên quan đến mối quan hệ đặc biệt cũng như những vấn đề quốc tế và khu vực hai nước quan tâm, từ đó nâng tầm mối quan hệ Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới.
+ Phải tăng cường hợp tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Trước sự biến đổi mạnh mẽ của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và phản động, việc tăng cường hợp tác quốc phòng, an ninh trong tình hình cách mạng mới là việc làm tiên quyết để gìn giữ và phát huy tình cảm hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử.
+ Phải đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học-kĩ thuật. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển cách mạng hai nước và mối quan hệ Việt Nam-Lào ở cả hiện tại và tương lai. Trên tinh thần đó, Chính phủ hai nước Việt Nam và Lào cần đẩy mạnh hợp tác, thông qua các Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học-kĩ thuật hàng năm và từng giai đoạn, tạo điều kiện hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Khi kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện sẽ tác động tương hỗ cho các mối quan hệ hợp tác khác giữa hai nước.
Với những thành tựu đã đạt được, quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học-kĩ thuật giữa hai nước đang trở thành yếu tố quyết định trong việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam, tạo tiền đề cho việc tăng cường và mở rộng hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam lên tầm cao mới.
+ Phải thắt chặt hơn nữa hợp tác giữa các địa phương và nhân dân hai nước. Quan hệ giữa các địa phương và nhân dân hai nước không chỉ diễn ra ở các tỉnh có chung đường biên giới mà cần được đẩy mạnh thông qua sự kết nghĩa giữa các tỉnh. Đặc biệt, thông qua Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam-Lào, Lào- Việt Nam và qua các Chi hội Hữu nghị ở các tỉnh, quan hệ giữa nhân dân hai nước phải được tiến hành thường xuyên với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Đi cùng với đó, phải tích cực truyên truyền, giáo dục để nhân dân hai nước hiểu rõ về lịch sử mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam, trước mắt là tuyên truyền, cổ vũ nhân dân hai nước tích cực tham gia cuộc thi tìm hiểu Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam do Bộ Chính trị của hai Đảng đã thống nhất phát động.
11. Tại sao các thế lực thù địch xuyên tạc gây chia rẽ quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào Việt Nam
Mục đích: Làm rõ âm mưu của các thế lực thù địch trong chiến lược chống chủ nghĩa xã hội, xuyên tạc sự thật về chủ nghĩa xã hội, âm mưu lái cách mạng Việt Nam và Lào từ bỏ con đường đi theo chủ nghĩa xã hội; chia rẽ đoàn kết của hai dân tộc vì những mưu đồ đen tối gây bất lợi cho cách mạng của mỗi nước.
Yêu cầu: Bài dự thi phải chuyển tải được các nội dung:
- Âm mưu thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
- Những biện pháp nhận diện, đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và dân chúng mỗi nước.
- Gìn giữ, phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam; khắc phục kịp thời những yếu kém, bất cập hiện nay vừa là mong muốn và nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước vì sự phát triển bền vững; vừa là góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động hòng xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, hai dân tộc.
12. Tại sao hai dân tộc Việt Nam-Lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau.
Mục đích: Nêu được lý do tạo sao hai dân tộc Việt Nam-Lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau.
Yêu cầu: Sở dĩ hai dân tộc Việt Nam-Lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau:
+ Vì quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước, đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nhân dân hai nước Việt Nam, Lào, quan hệ đặc biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù gian nan nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách được.
+ Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế mà nhân dân hai nước đang tiến hành đã tạo ra những xung lực mới, đồng thời đặt ra những yêu cầu khách quan về gia tăng mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam-Lào; Lào-Việt Nam với những phương thức mới và những nội dung mới, do dó hai dân tộc cần phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng đạt được những mục đích đề ra của cách mạng hai nước.
+ Trước sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, các thế lực thù địch và phản động đang tìm mọi cách xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam. Do vậy, hơn lúc hết, hai dân tộc phải yêu thương, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng nhau đoàn kết làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân hai nước.
+ Trong bối cảnh đoàn kết hợp tác rộng mở trên thế giới hiện nay, xuất hiện nhiều hình thức liên kết hợp tác song phương và đa phương với nhiều mục đích khác nhau, do vậy hai dân tộc Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam cần gắn bó chặt chẽ bên nhau, cùng nhau xây đắp mối quan hệ đặc biệt trở thành một mẫu mực về tình đoàn kết quốc tế trong lịch sử thế giới đương đại, đồng thời cũng vì sự phát triển bền vững của mỗi nước./.
x
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét