“Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Đó là khẳng định của GS. Klaus Schwab, người Đức, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos, người đã đưa ra khái niệm Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4 và đó cũng là chủ đề chính của diễn đàn kinh tế lớn nhất thế giới năm 2016.
Diễn đàn kinh
tế thế giới năm 2016 - Diễn đàn Davos mùa Hè lần thứ 10 đã được khai mạc ngày
27/6/2016 tại Thiên Tân, Trung Quốc có chủ đề "Cuộc CMCN lần thứ 4 và những
tác động" có sự tham dự của khoảng 1.700 chính trị gia, doanh nhân, học giả
và đại diện truyền thông đến từ hơn 90 quốc gia và khu vực.
Vậy thực chất
cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là gì?
1. Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là
gì?
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công
nghiệp 4.0) là sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực
vật lý, số hóa và sinh học.
2. Lịch sử ra đời của Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư:
- Lịch
sử loài người đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp:
+
Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ nhất bắt đầu vào năm 1784 với đột phá
về cơ khí hóa với máy chạy bằng thủy lực và hơi nước.
+ CMCN lần thứ hai diễn ra trong giai đoạn 1871 - 1914
thúc đẩy quá trình điện khí hóa với sự xuất hiện của động cơ điện và dây chuyền
sản xuất hàng loạt.
+
CMCN lần thứ ba bắt đầu vào năm 1969 dẫn đến sự xuất hiện của kỷ nguyên máy
tính và tự động hóa.
+
CMCN lần thứ tư gắn chặt với quá trình số hóa nền kinh tế và xã hội.
-
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn liền với
thuật ngữ “Công nghiệp 4.0”, lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ Công nghệ
Ha-nô-vờ ở Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011. Năm 2012, thuật ngữ này được đặt
tên cho một chương trình hỗ trợ của Chính phủ Liên bang Đức hợp tác với giới
nghiên cứu và các hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy
trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua “điện toán hóa”. Từ
đó đến nay, thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” được sử dụng rộng rãi trên thế giới để
mô tả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày 20/01/2016, Diễn đàn kinh tế
thế giới ở Đa-vốt, Thụy Sĩ, đã khai mạc với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư."
3. Những đặc trưng của Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư
-
Kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể: Cuộc cách mạng công nghệ đang dien
ra, còn được nhiều chuyên gia gọi là “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã
bắt đầu từ những năm 2000, đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa
các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết họp
giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối In-tơ-nét (IoT) và các hệ thống
kết nối In-tơ-nét (IoS).
-
Qui mô và tốc độ phát triển chưa có tiền lệ trong lịch sử nhân loại: Tốc độ
phát triển của nhũng đột phá trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là
không có tiền lệ trong lịch sử. Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước
đây diễn ra với tốc độ theo cấp số cộng (hay tuyến tính) thì tốc độ phát triển
của cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là theo cấp số nhân nhờ rút ngắn đáng
kể thời gian từ khi các ý tưởng về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai
trong các phòng thí nghiệm cho đến khi thương mại hóa ở qui mô lớn các sản phẩm
và qui trình mới được tạo ra trên phạm vi toàn cầu.
- Tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới
đương đại: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động to lớn về
kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp - toàn cầu, khu vực và trong từng
quốc gia. Các tác động này mang tính rất tích cực trong dài hạn, song cũng tạo
ra nhiều thách thức điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn.
- Về mặt kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư tác động đến tiêu dùng, sản xuất và giá cả. Từ góc độ tiêu dùng và giả cả,
mọi người dân đều được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều sản phẩm và dịch vụ
mới có chất lượng với chi phí thấp hơn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
cũng tác động tích cực đến lạm phát toàn cầu nhờ đột phá về công nghệ trong các
lĩnh vực năng lượng, vật liệu, In-tơ-nét kết nối vạn vật, người máy, ứng dụng
công nghệ in 3D v.v... giúp tiết kiệm các yếu tố đầu vào và qua đó giúp giảm mạnh
áp lực chi phí đẩy.
-
Từ góc độ sản xuất, trong dài hạn, cuộc cách mạng công nghiệp lần này sẽ tác động
hết sức tích cực. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghệ này đang tạo ra những
thách thức liên quan đến chi phí điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn do tác động
không đều đến các ngành khác nhau Chính vì vậy mà Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang vẽ lại bản đồ kinh tế trên thế giới, với sự suy giảm quyền lực của
các đại gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của
các quốc dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo.
-
Tác động đến môi trường là tích cực trong ngắn hạn và hết sức tích cực trong
trung và dài hạn nhờ sự phát triển mang tính đột phá của các công nghệ tiết kiệm năng lượng,
tài nguyên; vật liệu và thân thiện với môi trường Các công nghệ; giám sát môi
trường cũng đang phát triển nhanh dần thay thế các phương thức giám sát môi trường
truyền thống.
-
Tác động đến xã hội thông qua kênh việc làm trong trung hạn là điều đáng
quan ngại nhất hiện nay. Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư càng làm khuyếch đại lên xu hướng gia tăng bất bình đẳng
trên toàn cầu nói chung và tại các nước phát triển nói riêng. Nhóm lao động dễ
bị tổn thưong nhất là lao động giản đơn, ít kỹ năng rất dễ bị thay thế bởi người
máy.
Chúng ta vẫn
chưa biết làm thế nào đế cuộc CMCN lần thứ 4 có thể mở ra, nhưng có một điều rõ
ràng là: việc ứng biến với cuôc cách mạng này đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn
diện và đồng bộ liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân, chính thể trên thế
giới, từ khu vực công và tư tới giới khoa học học và toàn xã hội.
5
yếu tố cơ bản của cuộc Cách
mạng Công nghiệp lần thứ tư:
1.
Đức là quốc gia đầu tiên lên chương trình nghị sự của Chính phủ như “một chiến
lược công nghệ cao".
2.
Dựa trên hệ thống mạng - vật lý, kết hợp giữa cơ sở hạ tầng vật chấtvới các phần
mềm, các bộ cảm biến, công nghệ nano, công nghệ truyền thông kỹ thuật số.
3.
Mạng internet sẽ đóng một vai trò quan trọng.
4.
Cho phép nền kinh tế toàn cầu có thêm 14,2 tỷ USD thu nhập trong 15 năm tới.
5.
Sẽ làm thay đổi hoàn toàn tới việc làm trong tương lai và tác động đến các
ngành công nghiệp trên toàn thế giới.
Chuyến thăm của Thủ tướng Markel
Quá
trình sản xuất tại Nhà máy Điện tử Amberg được kiểm soát bởi thiết bị điều khiển
Simatic. Theo thống kê, hệ thống vận chuyển hoàn toàn tự động đảm bảo nguyên liệu
được đưa từ nhà kho đến máy sản xuất trong vòng 15 phút; Nhà máy vận hành 3 ca
mỗi ngày, với hơn 3.000.000 sản phẩm được xuất xưởng mỗi năm; mặc dù diện tích
sản xuất không đổi (10.000m²) và số lao động hầu như không đổi, nhưng nhà máy
đã tăng sản lượng gấp 8 lần; Nhà máy sản xuất khoảng 15 triệu sản phẩm Simatic
mỗi năm và mỗi ngày có khoảng 60.000 sản phẩm được phân phối cho khách hàng
trên toàn thế giới. Tại EWA, máy móc và máy tính đã xử lý tới 75% chuỗi giá trị
sản phẩm, còn con người chủ yếu lo phát triển sản phẩm và khởi động quá trình sản
xuất. Quá trình sản xuất này được tự động hóa thông qua khoảng 1.000 bộ điều
khiển Simatic để kiểm soát, từ lúc bắt đầu cho tới khâu phân phối và chắc chắn
là có sự tham gia của kỹ thuật IT. Nhờ đó mà các sản phẩm ra đời với năng suất
và chất lượng vượt trội, đạt tới 99,9988%.
Trong video bà Merkel có nói:
Tôi
tới đây để xem nền sản xuất công nghiệp của tương lai
Ở
nhà máy này, người ta không chỉ nói về CÔNG NGHIỆP 4.0 mà còn thực hiện nó thực
sự (JOE KAESER – CEO Siemens) - Ông bày tỏ niềm vui mừng được đón Thủ tướng tới
để cho bà thấy chi tiết làm cách nào các sản phẩm được tạo ra/định hình
JOE
nhấn mạnh đây là một nhà máy số ở quy mô lớn được xây dựng hiện thực, ở đây máy
móc làm chính xác những gì con người muốn chúng làm
Bà
Merkel bày tỏ muốn thấy nước đức trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực này
(CÔNG NGHIỆP 4.0) và tin rằng Siemens sẽ trở thành người dẫn đầu thị trường
4.
Vấn đề đặt ra cho Việt Nam: ViệtNam đang trong quá trình hộp
nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có
tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Một
mặt, nó tạo ra nhiều cơ hội, nhưng cũng mang lại nhiềuthách thức trong trung và
dài hạn; cụ thể là:
Cơ hội:
- Cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới bước đầu vào giai đoạn khởi phát. Đây là
cơ hội quý báu cho Việt Nam để tiếp cận với lĩnh vực khoa học công nghệ mới, tiếp
cận với những thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đi tắt,
đón đầu, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới. Mặt khác,
nó tạo ra thời cơ mới cho Việt Nam hội nhập sâu hơn, hiệu quả hơn vào kinh tế
thế giới.
- Tạo cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển
nhanh hơn do: (i) kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu vào động
lực không có trần giới hạn là công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho tăng trưởng
chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào luôn có trần giới hạn. (ii) phát triển nhiều ngành kinh tế; trong đó có những ngành mới
thông qua mở rộng ứng dụng những tiến bộ, thành tựu về công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học công nghệ na no, vật liệu mới, In-tơ-nétkết nối vạn vật,
người máy, ứng dụng công nghệ in 3D…
- Tạo cơ hội cho Việt Nam thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu lao động xã hội từ những người lao động có trình độ thấp chủ yếu gia công,
lắp ráp sang xuất hiện đông đảo các tầng lớp, giai cấp sáng tạo trong khoa học,
công nghệ, văn hóa, y tế, giáo dục…
Thách thức:
- Trong môi
trường kết nối cao về In-tơ-nétvà các trang mạng xã hội, sẽ tạo ra nhiều sức ép
đối với trách nhiệm giải trình của Quốc hội, Chính phủ và UBND các cấp và thách thức về quản trị nhà nước. Do vậy, cần có sự thay đổi căn
bản trong việc xử lý quan hệ với công chúng và quản trị nhà nước.
- Các nước công
nghiệp mới nổi, nhiều nước đang phát triển và các tập đoàn đa quốc gia đều cạnh
tranh quyết liệt đang tìm cách thu hút, hợp tác để có đầu tư, chuyển giao công
nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc cách mạng công
nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Tuy nhiên, khi đầu tư vào
Việt Nam, phần lớn họ chỉ tập trung vào tận dụng nguồn lao động giá rẻ; biến
Việt Nam thành công xưởng gia công lắp ráp. Việc chuyển giao công nghệ giữa các
doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước rất hạn chế. Do vậy, nếu không chuyển hóa nguồn lực này
thành năng lực nội sinh thì chúng ta ngày càng phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài.
- Về
lĩnh vực giải quyết việc làm: Do lao động được thay thế bởi tự động hóa, rô bốt
thông minh do vậy nó sẽ tác động trực tiếp đến việc làm của các ngành mà Việt
Nam đang có thế mạnh về lao động nhưng kỹ năng thấp như: Dệt may, giày dép gia
công, lắp ráp. Báo cáo của ILO công bố tháng 7/2016 cho thấy Việt nam có đến
86% lao động trong các ngành dệt may và giày dép ở Việt Nam có nguy cao mất
việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ. Dệt may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc
làm cho nhiều lao động, trong đó có
nhiều lao động ít kỹ năng, nhiều lao động nữ và một số không còn trẻ.
Đây là nhóm người dễ dàng tìm được việc làm thay thế ở trong khu vực chính
thức, dẫn đến một quá trình điều chỉnh rất khó khăn và có thể làm đảo ngược quá
trình chuyển dịch lao động ra khỏi nông nghiệp, cản trở quá trình tăng tỷ trọng
của khu vực chính thức trong nền kinh tế. Mặt khác, trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo mới là lợi thế. Trong khi đó, chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều hạn chế; đây cũng là một thách thức không
nhỏ để nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ và ứng dụng hiệu quả các công nghệ
mới ở các quy mô doanh nghiệp, ngành lĩnh vực và cả nền kinh tế trong điều kiện
xuất phát điểm phát triển của Việt Nam còn thấp so với nhiều nước.
5. Các mạng công nghiệp 4.0 với nền giáo dục và đào tạo:
Nhiều bài học
kinh nghiệm cho thấy: quốc gia nào thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu,
quốc gia đó có những bước phát triển đột phá và vượt trội. Đơn cử Singapore,
không chỉ là quốc đảo nổi tiếng sạch và đẹp mà còn là điểm đến của nhiều học
sinh, sinh viên mong muốn tìm kiếm một nền giáo dục tiên tiến.
Tại Việt Nam,
với hơn 80% lao động quốc gia vẫn còn ở trình độ giản đơn, không ít người chỉ
muốn đi làm thuê, đi xuất khẩu lao động hoặc có tư tưởng đợi ai đó sai khiến ra
lệnh, thì đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta đang phải đối mặt
với quá nhiều thử thách.
Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế đã nêu lên những
quan điểm chỉ đạo như: “Đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá
trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố
mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới…”; “Chuyển mạnh quá
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo
dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”; “Đổi mới
hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình
độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục
và đào tạo”; “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào
tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để
phát triển đất nước”…
Đánh
giá về thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay, có thể thấy tồn tại những điểm
sau:
Một
là, mục tiêu GD (nhìn chung, các mục tiêu đó đều hướng tới việc đào
tạo người học thành người lao động, phát triển toàn diện, "đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"). Đây là những mục tiêu mang tính “khuôn mẫu”,
cơ bản và chung nhất cho nhiều nền GD, không chỉ của nước ta trước đây, đặc biệt
là trong điều kiện kinh tế - xã hội còn có những hạn chế.
Hai là, nội dung GD. Hầu hết giáo trình và sách giáo khoa của
chúng ta hiện nay đang được trình bày đầy đủ theo một hệ thống đóng. Mặt khác,
đa số nội dung trong giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta vẫn còn mang nặng tính hàn lâm, nặng lý thuyết,
nhẹ thực hành. Ấy là chưa kể đến sự lạc hậu, khép kín liên quan đến việc chậm đổi
mới, bổ sung theo thời gian…
Ba là, chủ thể - khách thể GD. Hầu hết các lớp học chính quy của
ta lâu nay dường như vẫn trung thành với hình thức lớp - bài. Thầy phải được
đào tạo chính ngạch, trò phải có đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định mới được
theo học và phải tham gia đầy đủ các buổi lên lớp.
Bốn là, phương pháp GD. Nền GD của chúng ta, từ phổ thông đến đại
học, lâu nay vẫn sử dụng phương pháp “thuyết trình” “đọc-chép” là chủ yếu; để nắm
được nội dung kiến thức, kỹ năng của bài học, cả thầy và trò đều đi theo một lộ
trình độc đạo, nhất thể hóa kết quả dạy học. Cách làm này có ảnh hưởng lớn tới
tính chủ thể, sáng tạo, hạn chế tính phát triển của cả người dạy lẫn người học.
Năm là, hình thức tổ chức GD, dạy học. số lượng các trường đạt
chuẩn quốc tế hoặc liên doanh với quốc tế còn rất ít, khiến quá trình giao lưu,
mở rộng học hỏi với các nước và cạnh tranh quốc tế còn hạn chế, thiếu tính đa dạng.
Hình thức giảng dạy ở mỗi bậc học, cấp học cụ thể vẫn còn hạn chế về tính phong
phú, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của người dạy và người học; các hình
thức ximina, nghiên cứu thực tế, chuyên đề, thí nghiệm, học theo nhóm - tổ… đa
số vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ; việc hướng dẫn người học tự nghiên cứu
bài học trước khi lên lớp phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy
học tích cực.
Sáu là, đánh giá kết quả GD. Việc đánh giá kết quả GD lâu này vẫn
là một trong những công việc của ngành GD. Xét ở nhiều khía cạnh thì điều này
phần nào còn hạn chế về tính khách quan trong quá trình nhận định, đánh giá.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới giáo dục như thế nào?
Gần đây McDonald công bố sẽ xây thêm 25.000 nhà hàng mới, hoạt động hầu như
bằng robots và tự động hóa nên có thể cắt giảm hàng trăm ngàn người lao động.
Hay mới đây thông tin Foxconn Technology Group, công ty cung cấp linh kiện cho
hãng Apple và Samsung, cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng
robots.
Do áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0, khi đó nhiều lĩnh vực công nghiệp được
tự động hóa thay thế con người và các yêu cầu về kỹ năng của người lao động sẽ
cao. Khi đó nếu người lao động không nâng cao năng lực, kỹ năng để thích ứng
nhanh với sự thay đổi của sản xuất thì bị loại khỏi thị trường lao động.
Phân tích về tính cấp bách và quan trọng của vấn đề này, TS. Nguyễn Đắc
Hưng (Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo,
Dạy nghề - Ban Tuyên giáo Trung ương) cho rằng, muốn hòa nhập vào cuộc CMCN
4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt
là nguồn nhân lực. Chúng ta cần cải cách hệ thống GD, đào tạo để tạo ra
công dân toàn cầu. Do đó, nền GD Việt Nam nói chung và các trường đại học, nơi
cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực, lao động sẽ phải đào tạo theo chuẩn GD 4.0
theo hướng bảo đảm khối kiến thức nền tảng vững chắc cho học sinh.
Vậy mường tượng như thế nào về ngành giáo dục
trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0?
Ngành giáo dục trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, học sinh tiểu học sẽ không
còn phải nghỉ học vì trời quá lạnh, quá nắng hay do bị đau chân không đến lớp
được? Công nghệ thực tế ảo sẽ tái hiện toàn bộ không gian của lớp học một cách
hoàn toàn sống động và rất thực tế và bé chẳng bỏ lỡ bất kì buổi học nào.
Việc điểm danh tại lớp cũng có thể sử dụng công nghệ thực tế ảo, thầy giáo
có thể dạy từ Anh với học trò đến từ khắp các châu lục và vẫn có thể tương tác
với nhau như đang ngồi trong cùng một nơi, khoảng cách về địa lý, không gian và
thời gian đã bị xóa nhòa.
Công nghệ giúp giờ học sống động và hấp dẫn hơn bằng những đoạn phim tái hiện
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, từ trực quan sinh động sẽ dẫn đến
tư duy trừu tượng và rất khó bị quên bài. Điều này vừa đòi hỏi tính tự học của
học trò, vừa đòi hỏi các thầy cô giáo tương lai phải nỗ lực áp dụng công nghệ để
các giờ học trở nên hấp dẫn.
Từ đầu thế kỷ 21, các tập đoàn công nghệ lớn như Google, Apple đã cho ra đời
những thiết bị và phần mềm thông minh phục vụ cho đào tạo, những thiết bị này
giúp phát triển tư duy và kích thích sự sáng tạo của người học.
Việc học không còn đơn thuần triển khai trên giấy bút, giờ đây đã có thể thực
hiện hoàn toàn trên các thiết bị điện tử. Một trong những đột phá về khoa học
công nghệ đó là sự ra đời và phát triển của các thiết bị thông minh như
smartphone, SmartTV, con người được tận hưởng những tiện ích của kỷ nguyên
Internet vừa góp phần thỏa mãn nhu cầu giải trí vừa giúp tăng năng suất xử lý
công việc.
Giáo viên tương lai sẽ phải dạy trẻ tự học, tự
tiến bộ, tự tư duy. Điều đáng nói, phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp,
mà là giá trị mỗi người tạo ra cho xã hội. Sự cạnh tranh sẽ không còn từ quốc
gia này với quốc gia nọ, mà các công dân trên toàn cầu thi đua mọi nơi mọi lúc.
Chúng ta không phải chỉ cần đào tạo ra những cán bộ kế toán, cán bộ tài chính –
ngân hàng, kỹ sư xây dựng… mà phải hướng tới việc đào tạo toàn diện, cung cấp
cho xã hội đội ngũ công dân toàn cầu. Người lao động phải có những kỹ năng cần
thiết nhằm tạo ra càng nhiều giá trị, tiết kiệm càng nhiều vốn, nguồn lực cho
thế giới thì phần thưởng nhận được sẽ
càng lớn. Bên cạnh đó, việc cộng tác và làm việc nhóm trở thành yêu cầu bắt buộc
khi chúng ta tham gia càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đòi hỏi một
phong cách làm việc kỹ lưỡng, chuyên nghiệp, cẩn mật, có óc tổ chức, tư duy
thương thảo mỗi lúc, khả năng truyền thông tuyệt vời trong nhiều ngoại ngữ, khả
năng giải quyết mâu thuẫn, thậm chí xung đột từ xa… Sẽ không có chỗ cho việc
làm tạm bợ, không hiểu hoặc không tôn trọng luật pháp tại nhiều quốc gia; sẽ
đòi hỏi một phông văn hóa cao để dễ tìm nguồn thông cảm giữa các chủng tộc, đạo
giáo. Đồng thời, hàng trăm ngàn tấm bằng tiến sĩ, thạc sĩ sẽ nằm yên trong tủ,
không còn là tấm hộ chiếu cho bất kỳ một chức vị nào.
Để bắt kịp kỷ nguyên cách mạng công nghiệp
4.0, Giáo dục Việt Nam cần phải làm gì?
Ngành giáo dục Việt Nam hiện nay mới đang dừng lại ở mức độ "tìm hiểu"
và "truyền tai nhau" về cách mạng công nghiệp 4.0 mà chưa có hành động
hay chiến lược cụ thể nào cho tiến trình công nghệ hóa giáo dục sắp tới.
Nếu giáo dục Việt Nam không kịp thời và nhanh chóng có những cải cách căn bản,
toàn bộ lao động chúng ta đào tạo ra sẽ trở nên lỗi thời, không có khả năng bắt
kịp sự phát triển vũ bão của nền sản xuất – thương mại – dịch vụ của thế giới.
Các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Oxford đã lượng hóa tác động của đổi mới
công nghệ với tình trạng thất nghiệp bằng cách xếp hạng 702 ngành nghề khác
nhau bị nguy cơ tự động hóa đe dọa từ ít nhất đến nhiều nhất, đây là một tham
khảo quý giá cho các nhà làm chính sách và chuyên gia ngành giáo dục. Theo đó:
- Những ngành có khả năng tự động hóa nhất gồm: điện thoại viên, người khai
thuế, các viên chức trong lĩnh vực thể thao, thư ký và trợ lý hành chính, tiếp
viên hàng không, nhà hàng và quán cà phê, môi giới bất động sản, nhà thầu lao động,
người đưa thư.
- Những ngành nghề ít khả năng tự động hóa gồm: nhân viên xã hội và chăm
sóc bệnh nhân, thầy thuốc và bác sĩ phẫu thuật, nhà tâm lý học, quản lý nhân sự,
phân tích hệ thống máy tính, biên đạo múa, nhân chủng học, khảo cổ học, kiến
trúc sư, quản lý bán hàng, giám đốc điều hành.
Danh sách này rất dài và có ích để tham khảo, cho thấy trong điều kiện của
cách mạng công nghiệp 4.0 thì khả năng dự đoán xu hướng việc làm và nhu cầu kiến
thức là vô cùng quan trọng, đó cũng là bài toán đặt ra cho hệ thống giáo dục của
bất cứ nước nào, nhất là các nước đang đi tìm một mô hình phát triển phù hợp với
hoàn cảnh như chúng ta.
Giải pháp để nâng cao chất lượng nhân lực của Việt Nam chính là phải thay đổi
tư duy quá trình dạy và học trong các nhà trường
Theo TS. Nguyễn Đắc Hưng, chúng ta cần định vị một cách cụ thể cách thức,
phương pháp của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, sự
thay đổi về quan niệm, tư duy của quá trình dạy và học là một trong những yếu tố
then chốt để tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện nền GD nói chung và đổi mới
theo hướng GD 4.0 nói riêng.
Đối với quá trình dạy, cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành
phẩm chất và phát triển năng lực người học hay là tổ chức một nền giáo dục mở,
thực học, thực nghiệp; chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số
lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng
GD nhân cách nói chung sang kết hợp GD nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm
năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm
kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực.
Còn với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực
vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học chỉ
trong sách vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò
chơi, liên hệ tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án. Đặc biệt, với học
sinh, sinh viên là người lao động trong tương lai cần thay đổi suy nghĩ học một
lần cho cả đời bằng việc học cả đời để làm việc cả đời.
Như vậy, nền GD cần chuyển đổi cách thức GD từ truyền thụ kiến thức sang
phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Trên cơ sở đó chương trình GD phổ
thông mới cần xác định các chuẩn năng lực chung và năng lực chuyên môn; các
hình thức tích hợp hoặc phân hóa trong chương trình dạy học tùy theo cấp học.
Tức là phương pháp GD cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc tổ
chức GD qua Internet. Qua đó, hình thức GD sẽ linh hoạt về thời gian, không
gian, phù hợp với điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển E-learning hay sử dụng
ứng dụng công nghệ điện toán đám mây cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu
học tập cho người học và thu thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía
người học một cách liên tục và linh hoạt.
Đối với lĩnh vực GD đại học, nơi đào tạo trực tiếp nguồn nhân lực cho cuộc
CMCN 4.0 thì cần phải nhanh chóng đổi mới mô hình, chương trình và phương thức
đào tạo, từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng, nhất là
đánh giá sinh viên tốt nghiệp.
Giáo dục phổ thông thời đại 4.0 cần tìm cách
để phát triển những con người tự do biết cách sử dụng trí tuệ của mình và có thể
độc lập suy nghĩ. Mục đích hàng đầu của nó không phải là phát triển khả năng
chuyên môn, mặc dù nó là không thể thiếu được đối với bất kỳ một nghề chuyên
môn về đầu óc nào...
Vấn đề giáo dục là làm thế nào để sản sinh ra
những con người tự do, chứ không phải những nhà kỹ thuật được đào tạo mà không
có tri thức. Và giáo dục hiện đại phải loại trừ việc chỉ đơn thuần đào tạo kỹ
thuật và ngành nghề.
6. Cách mạng 4.0 ảnh hưởng tới giáo viên
trong nhà trường :
Các hiệu ứng cơ bản của môi trường số hóa đối với quá trình dạy-học:
- Cải tiến chất lượng làm việc của trò và thực hành thông
qua nghe nhìn;
- Cải tiến kỹ năng viết tay và ngôn ngữ qua xử lý từ ngữ;
- Thúc đẩy tốc độ riêng để nâng cao năng lực học cá nhân
khi sinh viên có thể theo kịp tiến độ và học tăng cường phù hợp với nhu cầu của
họ.
- Giúp học hợp tác với chỉ dẫn đôi chút cho đối tượng
người học cá biệt;
- Khuyến khích kèm cặp và kiểm tra theo cặp đôi đồng
nghiệp;
- Phát triển kỹ năng giao tiếp và nhận thức của đối
tượng nghe;
- Tác động đến việc học dựa vào nguồn lực truy cập thông
tin qua trang Website;
- Tăng cường thông tin liên tục, bổ sung chuẩn xác
vào độ xác thực của nhiệm vụ học tập và thông tin nâng cao;
- Gia tăng động cơ người học qua hoạt động thực tế, nghe
nhìn trực quan và cải tiến lối trình bày diễn đạt;
- Thúc đẩy học độc lập và những ưa thích cá nhân để xử
lý, phác thảo, cách thiết kế bài giảng;
1 nhận xét:
công nghệ sẽ làm hiệu quả hơn trong vấn đề học.
Van góc cứu hỏa
van góc khí điều khiển
Van điện từ mini
Van điện từ dùng cho hơi nước
Van điện từ dùng cho hơi
van điện từ
Đăng nhận xét