Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Lịch sử vũ trang nhân dân huyện Hương Khê (1945-2012)



Lời giới thiệu

Huyện miền núi Hương Khê nằm ở phía tây nam của tỉnh Hà Tĩnh, tiếp giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về phía tây. Là quê hương của khí thiêng sông núi, nơi có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước hết sức vẻ vang. Với cấu trúc địa hình và vị trí địa lý, Hương Khê trở thành một địa bàn quân sự trọng yếu của vùng đất Khu 4. Trải qua 145 năm (1867 - 2012) được thành lập, thì Hương Khê đã có tới 108 năm cùng cả nước phải đương đầu với giặc ngoại xâm Pháp và Mỹ, 15 năm với chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc.
So với nhiều huyện khác của tỉnh Hà Tĩnh thì Hương Khê là một huyện trẻ, nhưng vùng đất này thì đã có từ thời xa xưa, từ thời Hùng Vương dựng nước, là cái nôi văn hóa lâu đời, là một bộ phận của Cửu Chân bộ nước ta. Mảnh đất đã từng nuôi dưỡng các dân tộc anh em cùng sinh sống. Trải qua lịch sử dựng nước và giữ nước, với truyền thống bất khuất kiên cường, nhân dân Hương Khê không chịu áp bức bóc lột, đã đứng lên đoàn kết một lòng quyết tâm chiến đấu giữ yên làng xóm. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, tinh thần chiến đấu, truyền thống lịch sử hào hùng của địa phương lại được phát huy cao độ. Đảng bộ, quân và dân Hương Khê vượt lên mọi khó khăn thử thách, ra sức đóng góp sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến. Người dân Hương Khê mãi mãi tự hào với một Sơn Phòng lừng lững như một thủ đô kháng chiến của Vua Hàm Nghi, với Vụ Quang căn cứ địa của Phan Đình Phùng, với cuộc biểu tình rầm rộ tại Rôộc Cồn trong những năm 1930 - 1931 và với ATK (an toàn khu) Hà Tĩnh… mà đã có nhiều nhà thơ từng ngợi ca:
“Sơn Phong, Hàm Nghi còn ngời dũng khí
Rôộc Cồn xưa vọng đến mai sau”;
“Vụ Quang thủy trận khe chôn giặc
Thành cũ Sơn Phòng đất chống Tây”
Thực hiện Nghị quyết số 10 năm 1999 của Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương, Nghị quyết của Đảng ủy Quân khu 4 và chỉ thị của Thường vụ Đảng ủy quân sự tỉnh Hà Tĩnh về “Đẩy mạnh nghiên cứu, phát huy vai trò của khoa học lịch sử quân sự trong thời kỳ mới”. Đồng thời thể theo nguyện vọng của các thế hệ cán bộ, chiến sỹ đã từng chiến đấu, công tác trong lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê. Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê quyết định tổ chức biên soạn cuốn “Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê (1945 - 2010)”, với mong muốn ghi nhận, tôn vinh sự đóng góp, hy sinh của quân và dân Hương Khê trong 65 năm qua. Cuốn lịch sử được tổ chức biên soạn với sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ lão thành cách mạng trong huyện, của nhiều cán bộ lãnh đạo tỉnh, huyện và nhân dân địa phương. Việc sưu tầm tài liệu và tổ chức biên soạn đã có nhiều cố gắng, song do sự biến đổi của thời gian, diễn biến sự kiện con người cụ thể việc lưu giữ tài liệu gặp không ít khó khăn, nên cuốn lịch sử không tránh khỏi thiếu sót.
Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hương Khê xin trân trọng giới thiệu cuốn lịch sử “Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê (1945 - 2010)” với toàn thể cán bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân huyện nhà cùng đông đảo bạn đọc cả nước.

                                                                      Hà Văn Hùng
                                                              Bí thư Huyện ủy,
                                                                     Bí thư Đảng ủy quân sự huyện.



  
Chương một
Vị trí địa lý, truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng trước năm 1945.
1. Vị trí địa lý
Hương Khê là một huyện miền núi ở phía tây nam tỉnh Hà Tĩnh, tiếp giáp với tỉnh Khăm Muộn nước bạn Lào anh em, có đường biên giới chung dài 80,5km. Hương Khê được định vị từ 18010' Vĩ độ Bắc đến 105042' Kinh độ Đông. Phía đông giáp huyện Thạch Hà và huyện Can Lộc; phía tây giáp tỉnh Khăm Muôn (Lào) ngăn cách bởi núi Giăng Màn thuộc dãy Trường Sơn; phía nam giáp huyện Tuyên Hóa (tỉnh Quảng Bình); phía đông nam giáp huyện Cẩm Xuyên; phía bắc giáp huyện Hương Sơn và huyện Đức Thọ.
Địa hình huyện Hương Khê rất đa dạng và phong phú, toàn huyện nằm gọn trong một thung lũng hình lòng máng của hai dãy núi Trường Sơn và Trà Sơn, gồm nhiều đồi núi nhấp nhô lượn sóng. Sau khi cắt 5 xã vùng hạ huyện về thành lập huyện mới Vụ Quang thì thung lũng Hương Khê co lại thành hình bầu dục. Hương Khê tựa vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, cả đông và tây Trường Sơn đều là một vùng núi non trùng điệp rộng lớn, là nơi có thể làm căn cứ địa cho những cuộc kháng chiến lâu dài. Chính vì vậy mà vào cuối thế kỷ XIX, Hương Khê đã có hai căn cứ chống Pháp lớn nhất nhì trong cả nước: Căn cứ của Vua Hàm Nghi ở Phú Gia và căn cứ của Phan Đình Phùng ở Vụ Quang.
Vùng Hương Khê thời xa xưa thuộc bộ Việt Thường. Đầu Công nguyên thuộc nhà Ngô gọi là Nam Lăng, đời Lý gọi là Đỗ Gia. Thời thuộc Minh gọi là Thổ Hoàng (gồm cả Hương Sơn, rồi tổng Thổ Hoàng thuộc huyện Hương Sơn. Đến thời Tây Sơn là phủ Ngọc Ma, năm Minh Mạng thứ 9 (1828) phủ Ngọc Ma được đổi thành phủ Trấn Định, sau đó lại đổi thành châu Quy Hợp rồi trấn Quy Hợp, thuộc huyện Hương Sơn. Năm 1831, vùng Hương Khê là phủ Thổ Hoàng của huyện Hương Sơn. Đến năm 1867, dưới đời Tự Đức thứ 21, một số tổng của huyện Hương Sơn gồm: Quy Hợp, Chu Lễ, Phương Điền, Phú Lộc, Hương Khê được cắt ra để thành lập huyện Hương Khê. Tên huyện Hương Khê có từ đây. (Theo sách Đại Nam thực lục, chính biên thì đó là vào tháng 10 năm Đinh Mão, tức là khoảng tháng 11 năm 1867, Vua Tự Đức đồng ý cho việc thành lập huyện Hương Khê. Còn việc thực thi đó như thế nào thì hiện nay chúng ta chưa khảo cứu được).
Diện tích tự nhiên của Hương Khê có 158.069 ha, trong đó rừng núi chiếm 124.350 ha, đồi trọc chiếm 17.956 ha. Sau khi tách 5 xã: Quang, Minh, Điền, Đại, Thọ về huyện Vụ Quang năm 2000, thì tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Hương Khê còn lại là 1.299,12km2. Hương Khê hiện vẫn là một huyện có diện tích rộng nhất tỉnh Hà Tĩnh.
Hệ thống sông ngòi, khe suối ở Hương Khê có độ dốc cao, nên hàng năm về mùa mưa thường gây lũ lụt nghiêm trọng. Con sông dài nhất của huyện là con sông Ngàn Sâu, dài gần 100km, sông được bắt nguồn từ sườn đông dãy Giăng Màn (Trường Sơn), chảy từ phía tây nam ra đông bắc của huyện, sau đó chảy dọc huyện xuống Đức Thọ nhập với sông Ngàn Phố từ Hương Sơn về tại Ngã ba Linh Cảm thành sông La, rồi đổ ra sông Lam, ra biển Nghi Xuân, Cửa Hội. Sông Ngàn Sâu có nhiều chi lưu như sông Tiêm, sông Ngàn Trươi, Rào Hào, Rào Nổ, Hói Lung, Khe Đá Hàn, Khe Cây Trồi…
Sông Tiêm dài 40km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn phía tây xã Hương Vĩnh, là một trong những nhánh thượng lưu của sông Ngàn Sâu. Còn Rào Hào, Rào Nổ bắt nguồn từ sườn đông dãy Trường Sơn ở phía tây xã Hương Hải và xã Hương Hòa, là chi nhánh trung lưu của sông Ngàn Sâu, hợp điểm với sông Ngàn Sâu tại chợ trúc (xã Hương Thanh). Sông Ngàn Trươi là chi nhánh hạ lưu của sông Ngàn Sâu, bắt nguồn từ rừng Vụ Quang, chảy qua các xã Hương Điền, Hương Đại, Hương Minh, Hương Thọ (huyện Vụ Quang), hợp điểm với sông Ngàn Sâu tại Hương Thọ xuống huyện Đức Thọ. Hệ thống sông ngòi, khe suối Hương Khê không nhiều lắm song nó đã tạo thành một mạng lưới tưới tiêu và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong huyện. Thượng nguồn các sông, suối có thể xây dựng các đập nước và các trạm thủy điện vừa và nhỏ. Đồng thời cũng tạo nên mạng lưới giao thông đường thủy khá thuận lợi cho phát triển kinh tế và đặc biệt nhất là phục vụ quốc phòng. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ (1965 - 1972), sông Ngàn Sâu đã trở thành tuyến trung chuyển hàng bằng Sà lan và Ca nô chi viện cho chiến trường miền Nam, từ Bắc vào Vinh, sau đó được phân chia nhiều nhánh (cả đường Bộ và đường Thủy) vào Quảng Bình... tuy nhiên sông, suối Hương Khê có độ dốc cao, nên hàng năm về mùa mưa thường gây lũ lụt làm thiệt hại mùa màng và đời sống của nhân dân. ý thức được điều nguy hại này, nên các xã hạ huyện Phương Điền, Phương Mỹ, Hà Linh… cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương đều có các phương án phòng chống lũ, mỗi gia đình đều có thuyền gỗ hoặc bè mỏng…
Bên cạnh tuyến giao thông đường thủy, Hương Khê có các tuyến đường bộ tương đối phát triển, trước hết là đường ô tô (tỉnh lộ 3) từ thành phố Hà Tĩnh đến Ngã ba Khe Giao gặp đường 15 lên Truông Bát, Địa Lợi, cắt đường sắt ở Hương Châu nối với đường Hồ Chí Minh ở Phúc Đồng. Tỉnh lộ 14 (Địa Lợi đến Hương Long); Tỉnh lộ 15 (Hương Long đến Phúc Đồng); Tỉnh lộ 17 (Địa Lợi đến Phương Mỹ); Tỉnh lộ 22 (Lộc Yên đến Chúc A). Trong đó, quốc lộ 15 qua Hà Tĩnh, qua huyện Hương Khê là một trong những tuyến đường hết sức quan trọng. Điểm đầu ở Ngã ba Phúc Đồng - Đức Thọ - Hà Tĩnh. Điểm cuối La Khê - Hương Khê - Hà Tĩnh. Chiều dài tuyến đường 92km đi qua địa phận Hà Tĩnh (trong đó có 9km chung đường Hồ Chí Minh và 5km chung quốc lộ 8) với đặc điểm địa hình: Từ km 335 (Ngã ba Phúc Đồng) đến km 386 (Ngã ba Khiêm ích) dài 31km đường bằng phẳng, hai bên đường là ruộng lúa và hoa màu, dân cư đông đúc. Từ km 386 (Khiêm ích) đến km 447 (La Khê) dài 61km, đường đi qua thị trấn Hương Khê, địa hình trung du có nhiều dốc, dân cư hai bên đường thưa thớt. Năng lực thông qua toàn tuyến 150 xe/ngày đêm. Tổng trọng tải lớn nhất được phép qua tuyến 17 tấn/xe; 5 tấn/trục. Từ các tuyến đường ô tô chính này có nhiều đường nhỏ về các vùng, các xã trong huyện… tất cả tạo thành một mạng lưới giao thông khá thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Tuyến đường sắt đi qua huyện Hương Khê dài 50km chạy dọc huyện, tính từ phía bắc vào qua ga Phương Mộ, Thanh Luyện, Chu Lễ, Hương Phố, Phúc Trạch và La Khê là ga cuối tiếp giáp với Tuyên Hóa (Quảng Bình). Tuyến đường sắt xuyên Việt đi qua địa phận Hương Khê tạo nên mối giao lưu mọi mặt với cả nước, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chính trị và xã hội…
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng do địa thế cao, nên vùng khí hậu gió mùa ở Hương Khê rất rõ nét. Gió đông bắc kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau thường mang theo mưa rét, nhiệt độ thấp nhất có năm dưới 100C. Từ tháng 4 đến tháng 8 có gió Tây Nam (thường gọi là gió Lào), gió Lào là một trong những nhân tố tạo nên sự khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết ở Hương Khê, nhiệt độ có ngày lên tới 410C đến 420C. Như vậy, khí hậu của Hương Khê có 4 mùa rõ rệt, trong đó mùa xuân thường có gió rét, mưa phùn; mùa hè nóng oi bức, có gió Lào; mùa thu hay bị bão, lũ; mùa đông khô hanh. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.500mm, cao nhất là tháng 9 và tháng 10.
Về địa chất thổ nhưỡng Hương Khê có thể chia thành hai nhóm: Nhóm đất đồng bằng, thung lũng và nhóm đất đồi núi. Trong đó nhóm đất đồi núi chiếm phần lớn diện tích. Nhóm đất đồng bằng và thung lũng thường nghèo chất dinh dưỡng, thiếu nước nên về mùa hạn đất khô. Lớp đất màu bề mặt thường rất mỏng… nhìn chung đất đai của Hương Khê có rất nhiều loại, thích hợp với các loại cây trồng khác nhau, các loại rau màu; cây ăn quả như bưởi, cam, cau, mít đặc biệt là bưởi Phúc Trạch ngon nổi tiếng có giá trị xuất khẩu cao; cây lưu niên; cây công nghiệp.
Hương Khê là huyện có nhiều lâm, thổ sản quý; nhiều gỗ, tre, nứa, song mây. Rừng có nhiều loại gỗ quý, có giá trị sử dụng cao như lim, táu, kền kền, dổi, vày tâm, pơ mu… và nhiều loại động vật quý hiếm như sao la, hổ, gấu, hươu, chim công… Hương Khê cũng có nhiều loại khoáng sản quý như sắt ở địa phận Chu Lễ, Hương Minh; mỏ than ở Động Đỏ (Hà Linh), mỏ Cao Lanh ở Hương Châu (Phúc Đồng), mỏ phốt phát ở Phú Lễ (Hương Trạch) và nhất là mỏ đá vôi kéo dài từ trung huyện đến thượng huyện, nhất là vùng La Khê, Hương Trạch có trữ lượng lớn nhất của tỉnh Hà Tĩnh. Đây là nguồn tài nguyên rất quý, là cơ sở cho việc phát triển công nghiệp trong tương lai của địa phương.
Về tổ chức hành chính: Thời kỳ Pháp thuộc, Hương Khê có huyện lỵ Chu Lễ và nhiều tổng, mỗi tổng có nhiều làng. Đến đầu thế kỷ XX, Hương Khê có tổ chức hành chính gồm 5 tổng: Phúc lộc, Chu Lễ, Quy Hợp, Phương Điền, Hương Khê. Thời kỳ 1930 - 1945, Hương Khê có 3 tổng: Xuân Khánh (vùng thượng huyện), Hà Nam (vùng trung huyện), Trại La (vùng hạ huyện), tất cả gồm 42 xã. Mỗi tổng có một chánh tổng, một phó tổng. Mỗi xã có một lý trưởng, phó lý và ngũ hương. Đây là bộ máy chính quyền phong kiến ở hương thôn. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng đã bỏ cấp tổng, nhập các làng xã nhỏ thành các xã lớn. Toàn huyện lập thành 15 xã lớn và thị trấn Chu Lễ. Năm 1949, Hương Khê sắp xếp lại phạm vi hành chính các làng xã theo hướng tinh giảm cấp huyện, tăng cường cấp xã, toàn huyện có 11 xã. Đến thời kỳ 1954 - 1972, Hương Khê lại phát triển gồm 37 xã và thị trấn Chu Lễ. Sau đó thời kỳ 1972 - 1976, nhiều xã nhỏ lại được sáp nhập thành xã lớn để phù hợp với công cuộc sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Huyện lỵ được chuyển từ Chu Lễ lên vùng giáp giới giữa Hương Phong và Gia Phố. Từ tháng 8 năm 2000, theo quyết định của Chính phủ, 5 xã vùng hạ huyện Hương Khê: Hương Điền, Hương Đại, Hương Quang, Hương Minh, Hương Thọ được tách ra nhập với 6 xã (huyện Đức Thọ) và 1 xã của huyện Hương Sơn thành lập huyện mới Vụ Quang. Hương Khê từ tháng 9 năm 2000 trở đi còn 22 xã và 2 thị trấn (Hương Khê và Nông trường 20-4).
2. Truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng
Với đặc điểm là một huyện miền núi ở nơi thung lũng được bao bọc bởi vùng rừng rậm đại ngàn, nên trước kia dân cư ở Hương Khê rất thưa thớt, lúc mới thành lập huyện có khoảng 5.000 người, đến năm 1929 cũng mới chỉ có 3 vạn người. Làng mạc, trại ấp của cư dân thường ở dọc các thung lũng nhỏ hẹp, bên bờ các sông suối và giữa rừng đại ngàn, có nơi ở cách xa nhau hàng chục cây số. Theo sử sách còn ghi lại thì gốc gác nhân dân Hương Khê thường là nông dân các địa phương khác vì bị áp bức bóc lột, vì chiến tranh, đói khổ chạy nạn lên kiếm cớ sinh nhai, khai cơ lập nghiệp. Trong các thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (đầu thế kỷ XIX) thì những xứ Quy Hợp, Trấn Ninh và Trấn Tĩnh rất hoang vu, lính thú đóng giữ ở đây được xem như đi làm nhiệm vụ đặc biệt, cứ sau hai tháng thì cho đổi chỗ khác. Tuy vậy, có nhiều người trong số đó đã xây cơ lập nghiệp, sống gắn bó với vùng đất Ngàn Sâu và trở thành cư dân bản địa. Có thể nói rằng, thành phần cư dân Hương Khê rất phong phú, chủ yếu là dân tứ chiếng, dân góp từ các nơi, các nguồn, từ trong và ngoài tỉnh, kể cả người Lào và người Xiêm, chủ yếu là người Kinh.
Hương Khê là huyện duy nhất của tỉnh Hà Tĩnh có dân tộc thiếu số cùng cư trú, sinh sống với dân tộc Kinh. Đồng bào dân tộc thiểu số ở Hương Khê có dân tộc Chứt (còn gọi là Mã Liềng), dân tộc Lào, dân tộc Mường (còn gọi là người Nguồn) chiếm khoảng 0,9% dân số toàn huyện. Hầu hết các dân tộc đều giữ được bản sắc văn hóa riêng, tuy có bị mai một, bị lãng quên nhiều, song một số tập tục ma chay, cưới xin, sắc phục, lễ hội đặc trưng vẫn được duy trì. Dân tộc Kinh chiếm đại đa số, phân bố khá đều trong toàn huyện. Về tôn giáo, tín ngưỡng, từ lâu đời tư tưởng Nho giáo, Khổng giáo, Phật giáo đã được hình thành. Đến thời Pháp thuộc, Thiên Chúa giáo được truyền bá mạnh vào Hương Khê. Từ năm 1930, rải rác trong huyện có 13 xứ 62 họ đạo Thiên Chúa, chiếm 27% dân số toàn huyện.
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhân dân Hương Khê đã có những đóng góp đáng kể. Từ xa xưa cho đến thời Đinh, Lý, Trần, Lê, vùng đất “Trại” (Nghệ An) được coi là phên dậu thứ ba ở phương nam của Quốc gia. Là điểm đầu của các cuộc tấn công từ tây nam, hoặc là điểm cuối, điểm dừng chân của các cuộc tấn công từ phương bắc. Bởi vậy nơi đây thường phải đương đầu với quân giặc theo các hướng từ Bắc vào Nam hoặc ngược lại. Từ quân Nguyên Mông đến quân Minh, quân Chiêm Thành, Chiêm Lạp, Xiêm La… Từ thế kỷ XV trở đi, ý nghĩa phên dậu phương nam ấy không còn nữa, nhưng tính chất phên dậu phía tây của Tổ quốc thì vẫn rất rõ nét. Là huyện có đường biên giới tiếp giáp với một tỉnh của bạn Lào dài 80km, trong cuộc kháng chiến chống Pháp là căn cứ sản xuất, sửa chữa vũ khí của Liên khu 4. Trong kháng chiến chống Mỹ là một trong những hậu cứ tập kết hàng hóa, vũ khí từ Bắc vào để chi viện cho miền Nam. Cả đông và tây Trường Sơn tạo thành một vùng rộng lớn, núi non trùng điệp có thể làm căn cứ địa cho cuộc kháng chiến lâu dài của tỉnh Hà Tĩnh và cả nước.
Lịch sử còn ghi lại Hương Khê là địa bàn quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo. Nhân dân Hương Khê đã đóng góp sức người, sức của tham gia cùng nghĩa quân Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh (1416 - 1427). Núi Vũ Kỳ (sau còn gọi là núi Phù Lê), nay là núi Phú Lễ ở xã Hương Trạch là nơi đã xây dựng một kho lương thực lớn do nhân dân Hương Khê đóng góp nuôi nghĩa quân Lê Lợi. Trong thời kỳ khởi nghĩa Tây Sơn, khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh (1789), nhân dân Hương Khê cùng với nhân dân cả tỉnh hết lòng giúp nghĩa quân cả người và của cải. Ngoài ra, Hương Khê còn là địa bàn làm bàn đạp cho đội quân Quang Trung khi tiến sang đất Lào đánh quân Xiêm.
Nhiều địa danh ở Hương Khê một thời phò Vua đánh giặc còn được nhắc mãi cho đến ngày nay: Bến sông Chợ Trúc, Chợ Sòng… là những nơi đón tiếp chiến thuyền quân Quang Trung từ Đức Thọ lên. Đồn Quy Hợp (Hương Vĩnh) là nơi thực hiện sự bang giao giữa quốc gia Đại Việt với Ai Lao và Xiêm thời kỳ này. Làng Vạn Gia (Gia phố) là trạm đón tiếp đội quân của Quang Trung. Tại đây, đền thờ Quang Trung trên nền đất mà trước đây nghĩa quân đứng chân có tượng các tướng lĩnh và voi, ngựa tạc bằng gỗ mít, dân địa phương quen gọi là đền Voi Ngựa.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, Hương Khê đã trở thành một địa bàn chống Pháp quan trọng bậc nhất trong cả nước. Có thể nói, vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết là bộ phận tinh hoa của triều đình Nhà Nguyễn còn có ý chí chống ngoại xâm. Sau khi lên ngôi, ngày 4 tháng 7 năm 1895, ông đã lên đường và chọn Hương Khê làm đại bản doanh để tiến hành chống Pháp lâu dài. Lũy Voi Dựa ở Đá Đen (La Khê) và thành Sơn Phong (Hương Phú) là những chứng tích lịch sử ghi nhận nơi vua Hàm Nghi dựng cờ chống Pháp trong những năm 1884 - 1885. Người dân sở tại Hương Khê đã đóng vai trò chủ yếu trong việc đào đắp hàng vạn mét khối tường thành (thành Sơn Phòng), đến việc xây dựng nhà trại, cầu đường… góp công, góp của để hưởng ứng phong trào Cần Vương. Vua Hàm Nghi đã ban tặng báu vật là hai con voi bằng vàng và ra chiếu phong thần cho đất Phú Gia để tạ ơn vùng đất đã phò vua cứu nước:
“Công phù đại địa trung hưng Thánh;
Danh trấn Nam thiên thượng đẳng thần”
Cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng (1885 - 1896) là một cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn trong phạm vi cả nước. Tháng 10 năm 1885, được tin vua Hàm Nghi ra tới Sơn Phòng, Phú Gia, ông đã lên yết kiến nhà Vua và được Vua Hàm Nghi giao nhiệm vụ trở về xây dựng lực lượng đẩy mạnh phong trào chống Pháp ở địa phương mình. Trong suốt 12 năm liền ông đã lấy vùng núi Vụ Quang làm căn cứ và xây dựng được 15 thứ quân (cánh quân) hùng mạnh, trong đó Khê Thứ (cánh quân Hương Khê) do Nguyễn Hữu Châu ở Thanh Luyện và Nguyễn Thoại chỉ huy là cánh quân số một. Nhiều sách giáo khoa gọi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng là khởi nghĩa Hương Khê, bởi vì cuộc khởi nghĩa ấy đã thu hút nhiều người dân Hương Khê tham gia đồng thời cuộc khởi nghĩa ấy lại nổ ra tại đất Hương Khê.
Tháng 8 năm 1892, khi địch mở trận càn lớn lên căn cứ Hói Trùng và Ngàn Sâu, quân dân Hương Khê dưới sự chỉ huy của tướng Cao Thắng đã đánh nhiều trận oanh liệt như trận ở đồn Tri Bản (chợ Nổ xã Hương Hòa), trận quyết tử ở Bãi Ma (xã Hương Thanh). Trận Hói Trùng ngày 13 tháng 8 năm 1892 là trận điển hình, khi giặc Pháp đưa một đội quân do tên Rô be chỉ huy lên càn quét, quân ta đã chặn đánh quyết liệt, diệt 16 tên, bắn bị thương 15 tên, Rô be phải bỏ chạy. Các cánh quân khác của địch thấy tình hình bất lợi, lại bị nghĩa quân bám đánh liên tục, nên cuối cùng chúng đã phải rút lui.
Có rất nhiều những nhân vật tham gia cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, tiêu biểu như ông Lê Võ ở Tri Bản (nay là Hòa Hải). Ông tham gia trong bộ máy kháng chiến của Phan Đình Phùng với chức “hầu” - chức quan phụ trách hành chính quản trị một vùng. Địa bàn hoạt động của ông Hầu Năm là vùng Trại Trá, Trại Cuồi, Trại Cột nằm ven sông Rào Nổ. Hồi đó vùng này là đồn trại, kho tàng, công xưởng đò máng của nghĩa quân. Sau khi Phan Đình Phùng mất (tháng 12 năm 1895), phong trào kháng chiến tan rã, giặc Pháp truy lùng ráo riết, nhưng vẫn hoạt động bí mật ở trong vùng đó. Người dân địa phương kể lại rằng khi thế cùng kiệt lực, vào giữa năm 1896 ông đã chọn một gò đất đẹp rồi rút gươm tự sát. Dân địa phương đã xây mộ và sau đó lập đền thờ ông ở Trại Cuồi gần Khe Cha Chả. Ông là một trong những nghĩa sỹ yêu nước nổi tiếng ở Hương Khê trong cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng.
Phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng tuy thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội, nhưng đã chứng minh tinh thần yêu nước, yêu quê hương của một bộ phận nho sỹ và đông đảo nhân dân Hương Khê dũng cảm đứng lên trực tiếp chiến đấu chống giặc ngoại xâm ngay tại mảnh đất của mình.
Đầu thế kỷ 20, cùng với các địa phương khác trong tỉnh, cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến ở Hương Khê có những chuyển biến mới. Năm 1908, hưởng ứng phong trào duy tân do cụ Phan Chu Trinh lãnh đạo, nhân dân Hương Khê đã có nhiều cuộc đấu tranh chống sưu thuế. Đến năm 1919, do Nguyễn Viết Lượng, giáo viên trường tiểu học Hương Khê cùng với đồng chí Nguyễn Hậu, giáo viên trường tiểu học Gia Phố đã tìm gặp cụ Tú Phương, một nhà Nho yêu nước ở Hà Linh cùng thống nhất quyết định lập ra tổ chức “Hội Bài Pháp”, chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, xây dựng một nhà nước dân chủ. Hội Bài Pháp ra đời đã thu hút được nhiều công chức, giáo viên, nhà Nho tiến bộ, xây dựng được tổ chức rộng rãi ở nhiều thôn xã trong huyện đứng lên đấu tranh chống hào lý hà hiếp, nhũng lạm trong các vụ sưu thuế, đòi bồi thường thiệt hại cho dân vùng ven tuyến đường sắt do mất đất đai, ruộng vườn, nhà cửa… Hoạt động của Hội Bài Pháp tuy được nhân dân hưởng ứng, có đưa lại một số quyền lợi cho nhân dân, song về cơ bản và lâu dài vẫn bế tắc về đường lối và phương hướng hoạt động. Năm 1921, do không liên lạc được với tổ chức cách mạng ở bên ngoài, một số giáo viên bị thuyên chuyển công tác, Hội gặp lúng túng nên đã tự giải tán.
Năm 1922, đồng chí Nguyễn Hậu, một trong những người lập ra hội Bài Pháp đã tìm gặp được một số người có tinh thần yêu nước, từng tham gia các phong trào Đông Du, Duy Tân, tổ chức ra nhóm cách mạng mới lấy tên “Việt nam độc lập Hội”, hay là nhóm Xuân Thu (bí danh của đồng chí Nguyễn Hậu). Hội hoạt động chưa được bao lâu thì đồng chí Nguyễn Hậu bị đổi đi dạy học ở Nghi Xuân, nên Việt Nam độc lập Hội cũng ngừng hoạt động. Hội Bài Pháp và Việt Nam độc lập Hội thực sự là những tổ chức yêu nước của Hương Khê, có nhiều cố gắng trong việc truyền bá các tư tưởng mới, gây được một số hoạt động tích cực trong quần chúng nhân dân của những năm 1919 - 1925.
Tháng 7 năm 1925, trước những chuyển biến mới của tình hình cách mạng trong nước, trong tỉnh, các sỹ phu yêu nước hết hạn tù ở Côn Đảo trở về như Lê Văn Huân (Đức Thọ), Nguyễn Đình Kiên (Hương Sơn) cùng một số thanh niên yêu nước Tôn Quang Phiệt, Trần Mộng Bạch, Ngô Đức Diễn… quyết định thành lập một tổ chức cách mạng lấy tên là Hội Phục Việt. Sau khi Hội Phục Việt của tỉnh được thành lập, bộ phận Hội Bài Pháp trước đây tự giải tán, nhưng một bộ phận vẫn do cụ Tú Phương cầm đầu hoạt động, được chuyển thành Chi hội Phục Việt Hương Khê. Năm 1926, Chi hội Phục Việt Hương Khê được Tỉnh hội Phục Việt Hà Tĩnh công nhận là một chi hội chính thức. Sau đó Hội được đổi thành Hội Hưng Nam và đến năm 1928 thành Tân Việt cách mạng Đảng, Chi hội Phục Việt (Hưng Nam) Hương Khê cũng được đổi thành Đại tổ Tân Việt Hương Khê (bí danh Đại tổ Ngọ), Đại tổ Ngọ có một số tổ chức cơ sở trong công nhân, phu lục lộ đường sắt, trong các đồn điền… có các đoàn thể học sinh, giáo chức, thanh niên, phụ nữ…
Phong trào yêu nước, cách mạng ở Hương Khê dưới sự lãnh đạo của Hội Phục Việt và Tân Việt cách mạng Đảng tiếp tục phát triển mạnh, đến tháng 4 năm 1927 thành lập thêm một tiểu tổ của Hội Phục Việt trường tiểu học Hương Khê gồm 8 hội viên, do đồng chí Lê Viết Lượng phụ trách chung. Các cuộc đấu tranh do các hội viên Hội Phục Việt, sau đó là do các đảng viên Đảng Tân Việt tổ chức vận động ở các trường học đã có ảnh hưởng tích cực đến các vùng nông thôn. Trong những năm 1927 - 1928, các tiểu tổ Tân Việt ở các thôn đã vận động nông dân đứng lên chống bọn hào lý, chức sắc hà hiếp, nhũng lạm trong các vụ sưu thuế. Công nhân các đồn điền, các công trường làm đường, làm đá cũng tích cực đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm…
Tháng 9 năm 1926, nhóm Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đầu tiên ở Hương Khê do đồng chí Nguyễn Hậu vận động được thành lập, gồm 15 hội viên, ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân ở huyện nhà. Việc tiếp thu được những chủ trương cách mạng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và sự ra đời của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu cho sự mở đầu để hình thành tổ chức Đảng cộng sản đầu tiên ở Hương Khê. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, tiếp đến cuối tháng 3 năm 1930, Đảng bộ lâm thời Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh được thành lập. Theo chủ trương chung của Đảng, Chi bộ Đông Dương cộng sản Đảng Hà Linh được chuyển thành Chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Hương Khê. Một thời gian ngắn sau đó Hương Khê phát triển thêm các chi bộ Trúc Lâm (Hương Thanh), Đông ấp (Hương Thu), Phúc ẩm (Hương Long), Đô Khê (Hương Đô)… Với sự xuất hiện của nhiều chi bộ đảng ở khắp các vùng trong huyện, Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam huyện Hương Khê hình thành trên thực tế với đầu mối liên lạc chỉ đạo chung là các chi bộ Hà Linh và Trúc Lâm, trực thuộc Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh.
Tuy chưa lập được Huyện ủy, nhưng về cơ bản, đến tháng 7 năm 1930 Đảng bộ huyện Hương Khê đã được hình thành với hơn 10 chi bộ và gần 100 đảng viên. Đảng bộ Hương Khê ra đời là bước ngoặt trọng đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Từ đây phong trào cách mạng ở Hương Khê bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới, cùng với cả nước tiếp tục đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Trong cao trào đấu tranh cách mạng 1930 - 1931, Đảng bộ chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân huyện nhà lên một bước mới cao hơn. Đi đôi với việc lãnh đạo nông dân đòi giảm tô, hoãn nợ, giảm bớt nợ lãi, xóa lễ lạt, nhiều chi bộ đã vận động nông dân đấu tranh giành ruộng đất công, tịch thu một số tiền, thóc gạo của những cường hào gian ác chia cho dân nghèo… Trước sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh, Hương Khê cũng như nhiều địa phương khác, địch tăng cường lực lượng đàn áp, chúng thẳng tay thực hiện cuộc khủng bố trắng đối với phong trào cách mạng của quần chúng có tham gia đấu tranh đều bị đàn áp, nhà cửa bị đốt phá… Đến cuối năm 1931, các chi bộ và cơ quan Huyện ủy đều bị địch phá vỡ, chỉ còn chi bộ Hà Linh còn một số cơ sở cách mạng, là chỗ dựa để Huyện ủy duy trì bộ máy hoạt động thêm một thời gian nữa.
Phong trào cách mạng ở Hương Khê cũng như cả nước đi vào thoái trào, nhưng thành quả của cao trào cách mạng 1930 - 1931 và sự ra đời hoạt động của các Xô Viết ở Hương Khê là hết sức to lớn, có ý nghĩa sâu sắc cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Sự ra đời của Đảng bộ huyện, sự hình thành cao trào cách mạng sục sôi suốt gần 2 năm liền do Đảng bộ lãnh đạo… đã cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong cuộc đấu tranh cách mạng sau này.
Phong trào cách mạng của nhân dân Hương Khê trong những năm 1934 - 1935 bắt đầu được hồi phục và hoạt động theo Chương trình hành động của Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng, nhất là trong đấu tranh chống sưu thuế, cải thiện đời sống nhân dân. Nhiều tấm gương sáng kiên trung bất khuất của đảng viên Đảng cộng sản Hương Khê như các đồng chí Trần Rạng, Hồ Sỹ Cung khi bị địch đưa ra xử bắn, vẫn hiên ngang tố cáo tội ác trước mắt quân thù, làm cho chúng phải khiếp sợ. Đồng chí Lê Nghi, tuy  bị địch cùm kẹp tra tấn, bị thối cả hai chân vẫn không khai báo một lời nào có hại cho Đảng, cho sự nghiệp của cách mạng… những tấm gương tiêu biểu này đã tác động mạnh mẽ đến quần chúng nhân dân tiếp tục giữ vững niềm tin vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Tháng 10 năm 1936, Tỉnh ủy Hà Tĩnh được lập lại. Tiếp đó, các Huyện ủy lâm thời Hương khê, Can Lộc, Nghi Xuân được khôi phục. Hưởng ứng cao trào đấu tranh mới là cuộc vận động dân chủ do Đảng ta lãnh đạo trong những năm 1936 - 1939, các hình thức của cao trào dân chủ ở Hương Khê cũng được phát triển. Ngoài các phường, hội đã có trước như hội lợp nhà, phường đưa ma, phường săn, phường cấy; địa phương còn có thêm các hội mới như hội bóng đá, hội ái hữu, hội học chữ quốc ngữ… đã giúp nhau trong lao động sản xuất, trong xây dựng cuộc sống, học tập…
Trước sự chuyển biến mới của tình hình quốc tế và trong nước, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 11 năm 1940) và Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 năm 1941) đã đề ra chủ trương mới, đưa khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” lên hàng đầu và tập trung mọi nỗ lực thực hiện khẩu hiệu này. Còn khẩu hiệu “Người cày có ruộng” tạm gác lại, chỉ thực hiện một phần là lấy ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho dân cày. Theo đó, Đảng chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh, ra sức xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, thành lập căn cứ địa để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chủ trương mới này của Đảng được chuyển về Hương Khê, làm cho phong trào cách mạng trong huyện bắt đầu có sự chuyển biến theo phương hướng chung, chú trọng vào mục tiêu giải phóng dân tộc.
Nhờ những hoạt động tích cực của các đồng chí Nguyễn Tuy và Thái Đình Hàn ở nhà tù Buôn Ma Thuột về, nên đến cuối tháng 4 năm 1945, chi bộ Trúc Lâm được lập lại gồm một số đảng viên của Trúc Lâm và Hà Linh. Tiếp đó chi bộ đã phân công các đảng viên về các xã tuyên truyền chủ trương của Việt Minh, vận động quần chúng tham gia phong trào Việt Minh, vào các đoàn thể cứu quốc, chống Nhật, cứu nước.
Sau Hội nghị thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh (ngày 20 tháng 5 năm 1945), đồng chí Nguyễn Tuy đã triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng mở rộng toàn huyện Hương Khê tại xã Trúc Lâm để bàn việc thống nhất lực lượng khôi phục Đảng bộ và kế hoạch đón thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị đã quyết nghị một số nội dung quan trọng gồm: Lập lại Đảng bộ, đồng thời xúc tiến để thành lập Mặt trận Việt Minh các xã, xúc tiến chuẩn bị các điều kiện, khẩn trương tập luyện vũ trang, xây dựng các đội tự vệ, sắm sửa vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Mở một đợt tuyên truyền sâu rộng chương trình hành động của Việt Minh, vạch trần sự xuyên tạc, mị dân của bọn tay sai Nhật, đưa một số đảng viên vào làm thủ lĩnh các tổ chức thanh niên Phan Anh… trên cơ sở tuyên truyền chương trình hành động của Việt Minh mà động viên nhân dân cùng giúp đỡ nhau giải quyết nạn đói. Nhờ những hoạt động tích cực của đảng viên, sau một thời gian ngắn, hầu hết các xã trong huyện đã có tổ chức Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Các tầng lớp nhân dân phấn khởi tham gia Việt Minh, các cuộc đấu tranh chống thu thuế bằng thóc, lạc, vừng của chính quyền bù nhìn thu được nhiều thắng lợi, đông đảo nhân dân trong huyện thêm tin tưởng Việt Minh.
Trước không khí sục sôi chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, ngày 15 tháng 7 năm 1945, Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh ra lời kêu gọi chuẩn bị khởi nghĩa, nhấn mạnh: “Nhận đúng cơ hội, xét rõ điều kiện… hãy mau lên, cấp tốc lên. Đừng chờ đợi, do dự nữa. Hãy đưa tiền của, xương máu, tài năng hết thảy ra cứu nước, đánh đuổi giặc Nhật, tiêu trừ Việt gian. Lập chính quyền nhân dân cách mạng”.[1] Hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh liên tỉnh, các đồng chí Thái Minh (Huyện ủy viên cũ) và đồng chí Nguyễn Tạo (người Đức Thọ) đã bắt liên lạc với các đảng viên Phạm Nghiêm, Nguyễn Trọng Đái ở các xã thuộc tổng Trại La, để phổ biến chương trình hành động của Việt Minh. Tại xã Hương Thu, các đồng chí đảng viên đã họp bàn kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở Vụ Quang, tập hợp thanh niên huấn luyện quân sự, chờ đón vũ khí của đồng minh. Lực lượng thanh niên các xã thuộc tổng Trại La, các xã Trúc Lâm, Hà Linh nô nức kéo về căn cứ Vụ Quang luyện tập quân sự. ở các xã Đan Trai, Khê Thượng, Vân Cù, Thượng Thụ… các đồng chí đảng viên cùng  với quần chúng thanh niên phối hợp với các lực lượng từ Hương Sơn và Đức Thọ cũng đến Vụ Quang tích cực luyện tập võ thuật, rèn dao, kiếm… Phong trào luyện tập quân sự, củng cố xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền xuất hiện ở nhiều làng xã trong toàn huyện Hương Khê..
Ngày 20 tháng 7 năm 1945, phái viên của Việt Minh tỉnh là đồng chí Phan Dỵ cùng một số các đồng chí đảng viên thuộc các nhóm trung kiên tổ chức Hội nghị cán bộ Việt Minh toàn huyện, hội nghị được tổ chức tại xóm Tân Lệ, xã Trung Định (Hương Tân) nhằm mục đích để thành lập ủy ban khởi nghĩa Hương Khê. Dự họp có 40 đồng chí cán bộ đảng viên được lựa chọn từ các xã, các chi bộ cũ như: Phan Dỵ, Nguyễn Tuy, Phạm Quang Thu (Hương Thủy); Nguyễn Văn Sáng (Hà Linh); Trần Suất, Ngô Quốc Văn, Ngô Thanh (Trúc Lâm); Thái Định Hàn, Nguyễn Lan (Hương Thọ); Nguyễn Nhiên (Gia Phố); Đinh Duyệt (Phúc Trạch) cùng một số các đồng chí khác ở Phú Phong, Phú Gia, Trung Định, Nam Trạch… Hội nghị được nghe đồng chí Phan Dỵ báo cáo tình hình chung thế giới và trong nước, tình hình trong tỉnh. Sau đó phổ biến chủ trương chung của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh, trọng tâm là chủ trương xúc tiến các công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi thảo luận kỹ những công việc phải chuẩn bị cấp bách, Hội nghị quyết định thành lập ủy ban kháng chiến huyện Hương Khê.
ủy ban kháng chiến huyện Hương Khê được thành lập gồm 15 đồng chí: đồng chí Nguyễn Tuy được cử giữ chức Chủ tịch ủy ban kháng chiến phụ trách chung; đồng chí Phạm Quang Thu làm phó chủ tịch; đồng chí Thái Đình Hàn, ủy viên, phụ trách quân sự; đồng chí Ngô Quốc Văn, ủy viên, phụ trách công an, đồng chí Nguyễn Nhiên, ủy viên, phụ trách tài chính; hai đồng chí Ngô Thanh và Trần Suất, ủy viên, phụ trách giao thông; đồng chí Đặng Bá Phụng, ủy viên, phụ trách bưu chính. Tất cả các đồng chỉ được cử tham gia ủy ban kháng chiến hầu hết đều là đảng viên vào Đảng từ những năm 1930 - 1931, đã qua thử thách trong các nhà tù đế quốc, phong kiến. ủy ban kháng chiến có nhiệm vụ: Tuyên truyền, tổ chức cho các lực lượng quần chúng vào các hội Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc. Nội dung tuyên truyền tập trung vạch mặt bọn đế quốc, phong kiến; khêu gợi lòng yêu nước, căm thù đế quốc, phong kiến, khắc phục tâm lý hoài nghi, do dự của một bộ phận quần chúng sợ địch khủng bố như sau thời kỳ 1930 - 1931. Ngoài ra, ủy ban khởi nghĩa còn có nhiệm vụ theo dõi, bám sát các hoạt động của bọn quan lại và hào lý các tổng, xã, những hành động phá hoại của chúng.
Do đặc điểm địa lý, thời tiết và tình hình dân cư cũng như phong trào đấu tranh cách mạng chung của toàn huyện. Tháng tám đang là mùa mưa lụt, hơn nữa thực tế phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân vùng thượng huyện đang lên cao, nơi tập trung đông dân và gần huyện lỵ Chu Lễ, nên Hội nghị đã chủ trương chuyển cơ quan lãnh đạo chung của huyện lên xã Gia Phố. Như vậy, Hội nghị Trúc Lâm (ngày 27 tháng 5 năm 1945) đánh dấu sự khôi phục Đảng bộ huyện, đồng thời mở ra thời kỳ tiền khởi nghĩa sôi nổi, đẩy mạnh phong trào Việt Minh, thì Hội nghị Tân Lệ (ngày 20 tháng 7 năm 1945) thành công với việc thành lập được ủy ban khởi nghĩa của huyện nhà, là bước chuẩn bị trực tiếp cho thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền sắp tới. Từ đây, các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng bộ Hương Khê thực sự được khôi phục từ huyện xuống cơ sở. Cao trào kháng Nhật cứu nước của Hương Khê đủ điều kiện cho sự chín muồi của cuộc Tổng khởi nghĩa đang đến gần.
Sau Hội nghị Tân Lệ, ủy ban khởi nghĩa của huyện được chia làm hai bộ phận, bộ phận chính của ủy ban do đồng chí Chủ tịch Nguyễn Tuy phụ trách, vẫn lấy địa bàn Trúc Lâm làm trung tâm chỉ đạo vùng hạ huyện. Còn một bộ phận được chuyển lên hoạt động ở vùng thượng huyện, do đồng chí Phó chủ tịch Phạm Quang Thu phụ trách. Đồng chí Thu vừa làm nhiệm vụ thường trực của ủy ban kháng chiến huyện, vừa trực tiếp chỉ đạo tổng Chu Lễ, thành lập ủy ban khởi nghĩa tổng Chu Lễ. Các đồng chí ủy viên ủy ban kháng chiến đều được ủy ban phân công về chỉ đạo các tổng, các xã thành lập ủy ban kháng chiến theo hình thức nửa công khai, nửa bí mật.
Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh, sau đó là sự chỉ đạo trực tiếp của ủy ban khởi nghĩa huyện, nên đến đầu tháng 8 năm 1945, hầu hết các xã trong huyện đã có tổ chức Mặt trận Việt Minh đã ra đời, tập hợp quần chúng tham gia các hoạt động luyện tập quân sự, học quốc ngữ, bàn luận thời cuộc. Cán bộ, đảng viên và tự vệ thanh niên vừa bám sát theo dõi tình hình địch, vừa tuyên truyền vận động quần chúng chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. ở những nơi có điều kiện đã phát động phong trào phá kho thóc của Nhật cứu đói cho nhân dân. ở các địa phương ủy ban kháng chiến đã tổ chức các cuộc diễn thuyết công khai ở các chợ trong huyện như chợ Huyện, chợ Gia, chợ Sàng, chợ Trúc, chợ  Hào… Đây cũng là một thành công rất lớn của Hương Khê trong thực hiện chủ trương khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận về tay nhân dân, lẫn át phạm vi ảnh hưởng của chính quyền địch, thực hiện quyền làm chủ của cách mạng.
Thực hiện chủ trương mới của Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh và để gây khí thế cho hoạt động của Việt Minh, thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ hơn nữa, ủy ban kháng chiến và Việt Minh huyện Hương Khê chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền công khai về Việt Minh. Đêm 10 tháng 8 năm 1945, ủy ban khởi nghĩa chỉ đạo tiến hành một cuộc đại náo trong toàn huyện bằng hình thức mít tinh, diễn thuyết, treo cờ đỏ sao vàng, căng biểu ngữ, khẩu hiệu ở khắp các thôn xã. Sau cuộc mít tinh lớn này, nhân dân càng nô nức gia nhập Việt Minh. Các đoàn thể Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc được tổ chức ở hầu khắp các thôn xã. Lực lượng tự vệ cách mạng của huyện tuy mới được hình thành, nhưng đã làm tốt vai trò nòng cốt của mình, đã theo dõi sát sao, kiềm chế các hoạt động của địch, hỗ trợ tích cực cho quần chúng nhân dân đứng lên khởi nghĩa. Đây chính là những hạt nhân nòng cốt, là lực lượng tiền thân của lực lượng vũ trang nhân dân huyện sau này.
Giữa lúc phong trào cách mạng của nhân dân ta đang sục sôi phát triển, thì cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với chiến thắng của Liên Xô và các nước đồng minh đối với phát xít Đức… Nhật đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện. Thực hiện những chủ trương của Trung ương Đảng, các địa phương trong cả nước dưới sự lãnh đạo của ủy ban kháng chiến, đông đảo quần chúng nhân dân đã vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. ở Hà Tĩnh, do có sự chuẩn bị trước và với tinh thần chủ động, khi có lệnh của Việt Minh Nghệ - Tĩnh, ngày 16 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh bùng nổ và giành thắng lợi. Sau đó một loạt các huyện Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Đức Thọ… tổ chức khởi nghĩa thành công, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng lâm thời.
ở hương Khê, giữa lúc một số huyện trong tỉnh bắt đầu tổ chức khởi nghĩa, tin quân Nhật đầu hàng đồng minh đã làm cho chính quyền bù nhìn thân Nhật bị tê liệt, bọn quan chức hoang mang dao động cực độ. Một toán quân Nhật đóng ở Hương Khê đã tìm cách vơ vét tài sản các công sở và tìm cách rút lui về Vinh. Với tinh thần cảnh giác cao, lực lượng tự vệ cách mạng Hương Khê dưới sự chỉ huy của các đồng chí Nguyễn Tuy, Thái Đình Hàn, Mai Minh, Mai Củng, Nguyễn Khắc Như… đã phục kích chặn đánh đoàn tàu hỏa của địch tại khu vực Chín Khúc Hội Nai (Cửa Rào). Đây là nơi có địa hình hiểm trở, rừng núi hoang vắng, tuyến đường sắt đi giữa một bên là con sông Ngàn Sâu, một bên là vách núi, đường có độ cong lớn, tầm quan sát của địch hạn chế. Lực lượng tự vệ cách mạng Hương Khê đã bí mật bố trí mai phục, tháo bu lông đường ray, đặt chướng ngại vật. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, khi đoàn tàu hỏa chở quân địch vừa bị trật bánh, đầu máy lật nghiêng vào vách núi. Nhân lúc bọn địch đang hoảng loạn, các chiến sỹ tự vệ cách mạng được trang bị vũ khí gồm súng săn và giáo mác nhanh chóng khống chế quân địch, tịch thu một số vũ khí, quân trang, quân dụng và lương thực, sau đó rút lui an toàn.
Đây là trận đánh đầu tiên của lực lượng tự vệ cách mạng Hương Khê, trận đánh Cửa Rào đã làm ách tắc giao thông đường sắt của địch trong nhiều ngày, là chiến thắng hết sức quan trọng trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, kết quả trận đánh đã tạo thanh thế cho Việt Minh và cổ vũ phong trào khởi nghĩa ở các địa phương.
Theo quy định của Hội nghị Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh, thì phong trào khởi nghĩa Hương Khê thuộc sự chỉ đạo của Phân khu Bắc Hà, song do điều kiện giao thông liên lạc không kịp thời, nên Hương Khê tiếp nhận sự chỉ đạo của trên chậm hơn so với các huyện khác. Tuy vậy, trong ngày 18 tháng 8 năm 1945, sau khi nghe tin cách mạng đã giành được chính quyền ở tỉnh, ủy ban khởi nghĩa huyện Hương Khê đã tổ chức cuộc họp khẩn cấp tại xã Trúc Lâm để quyết định kế hoạch giành chính quyền ở huyện lỵ Chu Lễ. Hội nghị đã quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ và các tổng xã, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Đồng thời hội nghị cử cán bộ về tỉnh nắm tình hình, nhận chỉ thị và phân công nhiệm vụ cho các ủy viên về chỉ đạo giành chính quyền ở các tổng, xã. Các đội tự vệ dưới sự chỉ đạo của ủy ban kháng chiến nhanh chóng tổ chức lực lượng vừa bám, nắm tình hình, vừa loan tin cách mạng thành công ở các nơi cho dân chúng biết. Quần chúng nhân dân hết sức hồ hởi, tin tưởng, tích cực sắm sửa cờ trống, vũ khí để tham gia giành chính quyền ở Chu Lễ.
Sáng sớm ngày 19 tháng 8 năm 1945, các đoàn biểu tình vùng hạ huyện được đội tự vệ võ trang huyện hỗ trợ đã tập trung bằng cờ, khẩu hiệu, chiêng trống tại bến đò Địa Lợi. Các xã vùng thượng huyện tập trung tại khu vực Thủy Lâm… chờ lệnh cùng tiến vào huyện lỵ. Nhưng do giao thông viên được cử xuống tỉnh quay về chậm, nên ủy ban lâm thời quyết định tạm thời giải tán chờ lệnh của tỉnh. Nhận tin cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Khê chậm do sự chỉ đạo của Phân khu Bắc Hà. ủy ban lâm thời Phân khu Nam Hà đã đưa lực lượng từ thị xã lên chi viện. 3 giờ chiều ngày 19 tháng 8 năm 1945, được sự chi viện của Phân khu Nam Hà, đồng chí Phạm Quang Thu, Phó chủ tịch ủy ban lâm thời huyện và đông đảo quần chúng ở Thượng Trạch, Trung Định… đã tiến thẳng vào huyện lỵ buộc Huyện trưởng Nguyễn Xuân Lâm giao nộp đầy đủ sổ sách, con dấu, súng đạn, tài sản của huyện đường cho đại diện ủy ban lâm thời. Ngay sau đó, các đội tự vệ, dân quân hỗ trợ cho lực lượng khởi nghĩa kéo đi tước vũ khí của đồn lính Chu Lễ. Đội Hạp, đồn trưởng đồn Chu Lễ xin đầu hàng hàng cách mạng vô điều kiện và giao nộp 7 khẩu súng mút cơ tông, 1 khẩu súng lục và 200 viên đạn. Đại diện ủy ban lâm thời và đoàn biểu tình hạ lệnh giải tán số binh lính của đồn, chờ xét xử. Số vũ khí tịch thu trang bị cho dân quân Thượng Trạch… Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Hương Khê giành thắng lợi mau chóng, không có đổ máu.
Gần tối ngày 19 tháng 8, ủy ban khởi nghĩa và một số cán bộ họp bàn việc ra mắt chính quyền cách mạng ở huyện và chỉ đạo giành chính quyền ở các địa phương. Hội nghị quyết định đổi tên ủy ban kháng chiến huyện thành ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê, chủ trương tổ chức các cuộc mít tinh tại các tổng, các xã để xóa bỏ chính quyền đế quốc, phong kiến, vạch mặt tội ác của bọn tay sai phản dân, hại nước, có nợ máu với cách mạng. Đồng thời hội nghị cũng chủ trương huy động lực lượng quần chúng các xã tham dự cuộc mít tinh lớn tại Chu Lễ để chào mừng cách mạng thành công và chào mừng sự ra mắt của ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê.
Sáng ngày 21 tháng 8 năm 1945, thực hiện chỉ thị của tỉnh, ủy ban cách mạng lâm thời Hương Khê tổ chức cuộc mít tinh lớn với hàng ngàn quần chúng tham dự tại sân vận động Chu Lễ. Tại buổi mít tinh trọng thể này, ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê ra mắt toàn thể nhân dân, đồng chí Nguyễn Tuy, Chủ tịch ủy ban kháng chiến tiếp tục được cử giữ chức Chủ tịch ủy ban cách mạng lâm thời huyện Hương Khê. Thay mặt ủy ban cách mạng lâm thời, đồng chí Chủ tịch tuyên bố thủ tiêu toàn bộ chính quyền thân Nhật, xóa bỏ mọi luật lệ của thực dân Pháp và phong kiến, thiết lập hệ thống chính quyền cách mạng từ huyện xuống các làng xã trong toàn huyện. Sau cuộc mít tinh 3 ngày, toàn bộ chính quyền từ huyện đến xã đã thuộc về nhân dân.
Thắng lợi lịch sử của cách mạng tháng Tám ở huyện Hương Khê đã thực sự góp phần vào thắng lợi to lớn của cuộc tổng khởi nghĩa trong toàn tỉnh Hà Tĩnh. Nó đã góp phần đập tan ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng trăm năm trên đất Hương Khê. Từ đây dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hương Khê thật sự làm chủ cuộc sống trên chính mảnh đất quê hương mình. Trải qua cuộc đấu tranh gian khổ hy sinh to lớn, quần chúng nhân dân đã nhận rõ chỉ có đi theo con đường đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng cộng sản Việt Nam và Bác Hồ  đề ra thì mới giành được thắng lợi trọn vẹn, mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Cách mạng tháng Tám giành chính quyền nhanh gọn, không đổ máu ở Hương Khê để lại nhiều bài học quý giá trong đó có bài học gắn nghệ thuật phát động quần chúng vùng dậy với quá trình phát triển lực lượng tự vệ vũ trang. Ngay từ thời kỳ chuẩn bị kháng chiến, Đảng bộ đã chú ý xây dựng các đội tự vệ, khéo sử dụng tổ chức thanh niên Phan Anh, đưa thanh niên đi luyện tập quân sự ở các căn cứ để làm nòng cốt cho quần chúng giành chính quyền… Các tổ chức cơ sở Đảng, Mặt trận Việt Minh, ủy ban kháng chiến… đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm của mình. Vượt lên tất cả đó là lòng tin tưởng tuyệt đối, sự gắn bó bền chặt của dân đối với Đảng, với cách mạng. Trải qua những năm tháng hoạt động bí mật đầy gian khổ, trước sự lùng sục khủng bố gắt gao của kẻ thù, các đảng viên cộng sản Hương Khê vẫn kiên cường đấu tranh, dũng cảm hy sinh. Đồng chí Phan Lũ, Bí thư chi bộ Phúc ấm xông vào chém tên đồn trưởng Chu Lễ trong vụ Rôộc Cồn; các đồng chí Hồ Sỹ Cung, Trần Rạng vẫn hiên ngang trước mũi súng quân thù, không cúi đầu khuất phục. Các đồng chí Phạm Khuông, Mai Phì, bất chấp mọi gian khổ hiểm nguy bám sát cơ sở hoạt động, đến khi bị sa vào tay giặc vẫn giữ chí kiên cường, bất khuất… và còn rất nhiều gương những tấm gương tiêu biểu khác, mãi mãi là những tấm gương sáng chói trong lòng nhân dân. Tất cả đã tạo nên sự gắn kết giữa Đảng với nhân dân, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn không gì lay chuyển nổi, là động lực to lớn để quân dân Hương Khê vững bước trên con đường cách mạng sau này.



Chương hai

Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 - 1954)

Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một trang sử mới cho cách mạng Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, độc lập tự do đến với mọi nhà. Đây là một thắng lợi vĩ đại trong Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam ra đời. Song tình hình chung của cả nước cũng như Hương Khê lại đứng trước những khó khăn thử thách mới bởi giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã làm cho hơn ba ngàn người chết, khắp nơi gia đình tan nát, xóm làng tiêu điều. Giữa lúc đó bọn đế quốc đang vô cùng hoảng sợ khi mà có một nhà nước dân chủ nhân dân ra đời đầu tiên ở Đông Nam á. Chúng đang lợi dụng quân Đồng Minh và nước ta giải giáp quân đội Nhật, để cấu kết cùng nhau lăm le nhằm bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ và ngăn chặn làn sóng cộng sản lan xuống Đông Nam á. Bên trong nội địa, bọn phản động cũng dần tập hợp lực lượng để chống phá chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương.
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, ở Hương Khê và huyện bạn Hương Sơn tình hình biên giới đang trở nên căng thẳng. Trên đất Lào, Pháp chọn một số điểm quan trọng để chiếm đóng đó là Na Pê, Lạc Xao, Căm Cớt, Khăm Muộn, Na Xa Lum, hình thành nên một hành lang chiến lược làm bàn đạp tấn công hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An từ phía tây. Trước tình hình trên, để bảo vệ và xây dựng chế độ mới, lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê từng bước được hình thành, cùng với chính quyền và nhân dân các địa phương trong toàn huyện, hăng hái bắt tay vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ mới.
1. Lực lượng vũ trang cùng toàn dân đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng, tích cực chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến (9/1945 - 12/1946).
Ngay sau ngày khởi nghĩa thắng lợi, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo toàn dân khẩn trương bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Trước mắt toàn thể cán bộ, nhân dân và lực lượng tự vệ vũ trang được huy động tập trung vào việc xóa bỏ chính quyền cũ, thiết lập chính quyền mới. Đồng thời đẩy mạnh các hoạt động cứu đói, tăng gia sản xuất. Tất cả ruộng đất công, ruộng đất của bọn đế quốc, phản động, địa chủ, đồn điền được trưng thu để chia lại cho nông dân. Với những biện pháp lãnh đạo tích cực và khẩn trương, nạn đói đang dần được ngăn chặn và đẩy lùi.
Đi đôi với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, cứu đói, tăng gia sản xuất… một nhiệm vụ cấp bách khác của quân dân Hương Khê là bảo vệ biên giới sau cách mạng, chống quân Pháp từ Lào đánh sang. Trước khởi nghĩa khi bị Nhật đảo chính, một số tàn quân Pháp đã chạy sang Lào lẩn trốn, nay đang tìm cách theo đường số 8 từ Na Pê sang Hương Sơn, Vụ Quang và theo đường Ba Na Phào sang Hương Khê… Thực hiện chủ trương của trên đầu tháng 9 năm 1945, tỉnh Hà Tĩnh thành lập Quân chính cục (tổ chức tiền thân của cơ quan chỉ huy Tỉnh đội), có nhiệm vụ chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang địa phương. Sau khi được thành lập, Quân chính cục tỉnh chỉ đạo các địa phương phát triển lực lượng vũ trang tại chỗ không thoát ly sản xuất để bảo vệ địa phương. Chỉ sau một thời gian ngắn, đến tháng 10 năm 1945, Hương Khê cùng với 7 phủ huyện trong toàn tỉnh xây dựng được các đại đội giải phóng quân. Riêng Hương Khê thành lập được tiểu đoàn giải phóng quân. Các lực lượng giải phóng quân là lực lượng nòng cốt cho nhân dân đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại của các thế lực đế quốc, phản động, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ gìn trật tự an ninh thôn xóm.
Trước sức ép ngày càng lớn của quân Pháp trên tuyến biên giới phía tây của tỉnh, đặc biệt là khi chúng chiếm đóng Na Pê, theo yêu cầu của đại diện chính quyền cách mạng Lào ở khu vực này, Chấp ủy Việt Minh và chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh chủ trương: “Nhân lúc địch mới đến còn bỡ ngỡ lúng túng, cần chủ động tổ chức một lực lượng đánh nhanh, giải phóng Na Pê là điểm trọng yếu nhất để giải quyết mối đe dọa trực tiếp; bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc mới giành được và tạo điều kiện cho cách mạng Lào phát triển”[2]. Thực hiện chủ trương này, từ tháng 10 năm 1945, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở, tổ chức luyện tập quân sự, sắm sửa vũ khí trong toàn dân, Hương Khê thành lập được một tiểu đoàn tự vệ tập trung của huyện, gọi là Tiểu đoàn giải phóng quân Hương Khê, tiểu đoàn do đồng chí Ngô Quốc Văn - đồn trưởng đồn Chu Lễ làm tiểu đoàn trưởng. Quân số của tiểu đoàn lúc mới thành lập có 300 người, tất cả đều là thanh niên tình nguyện và đều là con em nhân dân trong huyện Hương Khê.
Việc bảo đảm hậu cần cho tiểu đoàn đều dựa vào nhân dân trong huyện. Trang bị vũ khí cũng được huy động trong nhân dân và do một số cán bộ, chiến sỹ tự mua sắm mang theo. Sau một tuần lễ huyện phát động tuần lễ thu góp kim khí để rèn đúc vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang. Hưởng ứng tuần lễ phát động của huyện, các hội Phụ nữ, Phụ lão, Hội mẹ chiến sỹ đều tổ chức hũ gạo tiết kiệm để cứu đói cho dân nghèo và cung cấp cho giải phóng quân. Bản thân cán bộ, chiến sỹ của tiểu đoàn cũng tự nguyện tự túc một phần lương thực, thực phẩm bằng sự tiếp tế của gia đình. Đặc biệt về huấn luyện quân sự, có hai hạ sỹ quan quân đội Nhật, sau chiến tranh không về nước, tình nguyện xin ở lại giúp ta đánh Pháp, tham gia làm huấn luyện viên quân sự; hướng dẫn cách sử dụng vũ khí cho tiểu đoàn giải phóng quân của huyện.
Tiểu đoàn giải phóng quân của Hương Khê tuy mới được thành lập, trang bị vũ khí còn hết sức thô sơ, song tiểu đoàn đã có nhiều cố gắng; khắc phục mọi khó khăn, ra sức tập luyện quân sự, tập đánh trận giả, hành quân dã ngoại… Theo yêu cầu của đại diện chính quyền cách mạng bạn Lào và thực hiện sự chỉ đạo của chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh Hà Tĩnh, sau khi lực lượng giải phóng quân tỉnh nổ súng tiến công tiêu diệt địch tại Na Pê, bộ đội giải phóng quân huyện Hương Khê đã cùng lực lượng vũ trang cách mạng Lào chặn đánh địch trên đường hành quân từ Nhom Ma Rát đến Na Pê, diệt 6 tên, trong đó có tên quan hai Pháp chỉ huy. Liên tiếp trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1945, lực lượng giải phóng quân Hà Tĩnh đã tích cực phối hợp với lực lượng cách mạng Lào liên tục tấn công uy hiếp các vị trí quân Pháp trên dọc biên giới hai nước, chặn đứng nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp vào Hà Tĩnh từ phía tây.
Ngày 20 tháng 12 năm 1945, trên cơ sở các chi Đảng đã được khôi phục, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh, uy tín của Đảng ngày càng lên cao, Đảng bộ Hương Khê tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II nhằm bàn chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng, thành lập lại Huyện ủy chính thức, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đối với công tác quân sự, công an, Đại hội nhấn mạnh: “Phải ra sức xây dựng lực lượng dân quân du kích tập trung của huyện và dân quân du kích tại chỗ của các làng xã, thực hiện toàn dân luyện tập quân sự, toàn dân vũ trang để bảo vệ địa phương, thường xuyên cảnh giác với các hoạt động phá rối của bọn phản động và xâm lấn biên giới của quân Pháp từ Lào sang”.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II, đội tự vệ huyện cũng như tự vệ ở các xã tổng được củng cố kiện toàn, tổ chức lực lượng chặt chẽ và ra sức tập luyện quân sự. Ngày đêm có trực chiến canh gác nghiêm ngặt, góp phần bảo vệ chính quyền các cấp, đồng thời là công cụ hữu hiệu răn đe bọn phản động đang tìm mọi cách chống lại chủ trương của các tổ chức cách mạng. Tiểu đoàn giải phóng quân huyện cũng như các đội tự vệ ở các xã tổng ngoài nhiệm vụ huấn luyện bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ trị an làng xã còn tích cực tăng gia sản xuất, vừa giải quyết lương thực thực phẩm cho đội, vừa giúp đỡ các gia đình khó khăn, đặc biệt trong làng xã tổng của mình.
Do hậu quả của chế độ thực dân phong kiến bóc lột nặng nề, thiên tai lũ lụt đã gây nên nạn đói hoành hành trong toàn huyện. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ủy ban nhân dân lâm thời kết hợp với Mặt trận Việt Minh, cùng các tổ chức đoàn thể quần chúng thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm ổn định đời sống nhân dân trong toàn huyện. Cán bộ huyện đã xuống tận các làng xã phát động nhân dân “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau. Phong trào cứu đói được phát động rộng khắp. Nhân dân tự nguyện đóng góp tiền, gạo ủng hộ những người bị đói. Đi đôi với thực hiện phong trào cứu đói, huyện còn phát động phong trào “tấc đất tấc vàng”, động viên nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, trồng thêm ngô, khoai, sắn, rau màu… kịp thời giải quyết lương thực, thực phẩm cứu đói trước mắt. Nạn đói dần được đẩy lùi, các hoạt động kinh tế, sản xuất nông nghiệp dần đi vào nền nếp kế hoạch.
Phong trào bình dân học vụ được toàn dân hưởng ứng, tự vệ nhiều làng xã đã đến từng gia đình vận động bà con theo lớp bình dân học vụ. Lực lượng tự vệ là lực lượng tiên phong trước những khó khăn gian khổ, xung kích dẫn đầu các phong trào góp phần đảm bảo an ninh thôn xóm cho mọi người yên tâm đi học ban đêm. Sau một thời gian ngắn, đã có hàng vạn người được thoát nạn mù chữ. Hàng chục trường tiểu học được xây dựng, thu hút con em nhân dân lao động đến trường học tập. Đến tháng 10 năm 1946, Hương Khê đã xây dựng được một trường trung học. Đây là một trong ba trường trung học đầu tiên dưới chế độ mới của cả tỉnh Hà Tĩnh.
Giữa lúc quân và dân Hương Khê cũng như toàn tỉnh Hà Tĩnh đang tập trung lực lượng đánh lui các hành động xâm lấn của quân Pháp ở biên giới phía tây, và đề phòng bọn tay chân thực dân chưa chịu cải tạo đang tìm mọi cách ngóc đầu dậy gây bạo loạn, thì thực dân Pháp đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Tiếp đó, chúng đã huy động một lực lượng lớn mở rộng vùng chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ngày 26 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Toàn quốc đã hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Hương Khê tổ chức cuộc mít tinh lớn phản đối hành động xâm lược của thực dân Pháp; đồng thời thể hiện rõ tình đoàn kết với đồng bào Nam Bộ. Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể các cấp tổ chức các hoạt động, với nhiều hình thức phong phú ủng hộ Nam Bộ như tổ chức “Phòng Nam Bộ để ghi tên những người tình nguyện vào Nam chiến đấu, lập quỹ ủng hộ Nam Bộ kháng chiến…”
 Gần nửa năm sau ngày nước nhà giành được độc lập, Đảng bộ, quân và dân Hương Khê đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ để vươn lên, từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, đông đảo nhân dân trong toàn huyện nô nức đi bầu cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Trước sự kiện trọng đại này của đất nước, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy lực lượng vũ trang Hương Khê vừa tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, vừa tổ chức kế hoạch triển khai bảo vệ an toàn tuyệt đối cho toàn dân lần đầu tiên đi bầu cử. Ngày bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thực sự là ngày hội lớn của toàn dân huyện Hương Khê. Là sự thể hiện lòng yêu nước, niềm tin tưởng đối với Đảng, với Chính phủ và Hồ Chủ tịch của đông đảo các tầng lớp nhân dân Hương Khê vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đồng thời cũng góp phần đập tan âm mưu chia rẽ, phản động hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của nhân dân ta.
Trước bối cảnh tình hình chung của đất nước thực dân Pháp đã gây hấn ở Nam Bộ, đồng thời đang lộ rõ dã tâm trở lại xâm lược miền Bắc Việt Nam. Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói chung và Hương Khê nói riêng lực lượng vũ trang đã có bước trưởng thành mới cả số lượng và chất lượng, cả trong nhiệm vụ bảo vệ khởi nghĩa và sau đó bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Ngoài tiểu đoàn giải phóng quân của huyện, đến cuối năm 1946, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê đã được xây dựng và phát triển rộng rãi ở khắp các làng xã, mỗi xã thành lập được một trung đội dân quân, biên chế thành các tiểu đội chặt chẽ. Trang bị vũ khí chủ yếu là giáo, mác, gậy, dây… Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang huyện luôn phát động truyền thống yêu nước cách mạng, vượt qua mọi thử thách khó khăn, cùng nhân dân xây dựng và bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng, đập tan những âm mưu phản động phá hoại trong và ngoài nước, làm tròn nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Lào. Tích cực tham gia công tác chống đói, chống giặc dốt, tiếp tục phát triển tăng gia sản xuất góp phần ổn định đời sống nhân dân. Cùng toàn dân thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; bảo vệ vững chắc nền hòa bình độc lập mới giành được.
2. Cơ quan quân sự huyện ra đời, xây dựng và phát triển lực lượng bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến, góp phần cùng cả nước chống Pháp giành thắng lợi (12/1946 - 7/1954).
Cuối tháng 12 năm 1946, đúng như nhận định của Trung ương Đảng và Chính phủ ta, thực dân Pháp đã lộ rõ bộ mặt của đế quốc thực dân xâm lược, chúng ngày càng liều lĩnh và trắng trợn đẩy mạnh hoạt động quân sự trên khắp đất nước Việt Nam. Trước tình hình đó, ngày 19 tháng 10 năm 1946, Hội nghị quân sự toàn quốc đã nhận định: “Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Từ đó, Hội nghị đã quyết định những vấn đề quan trọng và cấp bách nhằm đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng nâng cao chất lượng chính trị cho toàn thể lực lượng vũ trang trước tình hình nhiệm vụ mới.
Sau khi gây hấn ở Nam Bộ, quân Pháp đã gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, trao quyền kiểm soát Hà Nội cho chúng. Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19 tháng 12 năm 1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động quân dân cả nước đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cùng với quân dân cả nước, lực lượng vũ trang và nhân dân Hương Khê hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong không khí sục sôi ý chí chiến đấu. Với vị trí địa lý của mình, Hương Khê được coi là trọng điểm phòng thủ của tỉnh và Liên khu 4 khi cần thiết. Bởi vậy theo lệnh của ủy ban kháng chiến, lực lượng tự vệ Hương Khê làm nòng cốt cho toàn dân triển khai các phương án bố phòng, tăng cường luyện tập quân sự, chuẩn bị sơ tán cơ quan, kho tàng khỏi các vùng trọng điểm, quản lý chặt chẽ các phần tử xấu. Tích cực chuẩn bị thực hiện tốt chủ trương tiêu thổ kháng chiến.
Để thực hiện tốt chủ trương toàn quốc kháng chiến của Đảng và thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, cuối tháng 2 năm 1947, Đảng bộ huyện Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ III. Đại hội chủ trương: Chuyển toàn bộ mọi hoạt động của huyện nhà sang thời chiến, tiếp tục củng cố chính quyền và đoàn thể quần chúng, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang, vận động toàn dân sưu tầm vũ khí cho tự vệ tập trung và lực lượng dân quân du kích. Tăng cường công tác bố phòng, kết hợp với các đơn vị Vệ quốc đoàn đưa lực lượng bố trí ở các điểm cao vùng biên giới Việt - Lào, kiên quyết bảo vệ địa bàn, tổ chức đào hầm hào công sự, cắm chông, chống đổ bộ đường không, bảo mật phòng gian nghiêm ngặt. Ra sức bảo đảm an toàn cho các hoạt động của các đơn vị cơ quan ATK, thực hiện tốt nhiệm vụ căn cứ địa, hậu phương trực tiếp cho Bình - Trị - Thiên.
 Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III, nhân dân Hương Khê lập tức bước vào cuộc kháng chiến theo điều kiện cụ thể của địa phương mình. Cùng một lúc vừa triển khai phương án bố phòng, vừa tăng cường luyện tập quân sự, vừa chuẩn bị các phương án sơ tán dân ra khỏi các vùng trọng điểm… Khi quân Pháp đánh mạnh từ phía nam ra Thừa Thiên và từ Lào sang Quảng Trị, sau đó chúng tiến nhanh ra Quảng Bình… Trong những ngày đầu gây chiến tranh xâm lược Việt Nam, ở địa bàn Liên khu 4 quân Pháp đã gây ra nhiều thiệt hại và khó khăn cho nhân dân các tỉnh Bình - Trị - Thiên. Trong khi đó, các tỉnh phía bắc Liên khu 4 vẫn được bảo vệ vững chắc và đã trở thành vùng tự do Thanh - Nghệ – Tĩnh. Để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, Đảng ta đã kịp thời chủ trương sơ tán nhân dân và di chuyển các cơ quan, đơn vị từ Bình - Trị - Thiên ra các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, trước hết là ra Hà Tĩnh. Công việc này đã được tiến hành ngay. Vùng rừng núi Hương Khê được ủy ban hành chính Trung Bộ chọn làm ATK, đặt các cơ quan, trường học, công xưởng sơ tán nhân dân. Đã có hàng nghìn người bao gồm cán bộ, học sinh, kỹ sư, công nhân kỹ thuật từ Bình - Trị - Thiên ra Hương Khê, trong đó có những nhà khoa học nổi tiếng như Giáo sư Phạm Đình ái - người chế axít sunfuaric đầu tiên ở nước ta. Đảng bộ, quân và dân Hương Khê vinh dự được đón tiếp cơ quan cấp trên và đồng bào các tỉnh bạn ra sơ tán. Đây vừa là nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm nặng nề, vượt lên mọi khó khăn Hương Khê đã làm tròn nghĩa vụ của mình, xứng đáng là vùng căn cứ địa của Liên khu. Nhân dân trong toàn huyện đã nhường cơm, sẻ áo cung cấp lương thực, thực phẩm, nhường nhà cửa, ruộng vườn… tạo mọi điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động của các cơ quan công xưởng cũng như toàn bộ nhân dân tản cư đến ở…
Đi đôi với nhiệm vụ làm lực lượng nòng cốt cho toàn dân xây dựng bố phòng, giúp đỡ đồng bào tản cư, tháng 2 năm 1947, tiểu đoàn giải phóng quân Hương Khê nhận nhiệm vụ phối hợp cùng lực lượng vũ trang của tỉnh Hà Tĩnh chặn đánh quân Pháp nống sang vùng Vụ Quang, đuổi đánh chúng đến tận Cà đốc na thon, Na Pê (Lào), giữ vững tuyến biên giới phía tây của huyện.
Xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân, vũ trang toàn dân của Đảng, trong đó lực lượng dân quân du kích là lực lượng chủ yếu quyết định sự phát triển mạnh mẽ của chiến tranh nhân dân. Tháng 2 năm 1947, Bộ quốc phòng ra Thông tư quy định: Mọi công dân Việt Nam từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân. Đến tháng 3 năm 1947, Chính phủ quyết định đổi tên “Bộ tổng chỉ huy quân đội Quốc gia” thành “Bộ tổng chỉ huy quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ”; thành lập các Ban chỉ huy Tỉnh đội, Ban chỉ huy Huyện đội, Ban chỉ huy xã đội dân quân trực thuộc ủy ban kháng chiến các cấp. Theo đó, Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê cũng được thành lập trong tháng 3 năm 1947, do một ủy viên quân sự trong ủy ban kháng chiến huyện phụ trách. Sau một thời gian ngắn, khoảng giữa năm 1947 đồng chí Dương Đức Cơ được bổ nhiệm làm Huyện đội trưởng, đồng chí ………… làm chính trị viên Huyện đội. Trong buổi đầu mới được thành lập, cơ quan Huyện đội được biên chế 9 đồng chí: Chỉ huy 2 đồng chí; tổ quân sự 3 đồng chí; tổ công tác chính trị 2 đồng chí và tổ văn thư quản lý 2 đồng chí. Cơ quan Huyện đội đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, ủy ban kháng chiến. Tiếp theo sự ra đời của cơ quan quân sự huyện, ở các xã, thôn cũng được lập tổ chức xã đội, thôn đội. Mỗi tổ chức được biên chế 3 người.
Sự ra đời của cơ quan Huyện đội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê. Từ nay Huyện ủy, ủy ban kháng chiến Hương Khê đã có cơ quan tham mưu đắc lực về công tác quân sự địa phương. Các lực lượng dân quân du kích, tự vệ của huyện có được sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất từ trên xuống, mọi hoạt động của lực lượng vũ trang đang dần đi vào nền nếp, có hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, ủy ban kháng chiến, sự giúp đỡ đùm bọc của nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê tiếp tục được xây dựng và ngày càng phát triển. Ngoài tiểu đoàn giải phóng quân của Huyện đội, lực lượng dân quân du kích được phát triển rộng rãi ở các xã, thôn, tạo nên thế trận quân sự có chiều sâu trong chiến tranh nhân dân, có tính tập trung đồng thời cũng có tính cơ động cao. Trang bị vũ khí cho lực lượng dân quân du kích, ngoài súng kíp tự tạo, giáo mác, mã tấu và một số lựu đạn trên cấp, huyện còn tích cực vận động nhân dân quyên góp nhiều nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, để chế tạo súng kíp, hỏa mai, đạn gém… để tự trang bị và cấp cho lực lượng dân quân du kích huyện và các xã.
Với vị trí địa lý của mình, Hương Khê đã trở thành căn cứ ATK của ủy ban hành chính Trung Bộ, tất cả lực lượng cán bộ, bộ đội và nhân dân Bình - Trị - Thiên sơ tán đến cùng với quân và dân trong toàn huyện đã vượt qua khó khăn, có nhiều cố gắng trong thực hiện nhiệm vụ kháng chiến. Đến cuối năm 1947, xưởng bào chế hóa chất, Trường kỹ nghệ thực hành, Trường trung học Hương Khê - Bình Trị Thiên và nhiều công binh xưởng được thiết lập trên địa bàn huyện, làm tăng thêm tiềm lực kinh tế, quân sự và văn hóa cho Hương Khê. Tranh thủ thời gian khi chiến sự chưa lan tới địa phương, việc chuẩn bị “thực lực quân sự” cho cuộc kháng chiến của quân và dân Hương Khê càng được đẩy mạnh. Công tác huấn luyện quân sự, học tập chính trị luôn được coi trọng. Sau khi được thành lập, cơ quan Huyện đội đã tích cực mở các lớp huấn luyện ngắn ngày về quân sự cho cán bộ dân quân du kích. Sau này còn nhờ sự giúp đỡ của chi đội giải phóng quân Phan Đình Phùng giúp huấn luyện các nội dung về chiến thuật cá nhân, tập kích, phục kích, bắn súng, ném lựu đạn, kỹ thuật làm hầm chông, đánh bom mìn… sát với địa hình và trang bị của lực lượng vũ trang nhân dân huyện.
Từ ngày 15 tháng 9 năm 1946, quân dân Hương Khê thực hiện lời kêu gọi “tiêu thổ kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với quan điểm “Phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không lợi dụng được”. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, ủy ban kháng chiến hành chính, chính quyền địa phương các cấp, lực lượng vũ trang làm nòng cốt cùng với đông đảo nhân dân trong toàn huyện nhanh chóng di chuyển, sơ tán người già, trẻ em cùng lương thực, thực phẩm vào sâu trong rừng. Kho tàng, cơ sở vật chất của các cơ quan huyện cũng được chuyển đến nơi an toàn. Kết hợp với việc sơ tán, toàn huyện thực hiện tiêu thổ kháng chiến, phá công sở và một số nhà kiên cố ở Chu Lễ, các nhà ga tàu hỏa; đánh sập một số cầu trên tuyến đường sắt đi qua huyện như cầu Cửa Rào, cầu Thanh Luyện, cầu Lộc Yên… ở những khu tản cư, đồng bào chủ động làm lán trại ở sâu trong rừng, ở những nơi có nguồn nước thuận tiện sinh hoạt, chăn nuôi, sản xuất. Trong sản xuất chú trọng trồng nhiều ngô, sắn, lúa vừa để bảo đảm đời sống hàng ngày, vừa sẵn sàng cung cấp cho bộ đội.
Phong trào ủng hộ kháng chiến được phát động rộng rãi trong toàn huyện như “góp quỹ nuôi quân”, “hũ gạo kháng chiến”, “mùa đông binh sỹ”. Nhiều gia đình tuy đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng vẫn tự nguyện bớt ăn, bớt mặc giành gạo, tiền nuôi dân quân du kích và bộ đội. Nhiều gia đình còn bán nhiều tài sản lớn như trâu, bò, lợn để lấy tiền mua vũ khí, lương thực, quần áo ủng hộ du kích huyện. Chính nhờ sự cưu mang, đùm bọc to lớn này của nhân dân mà lực lượng vũ trang huyện đã vượt qua được những thử thách ban đầu để từng bước trưởng thành về mọi mặt.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới trong cuộc kháng chiến trường kỳ, ngày 10 tháng 1 năm 1948, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ IV, Đại hội chủ trương tiếp tục quán triệt sâu sắc và ra sức thực hiện chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển sản xuất, trường kỳ kháng chiến của Trung ương Đảng và của Liên khu ủy 4. Phát động phong trào thi đua ái quốc, nhất là phong trào luyện quân, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, tổ chức đại hội dân quân, phong trào thi đua tòng quân, chiến đấu và phục vụ chiến đấu… Sau Đại hội Đảng bộ huyện, phong trào thi đua ái quốc được các tầng lớp nhân dân tham gia sôi nổi, với khẩu hiệu “Người người thi đua, nhà nhà thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua”. Trại nuôi bò Địa Lợi được mở rộng, các cửa hàng tạp phẩm, thuốc lá, thuốc tây và các xưởng sản xuất giấy viết, giấy đánh máy được mở ở nhiều nơi. Phong trào tự túc lương thực được các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh. Công tác bảo vệ địa bàn huyện cũng được chú trọng, phần lớn nhân dân trong độ tuổi 18 đến 45 đều tham gia dân quân. Sau khi tiểu đoàn giải phóng quân của huyện được điều động về trực thuộc tỉnh, Đảng bộ chỉ đạo thành lập một đại đội bộ đội địa phương độc lập, thoát ly sản xuất, có nhiệm vụ thường trực bảo vệ cơ quan, công sở và bảo vệ biên giới của huyện.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, sự chỉ đạo của cơ quan Huyện đội, hậu phương Hương Khê được củng cố, xây dựng ngày càng lớn mạnh, có những đóng góp quan trọng đối với cuộc kháng chiến, với chiến trường Bình - Trị - Thiên và chiến trường Trung Lào. Phong trào nhân dân ủng hộ và tham gia kháng chiến, ủng hộ đỡ đầu dân quân, đóng góp lương thực, thực phẩm , vận chuyển hàng hóa chi viện cho chiến trường diễn ra liên tục. Riêng cơ xưởng Chu Lễ, đến tháng 5 năm 1948 đã sản xuất và cung cấp được cho mặt trận Bình - Trị - Thiên 65 khẩu bích kích pháo, 312 súng kíp, 480 quả mìn, hơn 3.000 quả lựu đạn và hàng vạn viên đạn các loại.[3] Sau khi khôi phục lại tuyến đường sắt chạy bằng ô tô ray từ Hòa Duyệt đi Chu Lễ, Khe Nét, Minh Cầm (Quảng Bình). Trong năm 1948, các đầu máy goòng BTT1 và BTT2 (BTT viết tắt của Bình - Trị - Thiên) đã vận chuyển hàng vào Quảng Bình được 358 tấn thóc, 449 tấn gạo, 33 tấn ngô, 205 tấn muối, 33.500 mét vải và hơn 92.000 viên thuốc tân dược, kịp thời phục vụ cho quân và dân Bình - Trị - Thiên.
Từ năm 1948, công cuộc bảo vệ và xây dựng trên toàn huyện được đẩy mạnh. Phong trào thi đua ái quốc được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Thực hiện khẩu hiệu “Người người thi đua, nhà nhà thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua” đem lại nhiều hiệu quả thiết thực. Trại nuôi bò ở Địa Lợi được mở rộng, các xưởng sản xuất giấy viết, giấy đánh máy; cửa hàng tạp phẩm Tam Anh; cửa hàng bán thuốc lá, thuốc lào, thuốc chữa bệnh… được mở ở nhiều nơi. Phong trào tăng gia sản xuất tự túc lương thực được các cơ quan, đơn vị, địa phương đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện. Đặc biệt, công tác bảo vệ địa bàn được chú trọng hơn trước, theo yêu cầu nhiệm vụ, thực hiện chủ trương của tỉnh, tháng 8 năm 1948, Đảng bộ chỉ đạo cơ quan quân sự huyện và các ban ngành liên quan tổ chức thành lập thêm ba đại đội bộ đội độc lập, thoát ly sản xuất, ba đại đội là: Đại đội 1 do đồng chí Nguyễn Nhuệ, quê ở xã Phương Mỹ làm đại đội trưởng; Đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Khắc Như, quê ở xã Hương Trung (nay là xã Phương Mỹ) làm đại đội trưởng; Đại đội 3 do đồng chí Trần Triệu, quê ở xã Hương Long làm đại đội trưởng.[4] Như vậy, ở vào thời điểm này, Hương Khê có hai đại đội bộ đội địa phương. Các đại đội có nhiệm vụ thường trực bảo vệ cơ quan, công sở, biên giới. Đồng thời làm nòng cốt cho chiến tranh du kích, có trang bị và tự túc cấp dưỡng.
Thực hiện chủ trương tăng cường phát triển lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh nhân dân, bảo đảm an toàn cho địa bàn huyện trong kháng chiến, ngoài việc thành lập các đại đội bộ đội địa phương, Huyện ủy, ủy ban kháng chiến hành chính huyện tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát động phong trào tham gia lực lượng dân quân du kích. Tất cả nhân dân trong độ tuổi 18 đến 45 đều tham gia dân quân. Ngoài lực lượng chủ chốt là thanh niên nam nữ còn có các tổ lão quân, thiếu niên quân, tất cả đều được huấn luyện cả quân sự và chính trị, đảm bảo đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến bảo vệ địa bàn.
Tháng 1 năm 1949, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V quyết nghị: Đảng bộ, quân và dân toàn huyện đề cao trách nhiệm hậu phương đối với chiến trường Bình - Trị - Thiên, chiến trường Trung Lào, cả về chi viện quân sự lẫn kinh tế. Tăng cường bố phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, thực hiện thế trận chiến tranh nhân dân để đối phó với các cuộc tập kích, đột kích của địch. Thực hiện quyết nghị của Đại hội Đảng bộ huyện, lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê không ngừng được củng cố, ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng dân quân tự vệ phát triển mạnh chiếm gần 25% dân số. Tháng 6 năm 1949, Tỉnh ủy và ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Hà Tĩnh phát động phong trào “Tuần lễ dân quân tự túc” và cuộc vận động “đỡ đầu dân quân”. Nhân dân tích cực thực hiện chủ trương hiến đất cho kháng chiến, nhiều địa chủ cũng đã “cúng” ruộng đất, trâu bò cho chính quyền để tỏ sự ủng hộ kháng chiến. Qua phong trào này các địa phương đã huy động được một lượng vật chất khá lớn, nhiều gia đình nhận nuôi dân quân của thôn, của xã vừa ăn và tập luyện từ 15 ngày đến 1 tháng. Nhiều địa phương giao cho dân quân số ruộng đất cúng, trâu bò, lợn gà, nông cụ, nhà cửa do nhân dân góp lại để tự quản lý, nhằm sản xuất tự túc phục vụ cho nhiệm vụ luyện tập quân sự.
Kết quả của việc thực hiện các phong trào đã vượt mức dự kiến ban đầu về số lượng tiền và thóc gạo, cơ bản đảm bảo được một phần lương thực trang bị cho bộ đội và dân quân du kích trong huyện luyện tập quân sự sẵn sàng chiến đấu. Huyện đội tổ chức được nhiều lớp huấn luyện quân sự cho cán bộ quân sự ở cơ sở. Đơn vị bộ đội địa phương tập trung huyện và các xã liên tục được tập duyệt các phương án bố phòng, bảo đảm sự tinh thông về kỹ thuật, chiến thuật và ý thức sẵn sàng chiến đấu bảo vệ xóm làng. Ngoài ra, trong năm 1949, thông qua tuyến đường goòng Thanh Luyện, Chu Lễ, Đò Vàng, ngành hỏa xa và dân công Hương Khê đã vận chuyển cho Mặt trận Bình - Trị - Thiên 2.012 tấn lương thực, vũ khí, thuốc men và phục vụ hơn 30 ngàn lượt cán bộ, bộ đội, dân công qua lại giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình.
Để xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh, Huyện ủy chỉ đạo và chú trọng làm tốt công tác cán bộ, tăng cường những cán bộ có năng lực thực sự bổ sung cho đội ngũ cán bộ, mở rộng phát triển đảng viên. Nhiều quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng, gia nhập vào lực lượng vũ trang huyện. Phong trào ghi tên tòng quân cũng phát triển mạnh, nhiều xã có 100% thanh niên, dân quân xung phong lên đường tham gia kháng chiến. Các đoàn thể quần chúng cũng thu hút được tuyệt đại đa số nhân dân trong độ tuổi, trong giới, tầng lớp của mình tham gia. Đảng bộ đã vận động được 85% số dân tham gia các đoàn thể như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội thanh niên cứu quốc, Hội mẹ chiến sỹ… Hơn hai năm, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, mà trực tiếp là sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Hà Tĩnh, quân và dân Hương Khê đã phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, vượt qua mọi khó khăn thử thách, ra sức củng cố xây dựng lực lượng kháng chiến và kiến quốc. Cùng quân và dân toàn tỉnh, quân và dân Hương Khê luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tích cực tăng gia sản xuất ra sức xây dựng hậu phương ngày một lớn mạnh phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (tháng 4 năm 1949), cuối năm 1949 Tỉnh ủy phát động cuộc vận động thi đua với nội dung: rèn cán, chỉnh quân, bài trừ nạn dốt, tự túc ăn mặc, cần kiệm liêm chính. Cuộc vận động rèn cán chỉnh quân được tiến hành sâu rộng trong toàn thể lực lượng vũ trang tỉnh. Lực lượng vũ trang Hương Khê tiến hành cuộc vận động rèn cán, chỉnh quân thu nhiều kết quả. Cơ quan quân sự huyện được bổ sung tăng cường thêm cán bộ. Huyện đội và các đại đội bộ đội địa phương huyện có chi bộ Đảng trực thuộc Huyện ủy. Chi bộ quân sự huyện và Huyện đội đã trở thành cơ quan tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác quân sự; đồng thời chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức chỉ huy lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng và phát triển lực lượng, làm nòng cốt trong xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn huyện.
Về tổ chức Đảng trong bộ đội địa phương huyện, ở Hương Khê cũng như các huyện khác, thực hiện quyết định của Chính phủ, Ban chỉ huy Huyện đội, các xã đội được thành lập vào đầu năm 1947. Nhưng về tổ chức Đảng, thì đến Hội nghị của Tổng chính ủy (tháng 9 năm 1949) mới được xác định nguyên tắc cụ thể, nhằm làm nổi bật vai trò cấp ủy lãnh đạo. Đồng chí ủy viên Thường vụ Liên khu ủy phụ trách bộ đội địa phương chỉ đạo cấp dưới (tỉnh và huyện) thông qua cấp ủy Đảng. Các chi bộ bộ đội địa phương trực thuộc tỉnh đội bộ hợp thành một liên chi do đồng chí Tỉnh ủy viên phụ trách, Tỉnh đội trực tiếp chỉ đạo. Các chi bộ trong bộ đội địa phương huyện, trường hợp cần thiết có thể tổ chức sinh hoạt ở Liên chi chính quyền của các Huyện ủy. Nếu không có gì cản trở thì nên tách riêng các chi bộ bộ đội địa phương trực thuộc Huyện ủy như cấp tỉnh… Theo đó, chi bộ Huyện đội và các chi bộ bộ đội địa phương huyện Hương Khê được tách riêng trực thuộc huyện ủy ngay từ đầu. Đồng chí Huyện ủy viên phụ trách Huyện đội trực tiếp chỉ huy đại đội bộ đội địa phương, chỉ đạo các chi ủy về vấn đề quân sự qua Huyện ủy.
Từ năm 1950 trở đi cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt. ở địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh, địch đã phát hiện ra sự lớn mạnh của hậu phương ta, nên chúng đã tăng cường đánh phá vùng tự do với nhiều thủ đoạn khác nhau. Chúng vừa bất ngờ cho quân tập kích từ biển vào và từ Lào sang, nếu thuận lợi thì mở rộng phạm vi chiếm giữ lâu dài, đi tới xóa bỏ vùng tự do của Liên khu 4. Đồng thời chúng thường xuyên cho máy bay ném bom bắn phá đường sá, cầu cống, kho tàng… Địa bàn huyện Hương Khê là vùng An toàn khu của Liên khu 4, lại có tuyến đường goòng nối liền vùng tự do với chiến trường Bình - Trị - Thiên, có đường chiến lược sang Trung Lào. Bởi vậy, Hương Khê đã trở thành một trọng điểm ném bom của máy bay và tập kích gây bạo loạn của địch. Từ tháng 10 năm 1948, địch đã cho máy bay ném bom xuống khu vực Thủy Lâm, Chu Lễ, làm hư hỏng nhiều đoạn đường sá. Riêng ngày 6 tháng 1 năm 1950, địch đã ném 50 quả bom xuống thị trấn làm chết và bị thương nhiều người dân vô tội, phá hủy nhiều nhà cửa. Ngày 17 tháng 1 năm 1950, máy bay địch tiếp tục ném 40 quả bom loại 50kg xuống vùng thị trấn gây cho ta nhiều thiệt hại. Hành động đánh phá vào hậu phương của thực dân Pháp đã gây cho Hương Khê nhiều thiệt hại, song tội ác của chúng càng làm cho quân dân ta thêm căm thù, thường xuyên cảnh giác, tăng thêm lòng quyết tâm xây dựng và bảo vệ vững chắc quê hương, ra sức chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến.
Trước yêu cầu đòi hỏi của tiền tuyến ngày càng lớn, thực hiện lời kêu gọi “Tổng động viên nhân tài vật lực cho kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, ngày 29 tháng 4 năm 1950, Tỉnh ủy, ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Hà Tĩnh tổ chức Hội nghị cán bộ các ngành, các cấp và các địa phương trong toàn tỉnh, nhằm tìm biện pháp thực hiện tổng động viên phục vụ các chiến trường. Thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ tỉnh, cơ quan quân sự huyện cùng các ngành, các cấp, các địa phương triển khai ngay công tác đăng ký quản lý con người, các loại phương tiện trong đơn vị mình và lập kế hoạch động viên từng giai đoạn. Sau khi Trung đoàn 103 của tỉnh ra Bắc, tỉnh chủ trương thành lập Tiểu đoàn 290 và 8 đại đội du kích thường trực 8 huyện. Như vậy, đến giai đoạn này Hương Khê có 3 đại đội: 2 đại đội bộ đội địa phương tập trung và 1 đại đội du kích thường trực. Các đơn vị bộ đội, dân quân tự vệ tăng cường luyện tập, hướng dẫn và giúp đỡ các làng xã tổ chức luyện tập các phương án đánh địch, sơ tán, cứu thương, động viên tuyển quân…
Sau Hội nghị cán bộ tỉnh, ngày 15 tháng 5 năm 1950, Đại hội lần thứ VI Đảng bộ huyện được khai mạc, Đại hội thảo luận và quyết nghị một số nội dung quan trọng nhằm đẩy mạnh công tác phục vụ kháng chiến, tăng gia sản xuất, ổn định đời sống cho nhân dân. Đối với lực lượng vũ trang, Đại hội nhấn mạnh: Tích cực luyện tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, thực hiện tốt chủ trương “Tổng động viên nhân tài, vật lực” để xây dựng lực lượng, lấy xây dựng bộ đội địa phương làm trọng tâm, chi viện cho tiền tuyến thiết thực, ra sức làm tròn nhiệm vụ bảo vệ hậu phương.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, cùng với việc xây dựng Hương Khê trên tất cả các mặt, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ban chỉ huy Huyện đội tập trung xây dựng lực lượng vũ trang huyện, phát triển dân quân du kích các xã, các thôn, phân loại nhân lực nắm vững số người ở độ tuổi tuyển vào dân quân du kích. Các thôn, làng có đội dân quân, các xã có trung đội du kích tập trung hoặc bán tập trung. Tinh thần sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện được nâng cao hơn. Các xã, thôn, làng đều có kế hoạch và xây dựng các phương án luyện tập đánh địch thường xuyên, đặc biệt là các xã tiếp giáp với biên giới bạn Lào. ở những địa điểm quan trọng, các bãi trống dự kiến địch có thể đổ bộ đường không được đóng cọc tre vót nhọn, xây dựng vật cản, đào hầm, hào xây dựng trận địa bố phòng sẵn sàng đánh địch bảo vệ địa bàn. Quân và dân toàn huyện hăng hái thi đua lập được nhiều thành tích to lớn trong cuộc tổng động viên nhân tài vật lực. Về nhân lực, Hương Khê cùng với các địa phương trong toàn tỉnh huy động 3 khóa tân binh với 7.024 người và hàng trăm cựu chiến binh, cán bộ công nhân kỹ thuật cho các đơn vị của Liên khu và Bộ Tư lệnh; đóng góp hơn 100.000 công phục vụ tiếp tế vận tải, sửa đường, tu bổ đê điều; 4.734 công giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sỹ. Về vật lực, đã nuôi dưỡng 4 khóa tân binh, đỡ đầu cho 276 tiểu đội… góp phần cùng quân và dân cả nước bước sang giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
Tháng 10 năm 1950, Hương Khê bị một trận lụt lớn chưa từng có, trận lụt đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản của nhân dân. Nhiều đoạn đường bộ, đường sắt đã bị nước cuốn trôi, nhiều kho tàng, hàng hóa bị ngập nước hư hỏng nặng. Lực lượng vũ trang huyện đã được huy động giúp dân khắc phục hậu quả nặng nề của trận lụt, họ thực sự là lực lượng nòng cốt góp phần nhanh chóng khắc phục mọi khó khăn, ổn định cuộc sống cho nhân dân và được nhân dân hết lòng quý mến. Trận lụt lịch sử đã gây ảnh hưởng không ít đến năng suất sản lượng lúa và hoa màu trong toàn Liên khu. Nhưng nhờ tích cực khai hoang phục hóa đi đôi với thâm canh tăng năng suất và thực hiện tốt các biện pháp thủy lợi, làm phân xanh và đẩy mạnh phong trào vần công, đổi công, nên đời sống nhân dân và quân đội vẫn được bảo đảm.
Việc tự túc lương thực được ráo riết đặt ra trong bộ đội, cán bộ, công nhân viên chức với lời kêu gọi “Ai đã ở trong Vệ quốc đoàn là phải tăng gia sản xuất. Cán bộ càng phải gương mẫu”. Quán triệt chủ trương của Liên khu ủy và ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu, các lực lượng vũ trang Hương Khê cùng với lực lượng vũ trang toàn Liên khu sôi nổi thi đua tăng gia sản xuất. Bộ đội địa phương huyện và dân quân du kích đều lập trại tăng gia, khẩn trương khai hoang phục hóa, nhận thêm một số ruộng của nhân dân và đoàn thể gom cho để trồng trọt, chăn nuôi. Nhờ tích cực lao động sản xuất, gắn liền sẵn sàng chiến đấu với xây dựng, bộ đội địa phương và dân quân du kích huyện đã tự túc được một phần lương thực, góp phần củng cố hậu phương cả về quân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, đẩy lùi mưu đồ của giặc Pháp tiến công lấn ra vùng tự do của Liên khu.
Sau chiến dịch biên giới 1950, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã trở thành một hậu phương chiến lược chính của Bắc Bộ và của các chiến trường bắc Đông Dương. Hương Khê cùng với các địa phương trong toàn tỉnh dốc sức chi viện cho tiền tuyến, cho cả Mặt trận Bình - Trị - Thiên, Trung - Thượng Lào và chiến trường chính Bắc Bộ. Tháng 1 năm 1951, thực hiện Chỉ thị của Thường vụ Liên khu ủy và Chỉ thị của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, về việc tập trung xây dựng lực lượng tại chỗ đủ mạnh tác chiến bảo vệ địa bàn, phấn đấu trong một thời gian tự đảm nhận được nhiệm vụ bảo vệ hậu phương, vừa bổ sung quân cho các chiến trường. Lực lượng vũ trang Hương Khê được cấp ủy địa phương các cấp quan tâm xây dựng, đồng chí Bí thư chi bộ trực tiếp làm chính trị viên xã đội. Các đoàn thể quần chúng đều có trách nhiệm tham gia xây dựng dân quân, không để tình trạng khoán trắng cho nông hội như trước nữa. ở các vùng xung yếu, dân quân được tăng cường thêm vũ khí và bố trí nhiều thời gian huấn luyện. Dân quân vừa bám ruộng đồng sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương.
Công tác luyện tập quân sự và các hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị được đẩy mạnh đã góp phần nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện. Cán bộ, chiến sỹ có tinh thần tự giác kỷ luật, tích cực chiến đấu bảo vệ quê hương và khi cần thiết sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Tháng 6 năm 1951, sau khi liên khu bàn giao Trung đoàn 51 cho Đại đoàn 351 pháo binh, chuyển Tiểu đoàn 198 và 11 đại đội địa phương Thanh Hóa cho Đại đoàn 320, đại đội bộ đội địa phương Hương Khê cùng với đại đội bộ đội địa phương huyện Can Lộc, Đức Thọ được điều động bổ sung cho Trung đoàn 120 chiến đấu ở Trung Lào.
Ngày 24 tháng 4 năm 1951, Trung ương ra chỉ thị về nhiệm vụ phá cuộc tiến công của địch ra Hòa Bình, giao cho các liên khu vừa phải bảo đảm chi viện cho chiến trường, vừa đẩy mạnh hoạt động vũ trang phối hợp với chiến dịch Hòa Bình. Ngày 3 tháng 12 năm 1951, Bộ Tư lệnh liên khu đề ra kế hoạch cho các địa phương và đơn vị tác chiến phối hợp và chi viện chiến dịch Hòa Bình. ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chủ trương “Vừa phải đảm bảo lực lượng sản xuất, vừa phải có đủ lực lượng chi viện tiền tuyến, điều 500 cán bộ từ cấp xã đến liên khu trực tiếp lãnh đạo tổ chức lực lượng dân công phục vụ chiến dịch Hòa Bình”[5]. Thực hiện kế hoạch của Bộ Tư lệnh liên khu, cả hậu phương hướng ra tiền tuyến. Xung phong tòng quân đi chiến đấu đã trở thành niềm mong ước của tuổi trẻ hậu phương Hương Khê. Chỉ tính đến tháng 10 năm 1952, Hương Khê cùng với các địa phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã có 13.770 thanh niên lên đường nhập ngũ. Ngoài ra các tỉnh còn chuyển 5.000 du kích lên xây dựng bộ đội địa phương.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 4 (tháng 4 năm 1952) đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công tác chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng, chỉnh quân được hội nghị xác định là nhiệm vụ trọng tâm hết sức quan trọng. Bởi vậy, từ giữ năm 1952 đến giữa năm 1953, bộ đội địa phương Hương Khê cùng với bộ đội địa phương trong toàn tỉnh đã lần lượt tiến hành 3 đợt chỉnh quân chính trị. Đây là cuộc vận động chính trị tập trung rộng lớn nhất kể từ ngày quân đội được thành lập. Cán bộ từ đại đội trở lên được học tập tài liệu “Mấy vấn đề cách mạng Việt Nam”. Cán bộ từ cấp trung đội xuống đến chiến sỹ tập trung học tập tài liệu “Quân đội nhân dân Việt Nam”, “Kháng chiến trường kỳ gian khổ nhất định thắng lợi”. Những nội dung học tập vừa có tính lý luận nhưng cũng vừa có tính thực tiễn, kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao nhận thức và phát huy tự do tư tưởng, liên hệ giữa lý luận và thực tế của cuộc chiến tranh. Kết hợp phê bình và tự phê bình để phân rõ đúng sai… qua 3 đợt chỉnh quân chính trị bước đầu đã được nâng cao giác ngộ giai cấp cho bộ đội, làm cho cán bộ, chiến sỹ thấy rõ mục tiêu của cuộc chiến đấu, nhận rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, hiểu rõ bản chất giai cấp và nhiệm vụ của quân đội. Từ đó tăng cường mối đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, xây dựng quyết tâm chiến đấu đến cùng vì thắng lợi của cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, đi đôi với nhiệm vụ chỉnh quân, cơ quan quân sự huyện và đại đội bộ đội địa phương đại đội du kích, các trung đội dân quân các xã còn tiếp tục được ôn luyện về kỹ thuật, chiến thuật cơ bản, học thêm kỹ thuật bắn mục tiêu di động, bắn máy bay… Sau một thời gian được củng cố và xây dựng toàn diện, lực lượng vũ trang huyện đã có bước trưởng thành, có thể làm nhiệm vụ tác chiến bảo vệ địa phương thay cho bộ đội chủ lực và dìu dắt huấn luyện dân quân trong toàn huyện ngày một trưởng thành. Cùng với nhiệm vụ chỉnh quân, luyện tập quân sự, trong cuộc đấu tranh chống bọn phản động, lực lượng vũ trang Hương Khê làm tốt nhiệm vụ hậu thuẫn vững vàng cho nhân dân đấu tranh trấn áp bọn phản động, điển hình là vụ Tây Hồ (Lộc Yên). Sau khi các phần tử phản động tuyên bố “Đình công kháng chiến”, công khai sắm gậy gộc, rào nhà thờ thay phiên nhau canh gác, tụ tập bọn trốn tránh nghĩa vụ quân sự, trốn dân công gây rối mất trật tự an ninh… Được Tiểu đoàn 290 bộ đội địa phương tỉnh hỗ trợ, bộ đội địa phương huyện đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trấn áp bọn phản động, bắt bọn cầm đầu gây rối ở Tây Hồ. Đồng thời cùng với các ban ngành xuống giúp địa phương tuyên truyền sâu rộng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Chính phủ, củng cố các tổ chức quần chúng, phát triển sản xuất, ổn định tình hình.
Thực hiện phong trào “Toàn dân sản xuất và tiết kiệm” của Chính phủ, Hà Tĩnh mở đầu cho phong trào bằng cuộc “đại vận động chống hạn” nhằm bảo đảm năng suất, sản lượng vụ chiêm đang bị hạn hán kéo dài. Cùng với toàn dân, lực lượng vũ trang huyện đã hăng hái ra đồng chống hạn cứu lúa. Chỉ một thời gian ngắn, toàn huyện đã cứu được hàng trăm héc ta lúa. Phong trào sản xuất tự cung, tự cấp và tiết kiệm trong bộ đội địa phương cũng phát triển mạnh. Các đơn vị đều lập trại tăng gia để trồng trọt, chăn nuôi, góp phần cải thiện đời sống cho bộ đội… Thắng lợi của cuộc đại vận động tăng gia sản xuất và tiết kiệm đã tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế huyện nhà phát triển. Nhờ vậy, mà từ năm 1952 trở đi, Hương Khê cũng như các địa phương trong toàn tỉnh Hà Tĩnh có điều kiện phát huy hơn nữa vai trò của hậu phương đối với tiền tuyến.
Theo yêu cầu của bạn Lào, tháng 4 năm 1953, bạn và ta mở chiến dịch Thượng Lào trên địa bàn Sầm Nưa - Xiêng Khoảng, Liên khu ủy 4 được giao nhiệm vụ bảo đảm cung cấp cho chiến trường này. Ba tháng trước khi mở chiến dịch, Trung ương giao cho liên khu làm hai tuyến đường chiến lược quan trọng. Hương Khê cùng với các địa phương trong toàn tỉnh, huy động 9.000 dân công làm con đường số 28 Truông Mèn (Hương Sơn) và sửa chữa tuyến đường Linh Cảm - Na Pê - Ba Na Phào. Đã có hàng trăm dân công, cán bộ, bộ đội Hương Khê không quản ngại gian khổ, hy sinh, trèo đèo lội suối, vượt qua hàng trăm ki lô mét đường rừng sang phối hợp cùng quân và dân Lào chiến đấu, tất cả vì thắng lợi chung của hai dân tộc.
Ngày 18 tháng 5 năm 1953, chiến dịch Thượng Lào kết thúc thắng lợi, Liên quân Việt - Lào đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam pu chia. Vùng giải phóng được mở rộng liên hoàn nối liền từ Việt Bắc, Tây Bắc đến Thượng Lào, Trung Lào và Liên khu 4, phá vỡ thế bao vây chia cắt chiến lược của địch từ phía tây, tạo ra một cục diện mới có lợi cho ta để tiến lên giành thắng lợi quyết định trong Đông Xuân 1953 - 1954.
Bị thất bại liên tiếp trên các chiến trường Hòa Bình (tháng 2 năm 1952), Tây Bắc (tháng 12 năm 1952), Thượng Lào (tháng 5 năm 1953) đã làm cho thực dân Pháp nhìn nhận một thực tế: Nước Pháp có nguy cơ thua trận hoặc ít ra không còn hy vọng thắng nổi trong cuộc chiến tranh kỳ lạ này. Được Mỹ tăng thêm viện trợ, tháng 5 năm 1953, Pháp ráo riết thực hiện kế hoạch Na Va, hòng giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường… Thực hiện kế hoạch Na Va, thực dân Pháp một mặt tập trung quân mở những cuộc hành quân càn quét lớn trong vùng chúng tạm chiếm đóng; mặt khác tăng cường đánh phá ác liệt vùng hậu phương chiến lược Thanh - Nghệ - Tĩnh nhằm làm suy yếu cuộc kháng chiến. ở Hà Tĩnh, từ đầu năm 1953, máy bay địch liên tục đánh phá đường giao thông, các cơ sở kinh tế và vùng đông dân cư của tỉnh, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản. Ngoài ra địch còn liên tiếp cho quân tập kích vào các xã ven biển và biên giới phía tây. Trên địa bàn Hương Khê, ngày 2 tháng 8 năm 1953, địch đã thả hai toán biệt kích xuống xã Hương Quang và xã Hương Giang, chúng đã bị quân và dân các địa phương tóm gọn.
 Trước những âm mưu, hành động đánh phá hậu phương của địch, thực hiện sự chỉ đạo của trên, Hương Khê cùng các huyện Hương Sơn và Đức Thọ thành lập thêm mỗi huyện một đại đội bộ đội địa phương. Khắp nơi nhân dân thực hiện rào làng chiến đấu, dựng chòi canh, làm hầm hào, sơ tán kho tàng của cải. Các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích cùng phối hợp luyện tập phương án tác chiến trên địa bàn đã được quy định.
Tháng 9 năm 1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc tiến công xâm lược Đông Xuân 1953 - 1954 nhằm phá vỡ âm mưu chiến lược mới của địch, giành một thắng lợi quyết định làm chuyển biến cục diện của cuộc chiến tranh. Trên cơ sở phân tích tình hình và so sánh lực lượng hai bên tại chiến trường Liên khu 4, quán triệt sâu sắc chủ trương chiến lược mới của Bộ chính trị Trung ương Đảng, hiểu rõ nhiệm vụ nặng nề của mình, Liên khu ủy đề ra hoạt động cho quân dân toàn liên khu: “Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh chiến tranh du kích… Tăng cường xây dựng và phát triển các đơn vị tình nguyện phối hợp giúp đỡ bạn về mọi mặt ở Trung Lào, xây dựng các đơn vị quân giải phóng và phát triển du kích, xây dựng căn cứ kháng chiến và cơ sở nhân dân, chuẩn bị cùng lực lượng của Bộ mở chiến dịch Trung Lào. Ra sức phục vụ tiền tuyến, tích cực xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; có kế hoạch bảo vệ vững chắc hậu phương chiến lược và đưa lực lượng đi phối hợp chiến đấu ở các chiến trường…”[6]
Thực hiện chủ trương của Liên khu ủy 4 trong việc phối hợp hoạt động với các chiến trường chính, cùng với việc tuyển quân, bổ sung quân để tỉnh xây dựng các đơn vị chủ lực, việc xây dựng bộ đội địa phương huyện cũng được chú trọng, củng cố kiện toàn các đại đội bộ đội địa phương huyện, phát triển thêm dân quân du kích các xã, đặc biệt các xã biên giới. Bên cạnh việc xây dựng bộ đội đủ số lượng, việc nâng cao chất lượng toàn diện cho cán bộ, chiến sỹ cũng được coi trọng. Thông qua các đợt chỉnh huấn chính trị đã nâng cao bản chất giai cấp công nhân của quân đội, xác định mục tiêu lý tưởng của cán bộ, chiến sỹ chiến đấu vì lợi ích sống còn của Tổ quốc, của nhân dân. Từ đó để xây dựng cho bộ đội tinh thần sẵn sàng hy sinh bảo vệ quê hương, đồng thời sẵn sàng lên đường tham gia chiến đấu ngoài mặt trận theo yêu cầu nhiệm vụ. Việc bồi dưỡng kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội dưới mọi hình thức cũng được quan tâm. Mở các đợt huấn luyện ngắn ngày cho bộ đội địa phương huyện, các lớp bồi dưỡng cán bộ xã, thôn, xóm, đội đủ năng lực chỉ huy dân quân du kích xây dựng, chiến đấu bảo vệ hậu phương.
Công tác tuyển quân, huấn luyện tân binh giữ vai trò quan trọng và cấp bách trong việc phát triển lực lượng. Sau khi hoàn thành kế hoạch tuyển và giao quân năm 1953, theo chỉ tiêu của tỉnh và liên khu giao, cơ quan quân sự huyện tham mưu cho cấp ủy Đảng các cấp làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân nhận rõ nhiệm vụ, động viên thanh niên sẵn sàng tòng quân giết giặc. Trước những thắng lợi của cuộc vận động quần chúng giảm tô, giảm tức và chiến thắng trên các chiến trường cổ vũ, nhân dân trong toàn huyện càng phấn khởi động viên chồng con, anh em lên đường nhập ngũ. Hầu hết thanh niên đều xung phong tòng quân đánh giặc cứu nước. Kết quả chỉ tiêu tỉnh giao cho Hương Khê trong Đông Xuân 1953 - 1954 tăng gấp 3 lần so với các năm trước, nhưng huyện đã thực hiện đầy đủ, vượt chỉ tiêu trên giao nhiều lần.
Ngày 21 tháng 12 năm 1953, tỉnh mở hội nghị bàn kế hoạch tác chiến bảo vệ địa phương. Hội nghị đã thảo luận và quyết định nhiều vấn đề cụ thể về: nắm địch, huấn luyện cho du kích, trinh sát viên, quân báo viên và quyết định tổ chức ngay lớp huấn luyện trinh sát và quân báo cho 2 vùng Nam và Bắc của tỉnh… Sau hội nghị Ban chỉ đạo thống nhất chỉ huy tác chiến ở huyện Hương Khê được thành lập gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Cung - Phó bí thư, Phó chủ tịch ủy ban, Mộng Ân - Huyện đội trưởng và Ban chỉ huy hai đại đội bộ đội địa phương huyện cùng đại đội du kích có nhiệm vụ thường xuyên nắm và nhận định tình hình địch, phối hợp bố trí lực lượng tác chiến, tiến hành những công việc phục vụ chiến đấu và phòng tránh giặc, điều động lực lượng, vũ khí theo yêu cầu chiến đấu trên từng địa bàn.
Không khí sục sôi chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương diễn ra khắp các xã, các ngành đoàn thể và nhân dân toàn huyện. Đảng bộ, quân và dân Hương Khê được Trung ương giao nhiệm vụ huy động nhân tài, vật lực, đồng thời là hậu phương trực tiếp địa bàn tập kết lực lượng, là nơi xuất phát của bộ đội, dân công tham gia chiến dịch Trung Lào, một hướng tiến công chiến lược quan trọng của quân và dân ta trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. Theo quyết định của Tổng quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh, ngày 18 tháng 11 năm 1953, một bộ phận của Sư đoàn 304 của Bộ từ Thanh Hóa vào hợp quân với Sư đoàn 325 ở Hương Khê thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch. Trung đoàn 280 quân tình nguyện Liên khu 4 và Tiểu đoàn 290 cùng Đại đội 55 bộ đội địa phương tỉnh Hà Tĩnh cũng được lệnh tham gia chiến dịch… Quân số tham gia chiến dịch lên tới 1 vạn cán bộ, chiến sỹ. Chiến dịch diễn ra trong gần 3 tháng, ta đã huy động 80.909 dân công với hơn 5 triệu ngày công, trong đó Hà Tĩnh đảm nhiệm phần chính. Hà Tĩnh đã xây dựng 37 trạm vận chuyển, huy động 56.000 thanh niên xung phong và dân công, trong đó có 28.300 người trực tiếp phục vụ chiến đấu và chiến đấu trên đất Lào với 1.299 chiếc thuyền, 394 xe đạp thồ phục vụ vận tải.[7]
Hương Khê đảm nhận nhiệm vụ là hậu phương trực tiếp của chiến dịch, Đảng bộ, quân và dân toàn huyện tập trung sức người, sức của với ý chí và tinh thần cao nhất phục vụ cho tiền tuyến. Hàng vạn dân công 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, trong đó có hàng ngàn dân công Hương Khê đã liên tục nạo vét sông Ngàn Sâu, tu sửa đường sắt bảo đảm cho các đoàn thuyền vận tải từ Đức Thọ chuyển lương thực lên Chợ Trúc, Chu Lễ, Chợ Sòng. Từ đó lực lượng dân công lại chuyển lên các ga đường sắt để goòng chuyển tiếp vào Quảng Bình, rồi từ Quảng Bình chuyển sang Mặt trận Trung Lào phục vụ bộ đội chiến đấu. Chu Lễ được chọn xây dựng thành tổng kho của mặt trận, nơi đặt phòng hậu cần của Sư đoàn 325 và 304. Lực lượng của hai sư đoàn này và dân công hỏa tuyến đã được nhận bổ sung trang bị vũ khí, lương thực, thực phẩm tại tổng kho Chu Lễ trước khi rời hậu phương ra tiền tuyến. Chỉ tính riêng đường goòng trong năm 1953 ta đã chuyên chở được 38.418 bộ đội và hành khách, hơn 3.700 tấn hàng hóa và 251 tấn hành lý.[8] Được hậu phương hết sức chi viện, chiến dịch Trung Lào đã kết thúc thắng lợi, chiến thắng của chiến dịch Trung Lào có phần đóng góp quan trọng của Đảng bộ, quân và dân Hương Khê, các lực lượng của ta cùng với lực lượng vũ trang cách mạng bạn làm phá sản kế hoạch tập trung quân của Na Va, tạo điều kiện thuận lợi cho các hướng chiến trường tiêu diệt địch.
Sau chiến thắng Trung Lào, cùng quân và dân cả nước, Hương Khê tiếp tục triển khai hàng loạt công tác cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến”. Tất cả mọi tầng lớp nhân dân từ già trẻ, gái trai đều hướng về Điện Biên Phủ. Người ra đi chiến đấu, phục vụ chiến đấu hứa hẹn lập công. Người ở lại vừa động viên người ra trận, vừa ra sức thi đua sản xuất để cung cấp thật nhiều cho tiền tuyến. Ngày 13 tháng 3 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, cuộc chiến đấu trên các hướng tiến công vào cứ điểm Điện Biên Phủ diễn ra vô cùng gay go quyết liệt, nhiều chiến sỹ ưu tú của quê hương Hà Tĩnh anh dũng chiến đấu và hy sinh vì thắng lợi của chiến dịch, tiêu biểu như Anh hùng, liệt sỹ Phan Đình Giót, Nguyễn Xuân Lực, Nguyễn Đô Lương... Trên mặt trận tiếp tế vận tải, dân công và thanh niên xung phong Hương Khê sát cánh cùng các đơn vị bạn vượt đèo cao, suối sâu và bom đạn ác liệt của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chỉ tiêu về công tác vận chuyển phục vụ cho chiến dịch thắng lợi. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, ta giành toàn thắng ở Điện Biên Phủ. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết.
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Đảng bộ, quân và dân Hương Khê bước vào một thời kỳ lịch sử mới, trước mắt tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, hoàn thành cải cách ruộng đất, đón nhận cán bộ, chiến sỹ và đồng bào miền Nam ra tập kết. Lực lượng vũ trang huyện tiếp tục được củng cố và xây dựng làm tốt vai trò nòng cốt, làm chỗ dựa cho địa phương tiến hành cải cách ruộng đất, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị địa bàn huyện, đặc biệt là ở vùng biên giới, góp phần cùng toàn dân tiến lên giành những thắng lợi mới trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.














Chương ba

Lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê trong cuộc kháng chiến chống mỹ, cứu nước
(1954 - 1975)

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ta đã giành được thắng lợi vẻ vang, nhưng chưa trọn vẹn, nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc chưa hoàn thành, một nửa nước thân yêu - trong đó có đồng bào hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên ruột thịt còn phải sống dưới nanh vuốt của kẻ thù Mỹ - ngụy. Cùng với quân và dân cả nước, Đảng bộ, quân và dân Hương Khê giương cao ngọn cờ “Quyết chiến, quyết thắng” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục đứng lên kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong suốt chín năm trường kỳ kháng chiến bền bỉ và oanh liệt, Hương Khê là một huyện thuộc vùng tự do, là huyện hậu phương của kháng chiến. Trên thực tế do vị trí địa lý của mình Hương Khê đã trở thành một hậu phương có tiềm lực khá về mọi mặt, là một ATK vững chắc của tỉnh Hà Tĩnh và Liên khu 4, một địa bàn đứng chân quan trọng của lực lượng vũ trang và cơ quan tỉnh bạn, của kháng chiến Lào. Đảng bộ, quân và dân Hương Khê vô cùng tự hào và phấn khởi bởi đã đóng góp phần xương máu, vật chất và tinh thần để có thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Bước vào thực hiện nhiệm vụ mới khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có hòa bình. Song cũng còn muôn vàn những khó khăn và thử thách, nền kinh tế huyện nhà hết sức nghèo nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân quá khó khăn, thêm vào đó là hậu quả của cuộc chiến tranh để lại còn nặng nề… Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, của Liên khu 4 và Tỉnh ủy, Hương Khê cùng với các địa phương trên miền Bắc, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển sản xuất, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, thực hiện mục tiêu hòa bình, thống nhất, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1. Cùng toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục và phát triển kinh tế, tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam (1954 - 1964).
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Theo những điều khoản của Hiệp định Pháp phải rút quân và tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãh thổ của ba nước Việt nam, Lào và Campuchia. Mỹ là một nước trực tiếp giúp Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương và là thành viên của Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhưng Mỹ đã không ký vào bản tuyên bố chung của Hiệp định. Với ý đồ chia cắt lâu dài đất nước ta, nên sau khi Hiệp định có hiệu lực, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam và dựng nên Chính phủ bù nhìn, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam. Được Mỹ trợ giúp và nuôi dưỡng, Ngô Đình Diệm tập trung xây dựng quân đội ngụy hùng mạnh và bắt đầu tập trung đánh phá phong trào cách mạng.
Với mưu đồ sâu xa và những hoạt động trực tiếp của Mỹ - Diệm, Vĩ tuyến 17 - giới tuyến quân sự tạm thời đã cắt đôi địa bàn Quân khu 4, các tỉnh nam và bắc vĩ tuyến trở thành nơi đụng đầu trực tiếp giữa lực lượng cách mạng và các thế lực phản cách mạng. Cùng với quân và dân cả nước, quân và dân Hương Khê đồng thời bước vào thực hiện cả hai nhiệm vụ mà Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng đề ra trong tháng 9 năm 1954: “Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và phát triển sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và phát triển cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc”.
Quán triệt nhiệm vụ của Đảng đã đề ra và căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, Huyện ủy chủ trương ra sức khôi phục kinh tế, khôi phục và phát triển sản xuất. Đồng thời tập trung lực lượng đối phó với âm mưu, hành động phá hoại của địch, giữ vững thành quả cách mạng mới giành được. Nhiệm vụ mới hết sức nặng nề, song được sự quan tâm giúp đỡ chỉ đạo của Liên khu 4, của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, nhân dân và lực lượng vũ trang Hương Khê bắt tay ngay vào trận tuyến mới, mỗi ngày có hàng ngàn người làm việc trên các tuyến đường, các cánh đồng nhằm tập trung sửa chữa cầu cống, đê điều, khai hoang phục hóa ruộng đất. Cơ quan, nhà máy, xí nghiệp lần lượt được củng cố và xây dựng. Lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích huyện xung kích làm nòng cốt cho việc tu sửa các công trình thủy lợi, đào đắp kênh mương dẫn nước, phục hóa, khai hoang mở rộng diện tích canh tác.
Trước tình hình địch ra sức lôi kéo, cưỡng ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa di cư vào Nam, với ý đồ tạo ra những cuộc bạo loạn chính trị, bổ sung lực lượng cho chính quyền Diệm… Thực hiện sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy, sau Hội nghị tuyên giáo vận (tháng 10 năm 1954), Huyện ủy Hương Khê thành lập Ban chống di cư, chỉ đạo cơ quan quân sự huyện, công an, tòa án tổ chức các đoàn công tác về vùng đồng bào có đạo tuyên truyền, giải thích chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ. Mặt khác, trực tiếp cảnh cáo những phần tử phản động, xuyên tạc chính sách, gây chia rẽ lương giáo, chia rẽ nhân dân… Nhờ sự chỉ đạo tích cực và đúng đắn của Ban chống di cư, sự nhạy bén của cán bộ quân sự, công an, tòa án và tinh thần giác ngộ của nhân dân, nên cơ bản ở Hương Khê ta vẫn giữ được đồng bào, số di cư không nhiều và không ảnh hưởng lớn đến tình hình chung của huyện.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, cùng với việc củng cố xây dựng chính quyền và các đoàn thể quần chúng, lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê cũng nhanh chóng được kiện toàn, phát triển từng bước vững chắc, có hệ thống từ huyện đến các làng xã, là lực lượng nòng cốt để cùng Đảng bộ và toàn dân ra sức thực hiện các nhiệm vụ khắc  phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, giữ vững ổn định tình hình, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Theo yêu cầu nhiệm vụ, đầu năm 1955 cấp trên điều động và bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Văn Tư làm huyện đội trưởng thay đồng chí Mộng Ân.
Về tình hình kinh tế, nhìn chung tuy có nhiều cố gắng trong sản xuất, song Hương Khê vừa bị một trận lụt lớn (tháng 10 năm 1954), nên tình hình kinh tế, đời sống của nhân dân sau hòa bình vẫn còn nhiều khó khăn. Thực hiện Chỉ thị (ngày 3 tháng 11 năm 1954) của Ban Bí thư Trung ương Đảng về phòng, chống đói và phục hồi sản xuất, theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, đầu năm 1955, Huyện ủy Hương Khê mở Hội nghị quân dân chính đảng, phát động phong trào tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Đồng thời kêu gọi mọi tâng lớp nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, giải quyết nạn đói lúc giáp hạn. Với chủ trương này nhân dân toàn huyện đã có nhiều hình thức giúp nhau sản xuất, giảm thiếu sự thiếu đói, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa nhiều do công tác chỉ đạo nhiều địa phương còn lệch lạc, trông chờ, ỷ lại cấp trên, chưa có nhiều biện pháp cụ thể, chủ động; việc huy động các nhà khá giả ủng hộ nhà nghèo còn hạn chế… nên tình trạng thiếu đói gay gắt vẫn xẩy ra ở nhiều làng xã.
Để giải quyết vấn đề cơ bản của xản xuất nông nghiệp là ruộng đất và giải phóng sức lao động, Đảng ta chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất, tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trên thực tế, ở Hương Khê từ trong kháng chiến đã thực hiện một phần quan trọng cuộc phát động quần chúng triệt để giảm tô, bước đầu cải cách ruộng đất, đưa lại nhiều kết quả có lợi cho nông dân. Sau hòa bình, thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ chỉ đạo tiến hành cải cách ruộng đất sâu rộng quy mô toàn huyện. Cùng với các địa phương trong toàn tỉnh, đầu năm 1955, toàn huyện triển khai các cuộc đấu tranh chống địa chủ, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”… và liên tục trong nhiều tháng, nhân dân Hương Khê đã vùng lên thực hiện ước mơ của mình, giành ruộng đất của địa chủ về tay mình. Việc cải cách ruộng đất đã dáp ứng nguyện vọng sâu xa và cấp bách của đông đảo nông dân trong toàn huyện. Các đội công tác được phái về các xã kết hợp với lực lượng vũ trang và cán bộ địa phương phát động quần chúng đấu tranh, thực hiện trưng thu, trưng mua hàng nghìn héc ta ruộng đất, trâu bò, nông cụ sản xuất, nhà cửa, lương thực, chia cho các gia đình bần cố nông và trung nông lớp dưới. Cải cách ruộng đất tuy mắc phải một số sai lầm do các đội cải cách không dựa vào tổ chức Đảng và chính quyền nhân dân cơ sở, quan liêu không sát thực tế… nên dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Song về cơ bản là thắng lợi, niềm ước mơ ngàn đời của người nông dân đã được thực hiện, từ địa vị thấp hèn lệ thuộc vào địa chủ phong kiến, nông dân đã trở thành người tự do, làm chủ trong đời sống kinh tế, chính trị và mọi hoạt động xã hội.
Khi phát hiện ra những sai làm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất, tháng 10 năm 1956, Đảng ta chủ trương kiên quyết sửa sai. Cuối năm 1956, những chủ trương sửa sai của Đảng được phổ biến học tập trong cán bộ, nhân dân và toàn thể lực lượng vũ trang huyện, sau đó Huyện ủy lâm thời được lập lại gồm 8 đồng chí, do đồng chí Trần Đình Hậu làm Bí thư. Sau khi được củng cố, Đảng bộ tập trung phân tích nhận rõ nguyên nhân của những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Sai lầm lớn nhất là do trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên thấp kém, không thấy hết thực trạng nông thôn sau cách mạng tháng Tám đã có những thay đổi nhiều, nhất là cuộc kháng chiến ở hoàn cảnh vùng tự do đã cuốn hút phần lớn địa chủ cũng như con cái họ phục vụ cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Bằng nhiều chính sách khác nhau từng bước đưa lại ruộng đất cho nông dân, số ruộng đất địa chủ chiếm hữu không còn nhiều… Mặt khác, việc giao quá nhiều quyền hành cho đội cải cách, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng và chính quyền địa phương là sai lầm lớn, từ đó dẫn đến tình trạng bột phát, vô chính phủ của một bộ phận quần chúng, khiến cho vấn đề vốn đã phức tạp lại càng phức tạp thêm.
Thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng về công tác sửa sai, Đảng bộ đã chỉ đạo các đội sửa sai nhìn thẳng vào khuyết điểm, kiên quyết sửa sai cho nhân dân. Việc củng cố, khôi phục Đảng bộ được khẩn trương tiến hành song song với việc sửa sai. Một số cán bộ, đảng viên trưởng thành trong cải cách ruộng đất và một số cán bộ cũ lần lượt ra tù, được phục hồi công tác. Cơ quan quân sự huyện và các xã được kiện toàn củng cố, hàng ngàn đội viên dân quân được minh oan, tổ chức dân quân tự vệ được củng cố về mọi mặt, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ mới.
Đến cuối năm 1957, về cơ bản Hương Khê đã hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định tình hình, sản xuất có bước phát triển, văn hóa xã hội có sự tiến bộ. Nhưng nhìn chung cơ bản nền kinh tế nông nghiệp Hương Khê vẫn manh mún, lạc hậu, năng suất thấp, diện tích canh tác ít, bên cạnh đó lại thường xuyên bị thiên tai, nên đời sống nhân dân luôn bấp bênh. Xuất phát từ những đặc điểm này Huyện ủy tiếp tục phát động phong trào tổ đội công trong toàn huyện, nhằm nâng cao sức sản xuất cho người nông dân, đoàn kết họ lại để giải quyết những khó khăn mà từng hộ riêng lẻ không thể giải quyết được. Lực lượng vũ trang huyện cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên và các ban ngành đoàn thể vừa gương mẫu vận động gia đình vào tổ đổi công phát triển sản xuất. Nhiều hình thức tuyên truyền phong trào hợp tác hóa được tổ chức. Các cuộc rước đuốc, hô khẩu hiệu của thanh thiếu niên được tổ chức hàng đêm khắp các thôn, xã; các khẩu hiệu cổ vũ cho nông dân vào con đường làm ăn tập thể, các đội ca kịch phê phán làm ăn cá thể, nêu gương tinh thần tập thể… được tiến hành rầm rộ và đưa lại hiệu quả thiết thực.
Từ những tổ đổi công mới được hình thành, Đảng bộ chỉ đạo xây dựng thành các hợp tác xã như Hương Hà, Hương Thanh, Hương Long, Hương Thủy, Hương Phố… Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, đặc biệt lực lượng dân quân là những người đi đầu trong phong trào xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Các tổ đổi công được xây dựng khắp nơi trong huyện, trên cơ sở những tổ đổi công làm ăn tốt, số hộ đông, quản lý có hiệu quả, Đảng bộ chỉ đạo cho xây dựng thành các hợp tác xã cấp thấp. Nguyên tắc chung về xây dựng hợp tác xã là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi. Ruộng đất, công cụ, trâu bò của các hộ góp vào hợp tác xã được trả dần qua khấu hao trên cơ sở hoa lợi thu nhập hàng năm của hợp tác xã. Đất 5% được duy trì cho hộ xã viên. Công việc trong hợp tác xã được phân công quy thành công (10 điểm là 1 công) để cuối vụ nhận sản phẩm.
Tháng 3 năm 1957, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ XII bàn một số nội dung về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng chi viện cho sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam. Nghị quyết hội nghị xác định: “Phải xây dựng một quân đội hùng mạnh, tiến hành từng bước chính quy hóa, hiện đại hóa. Kết hợp xây dựng lực lượng thường trực có số lượng thích hợp, chất lượng cao với xây dựng một lực lượng hậu bị hùng hậu, rộng khắp”. Thực hiện Nghị quyết này của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Hà Tĩnh mở một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn tỉnh với nội dung tập trung xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Qua đợt học tập, nhận thức về tư tưởng các ngành, các cấp, các đơn vị trong lực lượng vũ trang Hương Khê có những chuyển biến sâu sắc. Từ cơ quan Huyện đội đến Xã đội  đã vạch ra được chương trình hành động cụ thể cho đơn vị mình trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ngày một hùng hậu. Đặc biệt, có kế hoạch xây dựng cơ quan, đơn vị toàn diện, trong đó lấy công tác huấn luyện làm trọng tâm, triển khai và chuẩn bị mọi mặt chuyển phương thức tác chiến hiện đại, xác định rõ kẻ thù và đối tượng tác chiến trong huấn luyện gắn với những yêu cầu cụ thể của nhiệm vụ.
Nhằm tăng cường củng cố quốc phòng, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang trong cả nước, ngày 3 tháng 6 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 017/SL thành lập các quân khu trên cơ sở các Liên khu được hình thành từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Theo đó, Quân khu 4 được thành lập trên cơ sở Liên khu 4, lực lượng vũ trang Hà Tĩnh được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và sự lãnh đạo, điều hành của Tỉnh ủy, ủy ban hành chính tỉnh. Sau ngày Quân khu 4 được thành lập, cơ quan Huyện đội Hương Khê cũng được củng cố, đồng chí Nguyễn Triêm được cấp trên bổ nhiệm làm Huyện đội trưởng thay đồng chí Nguyễn Văn Tư. (Chính trị viên giai đoạn này chưa rõ). Quán triệt phương hướng, nhiệm vụ của Đảng ủy Tỉnh đội, chi bộ Huyện đội và chi bộ các đại đội bộ đội địa phương xác định trọng tâm giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhận thức đầy đủ nhiệm vụ chính trị của cơ quan và từng đơn vị; tăng cường công tác vận động quần chúng và thực hiện đúng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, giữ gìn mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy tập trung triển khai toàn diện mọi mặt, trong đó đẩy mạnh cuộc vận động trong toàn lực lượng vũ trang huyện, đẩy mạnh đợt chỉnh huấn mùa hè, trọng tâm chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa tồn tại khá nghiêm trọng trong Đảng và tầng lớp thanh niên.
Sau sửa sai phục hồi cải cách ruộng đất, hàng ngũ dân quân Hương Khê cũng như toàn tỉnh Hà Tĩnh được phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng; kinh nghiệm và khả năng công tác có phần tăng thêm. Cho đến cuối năm 1967 toàn huyện đã kiện toàn được 39 Ban chỉ huy xã đội, hơn 100 xóm đội; phục hồi, tổ chức minh oan cho hàng trăm dân quân; tổ chức học tập cho 39 xã đội, thời gian 7 ngày ở tỉnh đạt tỷ lệ gần 90% quân số; hơn 100 cán bộ xóm thời gian 5 ngày tại huyện. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, chi bộ Huyện đội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chú trọng khâu quản lý bộ đội, quản lý cơ sở vật chất trang bị kỹ thuật. Nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chi bộ lãnh đạo trung tâm, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ bằng tập huấn, hội thao kỹ thuật, chiến thuật, mở rộng dân chủ, xây dựng điển hình và học tập điển hình, chống bảo thủ, máy móc trong huấn luyện. Phong trào toàn dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang và phong trào thi đua học tập, rèn luyện trong cơ quan quân sự huyện, các đơn vị bộ đội, dân quân du kích có những bước chuyển biến mới.
Để chủ động đối phó với mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, tháng 2 năm 1958, Quân khu ủy ra Nghị quyết về nhiệm vụ phòng thủ sẵn sàng chiến đấu, tỉnh Hà Tĩnh được xác định là khu vực trung tâm trong kế hoạch phòng thủ của quân khu. Cán bộ Huyện đội đã tham dự lớp tập huấn cán bộ tại Ban chỉ huy Tỉnh đội, nhằm tiếp thu tình nhiệm vụ và kế hoạch phòng thủ của huyện. Sau tập huấn, trên cơ sở kế hoạch phòng thủ chung của Tỉnh đã được Bộ Tư lệnh quân khu phê duyệt, đến tháng 5 năm 1958, Hương Khê xây dựng hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ. Kế hoạch phòng thủ được Thường vụ Huyện ủy thông qua và được cấp trên phê duyệt đã trở thành pháp lệnh thực hiện của các ngành, các cấp, các đơn vị lực lượng vũ trang huyện. Lực lượng vũ trang huyện được điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Huyện thành lập thêm một đại đội bộ đội địa phương đảm nhiệm khu vực phòng thủ của huyện. ở các xã, thành lập Ban chỉ huy thống nhất gồm: Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, xã đội trưởng, công an trưởng để kiểm tra đôn đốc việc huấn luyện, tuần tra, canh gác, sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dân quân du kích ở địa phương.
Tháng 8 năm 1958, hưởng ứng đợt phát động huấn luyện quân sự tập trung trong các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích của Ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội Hương Khê tổ chức đợt huấn luyện kéo dài 15 ngày, với mục đích nhằm làm cho cán bộ, chiến sỹ nâng cao nhận thức về tình hình nhiệm vụ. Nội dung huấn luyện, tập trung vào huấn luyện các môn kỹ, chiến thuật như: Kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn; chiến thuật phòng ngự, tấn công của cá nhân, tiểu đội. Sau đợt huấn luyện, phong trào xây dựng nếp sống chính quy, sãn sàng chiến đấu trong lực lượng vũ trang huyện đã có bước chuyển biến có chất lượng tốt.
Sau Hội nghị Đảng ủy Tỉnh đội (ngày 27 tháng 01 năm 1958), Đảng ủy Tỉnh đội tập trung chỉ đạo đại hội, kiện toàn cấp ủy Đảng các cấp. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng ủy Tỉnh đội, chi bộ Huyện đội Hương Khê tổ chức đại hội chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc thủ tục. Đồng chí Trần Đình Hậu - Bí thư Huyện ủy phụ trách chính trị viên Huyện đội thường xuyên quan tâm đến công tác quân sự; giúp đỡ và góp nhiều ý kiến cho đội ngũ cán bộ Huyện đội. ở xã, các chi ủy cũng có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, trong Huyện ủy, hiện tượng ai lo việc nấy, thiếu chú ý đến công tác xây dựng lực lượng, củng cố quốc phòng, có lúc có nơi còn biểu hiện khoán trắng cho ngành và đồng chí phụ trách quân sự. Ban chấp hành Đảng bộ thường giao cho Thường vụ, trong đó Thường vụ lại quy cho Bí thư  kiêm chính trị viên… ở địa phương các xã, có xã cán bộ xã đội trưởng làm việc khác, nhưng công việc vẫn không giao cho người khác, hoặc có cán bộ tinh thần trách nhiệm yếu, không chú ý đến công việc. Cũng còn có những đồng chí phụ trách quân sự chưa có kế hoạch, chưa tham mưu cho cấp ủy, chính quyền hiểu toàn diện các vấn đề để đôn đốc cấp dưới thực hiện.
Cuối năm 1958, Hương Khê cùng với các địa phương trong toàn tỉnh triển khai học tập luật nghĩa vụ quân sự đầu tiên. Sau khi được học tập toàn huyện thực hiện nghiêm chỉnh luật nghĩa vụ quân sự, có 100% thanh niên ở độ tuổi đã đăng ký khám tuyển quân sự. Cơ quan quân sự huyện phối hợp với chính quền địa phương lập kế hoạch đăng ký, quản lý, nắm chắc thực lực quân số để chuẩn bị cho việc thực hiện luật nghĩa vụ quân sự đợt đầu tiên. Năm 1958, Hương Khê có gần 200 thanh niên lên đường nhập ngũ.
Thực hiện chủ trương chỉnh biên cơ quan tỉnh, huyện đội của Bộ quốc phòng, Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh quân khu chỉ thị một số điểm để tiến hành trong toàn tỉnh Hà Tĩnh:
- Xác định những chức trách, nhiệm vụ và biên chế gọn nhẹ, nhằm nâng cao chất lượng công tác của cơ quan. Trong lúc tiến hành chỉnh biên kết hợp với công tác giáo dục chức trách, nhiệm vụ, cần đấu tranh với những tư tưởng tác phong xấu ảnh hưởng đến nhiệm vụ cơ quan.
- Việc học tập chức trách, nhiệm vụ và tiến hành tổ chức lại cán bộ trong cơ quan Tỉnh, Huyện đội phải hoàn thành trong tháng 11 năm 1958, trường hợp chưa giải quyết xong chậm nhất đến ngày 12 tháng 12 năm 1958 phải hoàn thành. Biên chế cơ quan tỉnh đội, huyện đội như sau:
Biên chế của Tỉnh đội thuộc loại vừa, thêm 2 cán bộ sơ cấp tổng cộng có 54 người. Huyện đội bộ 72/51 cán bộ sơ cấp, 21 Hạ sỹ quan. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, chi bộ Huyện đội Hương Khê luôn tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng ủy Tỉnh đội và của Huyện ủy Hương Khê. Đồng chí Bùi Đình Quang - Bí thư chi bộ, chính trị viên Huyện đội, đồng thời là ủy viên Thường vụ Huyện ủy. Đồng chí đã cùng với Ban chỉ huy Huyện đội tham mưu cho cấp ủy, chính quền địa phương và chịu trách nhiệm về mặt quân sự quốc phòng của huyện. Thay mặt cho chi bộ quân sự huyện, đề xuất về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương. Thực hiện chủ trương của Đảng ủy Tỉnh đội về đẩy mạnh công tác huấn luyện, Huyện đội Hương Khê thường xuyên chỉ đạo chặt chẽ gắn kết giữa huấn luyện quân sự và huấn luyện chính trị, triển khai hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang địa phương nói chung và công tác huấn luyện nói riêng. Công tác đảng, công tác chính trị đã đi sâu vào công tác huấn luyện quân sự, quán triệt quan điểm tư tưởng quân sự vào nội dung và phương pháp huấn luyện sát với mỗi hình thức chiến thuật. Cũng từ năm 1958, chi bộ quân sự, Ban chỉ huy Huyện đội Hương Khê đã thực hiện tốt đợt học tập Điều lệ công tác chính trị, học sâu phần những quy định chung và điều lệ quy định hoạt động của các cấp, các mặt công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội của cơ quan Huyện đội.
Từ năm 1958, cùng với toàn dân, lực lượng vũ trang vũ trang Hương Khê thực hiện các chế độ tiền lương, quân hàm, khen thưởng do Nhà nước ban hành. Hoạt động của công tác tư tưởng kết hợp với hoạt động công tác tổ chức, chính sách đã góp phần làm cho Luật sỹ quân, Luật nghĩa vụ quân sự nhanh chóng đi vào cuộc sống nhân dân. Từ đó, khắc phục được những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và hành động cụ thể của cán bộ, chiến sỹ, tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đến đầu năm 1959, khả năng phòng thủ của huyện được tăng cường, cơ quan quân sự huyện và các đại đội bộ đội địa phương huyện đã xây dựng xong quyết tâm phòng thủ và hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến của huyện. Đi đôi với nhiệm vụ củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân huyện, các lĩnh vực văn hóa, xã hội của Hương Khê thời kỳ này cũng có bước khởi sắc, hầu hết con em trong huyện đều được đến trường học. Các xã đều có trường phổ thông cấp 1; một số xã như Hương Phố, Hương Bình, Hương Thanh có trường cấp II… Kinh tế, văn hóa cũng có bước phát triển, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Đảng bộ Hương Khê sau những khó khăn đã được kiện toàn. Tháng 9 năm 1959, Đảng bộ Hương Khê tổ chức Hội nghị Đảng bộ, hội nghị có nhiệm vụ hết sức quan trọng là thành lập Huyện ủy chính thức. Hội nghị đã tập trung kiểm điểm công tác lãnh đạo khôi phục kinh tế trong thời gian qua, đồng thời bàn phương hướng lãnh đạo trong thời gian tới. Hội nghị bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 19 đồng chí, do đồng chí Trần Đình Hậu làm Bí thư. Sau khi Huyện ủy chính thức được thành lập, cơ quan quân sự huyện cũng được củng cố và tăng cường. Đồng chí Trần Xuân Niệm được bổ nhiệm làm huyện đội trưởng thay đồng chí Nguyễn Triêm. Đồng chí Bùi Đình Quang làm chính trị viên Huyện đội.
Ngày 12 tháng 7 năm 1960, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân khu 4 lần thứ nhất (Quân khu 4 được thành lập năm 1957 trên cơ sở phát triển từ Liên khu 4 trong chống Pháp), nghị quyết đại hội đã đề ra những nội dung cơ bản cho việc xây dựng lực lượng vũ trang quân khu trong giai đoạn cách mạng mới, Nghị quyết nhấn mạnh: “Tăng cường công tác phòng thủ trị an, xây dựng bộ đội tiến lên chính quy và tương đối hiện đại, xây dựng lực lượng hậu bị tiến bộ đều khắp, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng quốc phòng với củng cố hậu phương vững mạnh”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ quân khu, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, chỉ huy Tỉnh đội và của Huyện ủy, Hương Khê đã hoàn thành kế hoạch công tác phòng thủ trị an ở 11 xã, đồng thời Huyện đội tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến phòng thủ huyện theo đúng quy định của trên.
Trước những hoạt động khiêu khích phá hoại của máy bay do thám địch và các hoạt động của bọn phản động địa phương, bọn địa chủ, gián điệp… Huyện ủy đã phát động đợt học tập chính trị sâu rộng trong lực lượng vũ trang. Qua các đợt học tập chính trị, Chi ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện đã triển khai việc giáo dục cho dân quân tự vệ nhận thức quan điểm chiến tranh nhân dân, trách nhiệm của lực lượng hậu bị đối với công tác củng cố quốc phòng. Công tác của tổ trinh sát liên lạc, quân báo nhân dân cũng được củng cố, có xã đã tổ chức được hai tiểu đội, có xã có một tiểu đội trực thuộc xã đội. Trong công tác phòng thủ trị an hai xã Hương Long và Hương Quang có nhiều thành tích cao, được trên khen ngợi. Các đơn vị đã củng cố được đường dây liên lạc từ xã lên huyện, dân quân du kích đã có ý thức và chấp hành nghiêm nhiệm vụ tuần tra canh gác bảo đảm an ninh trật tự, nhất là dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc. Bên cạnh những thành tích đạt được trong công tác phòng thủ trị an, vẫn còn bộc lộ một số điểm yếu như ý thức cảnh giác của cán bộ, chiến sỹ còn yếu, còn bị động, nắm tình hình không chắc, không liên tục. Một số xã triển khai chậm, chất lượng còn yếu.
Đánh giá những thành tích đạt được trong năm 1960, xã Hương Châu (Hương Khê) cùng với các xã Kỳ Thịnh (Kỳ Anh), Thạch Bắc (Thạch Hà), Yên Lộc (Can Lộc), Đức Sơn (Đức Thọ), Sơn Trường (Hương Sơn), được chọn là đơn vị lá cờ đầu của các huyện. Phong trào xây dựng lực lượng dân quân trong toàn huyện cũng được phát triển mạnh khi có cuộc vận động giành danh hiệu tiên tiến, đơn vị tiên tiến, chiến sỹ tiên tiến do tỉnh phát động. Phong trào luyện tập quân sự cũng diễn ra sôi nổi khắp các làng xã, các cơ quan đơn vị tự vệ đã hoàn thành chương trình huấn luyện cả năm, cơ quan quân sự huyện và các xã biên giới đã làm xong kế hoạch tác chiến theo phương án chỉ đạo của tỉnh và Quân khu.
Năm 1960, huyện đã thành lập thêm một số đại đội và trung đội tự vệ ở các cơ quan, nông trường xí nghiệp. Lực lượng dân quân du kích tự vệ được chuyển hướng xây dựng theo yêu cầu: vừa rộng rãi, vừa vững chắc, quy mô tổ chức chủ yếu là tiểu đội, trung đội; nơi có điều kiện thì tổ chức thành đại đội. Việc biên chế, tổ chức dân quân du kích ở cơ sở đã gắn chặt với đơn vị tổ, đội sản xuất theo quy mô tổ chức của từng hợp tác xã. Đảng ủy, Chi ủy, Chi bộ trực tiếp lãnh đạo lực lượng dân quân du kích và phân công Cấp ủy, đảng viên sang giữ cương vị chỉ huy xã đội, thôn đội. Số quân nhân phục viên được bổ sung vào đội ngũ cán bộ trung đội, tiểu đội. Những người không đủ tiêu chuẩn chính trị, sức khỏe đều được đưa ra khỏi đội ngũ.
Để phù hợp với phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, kết hợp được giữa hoạt động sản xuất với hoạt động quân sự, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh đội, Huyện đội tổ chức biên chế dân quân theo từng hợp tác xã, ở các vùng xung yếu, vùng biên giới của huyện, tự vệ cơ quan, công nông trường, xí nghiệp được chú ý xây dựng trên tất cả các mặt và đã giành được kết quả bước đầu. Các chế độ về bảo quản vũ khí, trang bị, hội họp trị an, quản lý thực lực cũng được duy trì thực hiện. Trong các chiến dịch phục vụ cho sản xuất mùa, đắp đập thủy lợi và hộ đê chống lụt, lực lượng dân quân du kích, tự vệ của huyện là lực lượng nòng cốt. Qua các phong trào này đã rèn luyện thêm ý thức tổ chức kỷ luật cho dân quân. Hưởng ứng phong trào thi đua 3 nhất trong các lực lượng vũ trang, Đảng ủy, chỉ huy Tỉnh đội mở chiến dịch làm thủy lợi kết hợp với huấn luyện quân sự cho dân quân du kích. Hương Khê cùng với các huyện Hương Sơn, Thạch Hà, Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc… đều hoàn thành tốt khối lượng công việc được giao và đạt kết quả trong huấn luyện quân sự, học tập chính trị.
Cuối tháng 12 năm 1960, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy về củng cố tổ chức dân quân trong vùng đồng bào Thiên chúa giáo, Chi ủy, Ban chỉ huy Huyện đội tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo tốt việc củng cố xây dựng lực lượng vũ trang vùng Thiên chúa giáo, trước hết làm cho cấp ủy các cấp nhận rõ đặc điểm và vị trí của vùng Thiên chúa giáo, sau đó bố trí một số cán bộ đi chỉ đạo để rút kinh nghiệm về mọi mặt. Sau khi rút kinh nghiệm, Ban chỉ huy quân sự Huyện đội cử một số cán bộ chuyên trách về vấn đề này. Tuy nhiên một số cấp ủy ở một số xã chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, chưa thường xuyên quan tâm về vấn đề này. Một số xã đội đã bố trí cán bộ chuyên trách nhưng thiếu sâu sát, nên không nắm chắc tình hình, vì vậy chưa đề xuất được ý kiến giúp cho Huyện ủy, Huyện đội kịp thời có những chủ trương, biện pháp cụ thể làm chuyển biến nhanh tình hình.
Theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9 năm 1960) của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội Đảng bộ vòng 2 triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tại địa phương. Đại hội xác định nhiệm vụ của Đảng bộ trong năm 1961 là tích cực củng cố và phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, xây dựng một số hợp tác xã cấp cao, ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện… Đẩy mạnh sự nghiệp phát triển văn hóa, y tế, giáo dục; củng cố chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang địa phương bảo đảm hoàn thành mọi nhiệm vụ… góp phần củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hòa bình, thống nhất đất nước.[9]
Thực hiện những chủ trương của Đảng bộ huyện, năm 1961 là năm Hương Khê đẩy mạnh mọi mặt hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng an ninh. Phong trào thi đua với hợp tác xã Đại Phong (Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) được phát động trong toàn huyện. Đối với nhiệm vụ quốc phòng an ninh, đầu tháng 1 năm 1961, sau khi bộ đội Pa thét Lào và lực lượng trung lập phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam tiến công giải phóng toàn bộ Cánh đồng Chum và Xiêng Khoảng, thị xã Phông-xa-lỳ, Bản Ban. Lợi dụng những sơ hở của địch ở chiến trường Trung - Hạ Lào, theo yêu cầu của bạn, thực hiện lệnh của Bộ quốc phòng, lực lượng vũ trang Hà Tĩnh được Quân khu 4 giao nhiệm vụ giúp bạn chiến đấu trên mặt trận đường số 8. Ban chỉ huy Tỉnh đội đã điều động Tiểu đoàn 44 bộ đội địa phương tỉnh cùng 2.000 dân công hỏa tuyến lên đường làm nhiệm vụ. Trong số 2.000 dân công hỏa tuyến lên đường làm nhiệm vụ trong tháng 4 năm 1961 chủ yếu là người của Hương Sơn, Hương Khê và Đức Thọ. Ngoài việc điều động lực lượng dân quân du kích tham gia dân công hỏa tuyến, lực lượng vũ trang huyện còn được điều động một số cán bộ, chiến sỹ lên đường 8A, 8B làm nhiệm vụ. Các đơn vị bộ đội địa phương và dân công hỏa tuyến đã khắc phục muôn vàn khó khăn gian khổ và ác liệt, chiến đấu dũng cảm, hăng hái xung phong phối hợp chặt chẽ với lực lượng bạn Lào cùng quân tình nguyện giải phóng đường số 12 và đường 8 từ Lạc Sao đến Nhom Ma Rát, khống chế toàn bộ đường 12 từ biên giới Việt - Lào đến Na Du, một địa bàn chiến lược quan trọng ở Trung Lào.
Từ giữa năm 1961, trước những âm mưu hoạt động gia tăng của địch, ngày 5 tháng 6 năm 1961, Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh chỉ thị cho các địa phương đề phòng và chuẩn bị đối phó với âm mưu của địch tung biệt kích phá hoại. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, cơ quan quân sự huyện phối hợp với công an, công an vũ trang họp nhận định tình hình và dự kiến các trọng điểm địch có thể hoạt động, đồng thời bàn kế hoạch đối phó cụ thể, phân công cán bộ về các xã truyền đạt chỉ thị của Tỉnh ủy, giúp các địa phương xây dựng kế hoạch chống gián điệp, biệt kích. Xuất phát từ đặc điểm là huyện miền núi, có đường biên giới hiểm trở, nên kế hoạch chống biệt kích được xác định là một nội dung quan trọng trong kế hoạch phòng thủ của toàn huyện Hương Khê. Dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ huy Tỉnh đội, huyện chọn xã Hương Quang làm kế hoạch trước để rút kinh nghiệm cho các xã khác. Đến tháng 7 năm 1961, Hương Khê cơ bản đã hoàn thành kế hoạch phòng thủ chống biệt kích và bắt đầu đi vào huấn luyện, diễn tập thực binh theo phương án. Các đội giao thông liên lạc đã được thành lập ở các xã, một số đội đã tiến hành tập thử. Chỉ thị chống biệt kích địch được Đảng ủy, Ban chỉ huy xã đội và các chi bộ quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc.
Trong năm 1961, công tác xây dựng củng cố tổ chức dân quân tự vệ đã đi vào trọng tâm, trọng điểm. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương toàn huyện tập trung chỉ đạo củng cố, xây dựng lực lượng ở những vùng xung yếu trên tuyến biên giới và những vùng còn yếu. Bằng những biện pháp cụ thể, trước hết là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, phát huy vai trò của chính quyền và các đoàn thể quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp để làm chuyển biến tình hình chung. Cơ quan quân sự huyện cử những cán bộ có kinh nghiệm về giúp cơ sở xây dựng dân quân. Đội ngũ dân quân được chọn lựa kỹ và đưa ra quần chúng bình bầu… Nên chất lượng dân quân tương đối tốt, họ thực sự là những người gương mẫu, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.[10] Đặc biệt ở vùng công giáo của huyện, sau khi tiến hành liên tục các đợt sinh hoạt chính trị, tổ chức dân quân đã được củng cố, có 80% dân quân vào hợp tác xã và tổ đổi công.
Thực hiện Nghị định 217 của Hội đồng Chính phủ về điều lệ đăng ký, thống kê, quản lý quân dự bị, đăng ký các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho nhu cầu của cuộc chiến tranh, Huyện đội Hương Khê đã cử cán bộ dự lớp bồi dưỡng cán bộ do Tỉnh đội tổ chức về ngiệp vụ công tác đăng ký, thống kê và quản lý lực lượng dự bị động viên ở địa phương. Trong đợt đăng ký đầu năm, Hương Khê cùng các địa phương trong toàn tỉnh đã thống kê được 65.277 người trong độ tuổi, hơn 2.000 tàu thuyền và 11.526 xe các loại. Sau đó, Huyện đội tiếp tục cử cán bộ dự các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cử những chiến sỹ xuất sắc dự lớp đào tạo hạ sỹ quan và bổ túc sỹ quan của tỉnh. Đồng thời làm tốt nhiệm vụ gọi nhập ngũ, bổ sung quân cho Trung đoàn 107 (Sư đoàn 325) huấn luyện ở tại Đồng Hới (Quảng Bình). Lực lượng này, qua học tập, huấn luyện cơ bản đã nắm được các yêu cầu, nội dung, sau khi huấn luyện xong được trả về địa phương làm nòng cốt trong huấn luyện cho lực lượng vũ trang địa phương, tiếp tục sản xuất và luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi có yêu cầu của trên.
Trong hai ngày 6 và 7 tháng 11 năm 1961, Đảng ủy, chỉ huy Tỉnh đội tổ chức Hội nghị sơ kết cuộc vận động xây dựng thường trực, hậu bị vững mạnh, Huyện đội Hương Khê cùng các huyện Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà và Ban Chính trị, Ban hậu cần của Tỉnh đội là những đơn vị thực hiện khá cuộc vận động, được Tỉnh đội biểu dương. Trong quá trình thực hiện cuộc vận động, Huyện đội đã tổ chức cho cơ quan thảo luận xác định rõ chức trách của thủ trưởng chính trị, chủ nhiệm, ban, bộ phận và chính trị viên Huyện đội. Tất cả các xã trong toàn huyện được phổ biến học tập và triển khai cuộc vận động, có chỉ tiêu rõ ràng. Qua thảo luận Huyện đội đã có những ý kiến đóng góp cho dự thảo điều lệ công tác chính trị của chính trị viên Tỉnh đội, Huyện đội, song vẫn còn những băn khoăn về một số điểm như giữa yêu cầu của chức trách với biên chế cán bộ của Ban chính trị chưa phù hợp và hiện tại cán bộ còn thiếu, nên có biểu hiện lo lắng trước chức trách nặng nề, người ít và khó hoàn thành được công việc. Sau Hội nghị sơ kết cuộc vận động xây dựng thường trực, hậu bị vững mạnh, chỉ huy Huyện đội có sự thay đổi, đồng chí Hà Văn Kỷ được trên bổ nhiệm làm Huyện đội trưởng thay đồng chí Trần Xuân Niệm.
Tháng 3 năm 1962, tại thị trấn Chu Lễ Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ 10, Đại hội tập trung kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Về công tác quốc phòng - an ninh Nghị quyết Đại hội khẳng định: Công tác an ninh, trật tự tiếp tục được giữ vững thu được một số kết quả quan trọng. Lực lượng dân quân xã; tự vệ các lâm, nông trường được xây dựng và tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Các hoạt động bảo mật, phòng gian, truy bắt gián điệp, biệt kích được chú trọng. Huyện đã xóa bỏ triệt để đường dây qua Lào và vào Nam của những người từ ngoài Bắc tìm cách vượt tuyến vào Nam và qua Lào. Trong qúa trình triển khai nhiệm vụ quân sự, ý thức quốc phòng - an ninh đã dần chuyển biến tốt trong toàn Đảng và toàn dân, tinh thần tham gia công tác quân sự trên một số mặt đã có nhiều thành tích được trên khen ngợi, tiêu biểu là dân quân xã Hương Châu được chọn là lá cờ ba nhất của dân quân toàn huyện.
Quán triệt và thực hiện Chỉ thị 42 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Nghị quyết của Quân khu ủy 4, nhiệm vụ công tác quân sự trong năm 1962 và năm 1963 được Ban cán sự Tỉnh đội xác định: “Nhận rõ sự chuyển biến của tình hình mới hiện nay… giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng để tăng cường hơn nữa vị trí lãnh đạo của Đảng với công tác quân sự, bảo đảm được yêu cầu phát triển sản xuất đi đôi với bảo vệ sản xuất và sẵn sàng chiến đấu; tiếp tục củng cố xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị, nâng cao chất lượng về mọi mặt; tăng cường công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ sản xuất, tích cực đề phòng và tiêu diệt tập kích của địch, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng động viên lực lượng dự bị được chính xác và nhanh chóng”.[11] Nghị quyết Hội nghị quân sự đầu năm 1963 của Tỉnh ủy cũng nhấn mạnh: “Dân quân tự vệ phải làm nòng cốt và là lực lượng xung kích trong lao động sản xuất. Thông qua lao động mà rèn luyện dân quân tự vệ về trình độ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, tinh thần khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ".
Thực hiện những chủ trương nhiệm vụ của Tỉnh ủy và Ban cán sự Tỉnh đội, Huyện ủy Hương Khê chỉ đạo các cấp sử dụng đông đảo lực lượng dân quân tự vệ làm nòng cốt đào mương, tát nước chống hạn cứu được hàng chục héc ta lúa. Đồng thời kết hợp giữa huấn luyện với khai hoang đất trồng sắn. Bằng sự nỗ lực của cả hệ thống tổ chức Đảng, chỉ huy các cấp từ cơ quan quân sự huyện đến cơ sở trong lực lượng vũ trang Hương Khê đã làm nòng cốt xung kích trong chống hạn và lao động sản xuất, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Tỉnh ủy đã đề ra cho các huyện.
Sau vụ biệt kích đầu tiên của địch xâm nhập vào bờ biển xóm Nhân Hòa (Kỳ Phương, Kỳ Anh) trong tháng 1 năm 1963, ta đã vây bắt gọn cả toán biệt kích khi chúng chưa kịp gây tội ác. Ban chỉ huy Tỉnh đội chỉ thị cho các địa phương duy trì nghiêm chế độ trực tuần tra canh gác, nắm địch, đồng thời tổ chức huấn luyện bổ sung cho bộ đội, dân quân tự vệ về công tác chỉ huy, kỹ chiến thuật truy lùng vây bắt biệt kích mỗi khi chúng liều lĩnh xâm phạm vào địa bàn của tỉnh… Đúng như dự đoán trước đó của ta, vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 10 tháng 6 năm 1963, Ban chỉ huy Tỉnh đội Hà Tĩnh nhận điện của quân khu và đài ra đa của Bộ thông báo có máy bay địch xâm nhập vùng rừng núi Hương Khê, Tỉnh đội lập tức điện thông báo tình hình cho Huyện đội Hương Khê. Nhận điện của Tỉnh đội, đồng thời nhận được tin tức từ cơ sở báo lên, đồng chí Bùi Đình Quang, chính trị viên Huyện đội đang làm nhiệm vụ trực chỉ huy đã nhanh chóng báo cáo tình hình với Huyện ủy và ủy ban nhân dân huyện, gọi điện chỉ đạo chỉ huy các xã Hương Phú, Hương Vĩnh, đồn công an, Lâm trường Trại Trụ yêu cầu theo dõi sát sao các hoạt động của máy bay địch để báo cáo về Huyện đội.
Sau vài phút chỉ huy xã đội Hương Phú đã báo cáo có máy bay địch lượn nhiều vòng và thả dù biệt kích xuống vùng núi sông Tiêm, cách đội khai thác lâm trường Đội Núng khoảng 1km. Nhận được báo cáo của xã đội Hương Phú, đồng chí Quang lập tức lệnh cho các xã Hương Phú, Hương Vĩnh, Hương Long, Hương Xuân và Lâm trường Trại Trụ báo động, huy động lực lượng dân quân, tự vệ tổ chức khép chặt vòng vây. Đồng thời tổ chức lực lượng tiếp cận vị trí địch nhảy dù. Phối hợp với đồn công an vũ trang, đồng chí Trang và đồng chí Tiến cán bộ Huyện đội báo động đại đội dân quân mạnh cơ động ở Hương Tân vào chiến đấu. Trực tiếp chỉ huy lực lượng vây bắt biệt kích, ngoài đồng chí Quang - chính trị viên Huyện đội còn có đồng chí Nguyễn Tú - Bí thư Huyện ủy. Sau gần một tiếng đồng hồ cơ động lực lượng, các đơn vị đã tập kết ở vị trí quy định, vòng vây đã được khép chặt hơn. Bọn địch sau khi nhảy dù vừa tiếp đất đã nghe tiếng trống, tiếng kẻng báo động ở khắp nơi, chúng hốt hoảng cuốn dù, thu vũ khí, điện đài tìm cách trốn vào các hốc đá ẩn náu.
Vào lúc 4 giờ ngày 11 tháng 6, vòng vây của ta càng được khép chặt hơn, toán biệt kích nhảy dù có 6 tên, do tên Trần Kim Phú (Phú là một phần tử phản động người địa phương nơi nhảy dù, trước đây vượt biên theo địch) làm toán trưởng đã bị bắt cùng toàn bộ vũ khí, điện đài và trang bị. Đây là trận vây bắt biệt kích điển hình giành thắng lợi giòn giã của quân và dân Hương Khê trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Kết quả trận vây bắt biệt kích địch, lực lượng ta an toàn, lực lượng biệt kích nhảy dù của địch bị bắt sống toàn bộ. Ta hoàn toàn làm chủ, chủ động với tinh thần cảnh giác cao, cơ động lực lượng nhanh, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng. Trận vây bắt biệt kích địch để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các địa phương trong toàn quân khu học tập. Thắng lợi này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an toàn biên giới, bảo đảm trật tự an ninh - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở địa phương.
Thực hiện chỉ thị của trên về công tác tổ chức, sau khi thành lập Ban cán sự Tỉnh đội, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ban cán sự Tỉnh đội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các đơn vị thường trực, xây dựng cơ quan Tỉnh đội, Huyện đội, chỉ đạo lực lượng hậu bị trong tỉnh thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Về quyền hạn, căn cứ vào Nghị quyết và chủ trương của Tỉnh ủy, đồng thời dựa vào những chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Tổng Quân ủy và Quân khu ủy đề ra kế hoạch thực hiện từng chủ trương, từng thời kỳ và hàng tháng thông qua Tỉnh ủy quyết định… Đối với các Huyện đội trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, chấp hành các Nghị quyết của Huyện ủy về những mặt có liên quan đến nhiệm vụ Đảng ở địa phương. Đồng thời phải chịu sự chỉ đạo hướng dẫn về nội dung chấp hành chế độ công tác chính trị và Đảng của quân đội do Ban cán sự Tỉnh đội đề ra.
Ngày 10 tháng 7 năm 1963, Ban cán sự, Ban chỉ huy Tỉnh đội phát động phong trào thi đua 1 tháng trong lực lượng vũ trang kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1963, mục tiêu thi đua gồm: Đối với cơ quan Tỉnh đội, Huyện đội chấp hành chỉ thị khẩn trương, giờ giấc, tác phong nghiêm chỉnh, làm việc có hợp đồng chặt chẽ, nắm chắc tình hình luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, quản lý cơ sở vật chất tốt. Đối với dân quân tự vệ, hoàn thành bồi dưỡng cán bộ chính trị và quân sự, hoàn thành học tập tài liệu chống biệt kích, tiếp tục học tài liệu xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng mỗi huyện, thị một trung đội cờ đỏ. Thực hiện chế độ sinh hoạt, tuần tra canh gác chủ động phòng chống biệt kích, sản xuất, tổ chức đơn vị nhận nhiệm vụ của hợp tác xã trong sản xuất nông nghiệp…
Triển khai thực hiện phong trào thi đua 1 tháng trong lực lượng vũ trang của Tỉnh đội, đồng thời thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 11 (tháng 7 năm 1963), lực lượng vũ trang huyện, đặc biệt là lực lượng dân quân du kích các xã trọng điểm thường xuyên được chú ý xây dựng, tăng cường trang bị vũ khí. Cơ quan quân sự huyện, công an, tòa án, viện kiểm sát đều được tăng cường cán bộ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo. Tại địa bàn hai xã Hương Hà và Hương Thu có đơn vị bộ đội chủ lực của quân khu đứng chân, vừa làm nhiệm vụ huấn luyện, vừa tổ chức trồng cây công nghiệp (dầu sả), đơn vị đã giúp đỡ, hỗ trợ rất nhiều cho lực lượng vũ trang huyện trong nhiệm vụ huấn luyện. Đồng thời hỗ trợ đắc lực cho việc bảo vệ địa bàn Hương Khê. Các công, nông, Lâm trường 20-4, Trại Trụ, Chúc A, Hương Lâm, Hương Liên, Công ty đường goòng, các đội thuyền vận tải đường sông, cơ quan huyện… đều được tổ chức các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tự vệ mạnh của huyện Hương Khê.
Do nhận thức đúng vị trí, địa bàn chiến lược của huyện miền núi có đường biên giới dài tiếp giáp với nước bạn Lào, nơi địch có nhiều khả năng sử dụng làm địa bàn tung gián điệp, biệt kích phá hoại. Nên trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, hệ thống phòng thủ, lực lượng hậu bị ở Hương Khê đã được xây dựng căn bản, cuộc vận động xây dựng 4 tốt không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của chi bộ. Cấp ủy các cấp từ cơ quan quân sự huyện đến cơ sở tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong huấn luyện đi vào xây dựng ý chí, quyết tâm khắc phục khó khăn và phương châm đánh gần, đánh đêm, đánh tập kích, phục kích, rèn luyện sức khỏe hành quân đường dài mang vác nặng. Đến quý 3 năm 1964, tất cả các xã và các đơn vị tự vệ hoàn thành chương trình huấn luyện quân sự, chính trị cả năm. Tính từ năm 1946 đến năm 1964, Hương Khê đã có 2.570 tân binh lên đường nhập ngũ, bổ sung cho các đơn vị, trong số đó có 321 liệt sỹ hy sinh trên các chiến trường.
Trước những diễn biến tình hình chung, đế quốc Mỹ tăng cường các hoạt động khiêu khích, trinh sát các mục tiêu với những âm mưu mới đối với miền Bắc, từ tháng 4 năm 1964, công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu chống địch tập kích, biệt kích và oanh tạc bằng không quân ở Hương Khê được triển khai tích cực. Cơ quan quân sự huyện tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban hành chính chỉ đạo các ngành, các địa phương xây dựng và triển khai kế hoạch chuyển mọi hoạt động của huyện nhà từ thời bình sang thời chiến, xây dựng các vị trí sơ tán, phòng tránh khi chiến tranh xẩy ra. Thực hiện sự chỉ đạo của trên, ngày 2 tháng 5 năm 1964, ủy ban hành chính huyện quyết định thành lập Ban chỉ huy phòng không huyện. Đồng chí Đặng Minh Lương - Chủ tịch ủy ban hành chính huyện trực tiếp làm trưởng ban, đồng chí Hà Văn Kỷ - Huyện đội trưởng làm Tham mưu trưởng.[12] Ban chỉ huy phòng không huyện có nhiệm vụ kiểm tra đôn đốc và hướng dẫn các địa phương, cơ quan, xí nghiệp và nhân dân thực hiện kế hoạch phòng tránh, đánh trả địch.
Cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ tiếp tục gia tăng các hoạt động khiêu khích đối với miền Bắc nước ta, đặc biệt đối với địa bàn Quân khu 4. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, chúng dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ, đồng thời nhiều tốp máy bay Mỹ từ Hạm đội 7 bất ngờ tấn công dữ dội vào một số điểm ven biển miền Bắc từ cảng sông Gianh (Quảng Bình), đến Bãi Cháy (Quảng Ninh). Trên địa bàn Hà Tĩnh một tốp 6 máy bay đánh vào khu vực K43 xã Xuân An (huyện Nghi Xuân).
Sau sự kiện ngày 5 tháng 8 năm 1964, trong hai ngày 10 đến 11 tháng 8 năm 1964, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh họp Nghị quyết: “Triệt để chấp hành Chỉ thị 81 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu, chống mọi âm mưu khiêu khích phá hoại của kẻ thù”. Hội nghị đồng thời xác định: “Nhiệm vụ sản xuất phải gắn chặt với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, nhiệm vụ chiến đấu trở thành nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của quân và dân ta trong tình hình mới.”[13] Một số chủ trương, biện pháp cấp bách cũng được hội nghị đề ra nhằm tăng cường giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng chuẩn bị lực lượng, cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng thế trận phòng thủ sẵn sàng chiến đấu và tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu. Đảng bộ Hương Khê tiếp thu Nghị quyết hội nghị Tỉnh ủy đã nhanh chống phổ biến và tổ chức thực hiện ở tất cả các địa phương, các ngành, các đoàn thể, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ. Từ đó tạo ra một chuyển biến mới trong nhận thức tư tưởng hành động của cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang toàn huyện.
Đến giữa tháng 8 năm 1964, mọi công tác chuẩn bị như đào hầm, hào, công sự chiến đấu, lập mạng lưới báo động phòng không ở khắp các thôn, xã, cơ quan, xí nghiệp… ở Hương Khê được triển khai tích cực. Cuối năm 1964, đầu năm 1965, toàn bộ mọi hoạt động của địa phương được chuyển sang hoạt động thời chiến. Trong không khí sục sôi tinh thần chống Mỹ, cứu nước, tháng 2 năm 1965, tại Hương Phố, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ 12. Đại hội chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân nhận rõ âm mưu của đế quốc Mỹ; đẩy mạnh sản xuất, công tác; ra sức xây dựng lực lượng về mọi mặt, nhất là xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, giữ vững an ninh địa bàn… Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ được Đại hội xác định là tiếp tục lãnh đạo đưa hợp tác xã lên bậc cao và sẵn sàng đối phó với sự đánh phá của máy bay Mỹ. Thực hiện những chủ trương quan trọng của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 12, Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể, nhân dân và lực lượng vũ trang huyện bước vào thời kỳ mới, với quyết tâm vừa sản xuất vừa chiến đấu, kiên quyết xây dựng và bảo vệ địa phương; đồng thời huy động mọi nguồn lực về sức người, sức của tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam.
Đầu năm 1965, máy bay Mỹ thường xuyên xâm phạm vùng trời Hương Khê, trinh sát các tuyến vận tải đường sắt, đường bộ và đường sông dọc sông Ngàn Sâu, các cơ sở quân sự, dân sự như doanh trại quân đội, các công, nông, lâm trường… Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, ủy ban nhân dân, các cơ sở sản xuất, cơ quan huyện ở Chu Lễ được sơ tán về các xã lân cận. Xí nghiệp phốt phát Phú Lễ được chuyển sâu vào lèn để tiếp tục sản xuất. Các cầu đường bộ, đường sắt được ngụy trang. Các trường học, bệnh viện, bệnh xã đã được sơ tán đến các nơi an toàn. Được sự giúp đỡ của Tỉnh đội và quân khu, một số đơn vị trực chiến của huyện được củng cố và bổ sung trang bị thêm vũ khí mới. Công tác sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện được đặt lên hàng đầu, Huyện đội thường xuyên cử cán bộ bám nắm, đồng thời tổ chức tập huấn, huấn luyện chiến đấu cho dân quân tự vệ và các cơ quan xí nghiệp; nông, lâm trường, thôn, xã… Toàn thể nhân dân và lực lượng vũ trang huyện đã ở tư thế sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
2. Ra sức củng cố và phát triển lực lượng, vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa dũng cảm chiến đấu góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại, tích cực chi viện chiến trường miền Nam giành toàn thắng (1965 - 1975).
Từ đầu năm 1965, sau nhiều lần cho máy bay trinh sát các mục tiêu, các tuyến vận tải trên địa bàn Hương Khê, ngày 31 tháng 3 năm 1965, Mỹ đã cho máy bay ném bom phá hoại doanh trại quân đội ở Hương Hà, Bệnh viện huyện, gây cho ta nhiều thiệt hại về người và tài sản. Ngày 15 tháng 4 năm 1965, Thường vụ Huyện ủy họp quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 11, đồng thời quyết định chuyển trụ sở của huyện vào xã Hương Long, sơ tán từng bộ phận vào ở nhà dân, một bộ phận vẫn ở lại Chu Lễ. Các Huyện ủy viên được phân công phụ trách từng cụm và quy định chế độ hội ý, báo cáo định kỳ để bảo đảm nắm và chỉ đạo thông suốt, kịp thời các nhiệm vụ trong phạm vi toàn huyện trong điều kiện chiến tranh.
Để bảo đảm giao thông vận tải thông suốt trong điều kiện chiến tranh phá hoại có thể ngày càng ác liệt hơn. Ngày 18 tháng 6 năm 1965, đồng chí Trần Anh Liên, Thứ trưởng Bộ giao thông vận tải đã vào làm việc trực tiếp với Huyện ủy Hương Khê, bàn nhiệm vụ phối hợp chi viện cho các chiến trường A, B, C, trọng tâm là bảo đảm giao thông vận tải. Theo tinh thần đó, Huyện ủy Hương Khê đã huy động một lực lượng lớn dân công gồm 340 người, khẩn trương làm nhiệm vụ bảo đảm thông suốt cho bến phà Địa Lợi hoạt động. Ngoài ra còn tuyển gọi một lực lượng lớn thanh niên xung phong làm nhiệm vụ bốc vác, sửa chữa đường sá… Liên tục trong thời gian giữa năm 1965, máy bay Mỹ đã dồn dập đánh phá các mục tiêu quan trọng trên địa bàn toàn huyện như: Trường cấp 2 Hương Thanh, cầu Thanh Luyện, phà Địa Lợi, Lộc Yên, cầu 30 thước, cầu Cửa Rào, thị trấn Chu Lễ… Trước diễn biến địch đánh phá ngày càng ác liệt, mọi hoạt động của quân và dân toàn huyện đã chuyển sang thời chiến và hình thành được thế trận của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của địch. Công tác phòng không sơ tán được khẩn trương thực hiện, mọi nhà dân đều có hầm trú ẩn. Phần lớn các trường học được chuyển đến những nơi an toàn, chuyển xuống học ở lán có đắp lũng xung quanh, có hầm trú ẩn an toàn cho học sinh.
Do vị trí địa lý của mình, huyện có tuyến đường goòng chạy dọc và tuyến đường 15 (đường giao liên) đi qua, Hương Khê trở thành khu vực trung chuyển quan trọng, bộ đội và thương binh vào, ra chiến trường phần lớn đều đi qua đây. Ngoài ra Hương Khê còn là vùng kho, trạm xưởng quan trọng trên tuyến giao thông vận tải của các loại phương tiện sắt, thủy, bộ. Do yêu cầu phát triển của cuộc chiến tranh, số lượng bộ đội vào chiến trường B dừng chân huấn luyện, củng cố ở tại địa bàn huyện ngày một đông. Số thương, bệnh binh từ chiến trường ra điều trị, an dưỡng ngày một nhiều. Kho tàng, bến bãi được lập nên ở nhiều nơi dọc sông Ngàn Sâu, dọc đường ô tô số 15, dọc đường sắt… Nên nhiệm vụ của lực lượng vũ trang và nhân dân Hương Khê càng nặng nề hơn. Dân quân du kích huyện thực sự là lực lượng xung kích trên mọi mặt công tác sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, trực tuyến ứng cứu giao thông, làm các công trình giao thông, thủy lợi. Lực lượng dân quân tự vệ của huyện thu hút phần lớn người trong độ tuổi lao động tham gia với số lượng hàng ngàn người.
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của lực lượng vũ trang huyện lúc này là trực tiếp đánh máy bay địch, bảo vệ địa bàn. Huyện đã tổ chức hàng chục đội dân quân trực chiến, nhất là một số xã dọc theo các tuyến đường vận tải, nơi trọng điểm giao thông; khu vực nông, lâm trường, xí nghiệp… Khẩu hiệu “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay súng” được những người nông dân, công nhân Hương Khê thực hiện sinh động và hiệu quả. Sau Hội nghị rút kinh nghiệm ngày 16 tháng 9 năm 1965 của Ban chỉ huy Tỉnh đội về bắn máy bay bằng súng bộ binh và bắt sống giặc lái của xã Xuân Viên (Nghi Xuân). Ngày 20 tháng 9 năm 1965, quân dân Hương Khê phối hợp với Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 230 cao xạ bắn rơi một máy bay F4, giặc lái nhảy dù xuống cánh rừng sâu của xã Hương Vĩnh, sau đó địch đã huy động một lúc 18 máy bay các loại đến cứu giặc lái.
Với quyết tâm không để cho địch cứu được giặc lái, dưới sự chỉ huy của Huyện đội, quân và dân các xã Hương Vĩnh, Hương Xuân, Nông trường 20-4 phối hợp cùng bộ đội cao xạ, công an vũ trang, vừa tổ chức đánh địch, vừa nhanh chống vượt qua bom đạn lội suối, băng rừng nhanh chóng tiếp cận giặc lái.Tiểu đội tự vệ Nông trường 20-4 gồm 10 đồng chí, do đồng chi Trần Văn Thái chỉ huy là lực lượng vận động đến khu vực giặc lái ẩn náu sớm nhất. Một phương án đánh địch nhanh chóng được vạch ra và khẩn trương thực hiện. Cả tiểu đội Trần Văn Thái nhanh chóng khép chặt vòng vây, đồng thời cử một tổ leo lên một cây cao nhằm vào đầu, vào cánh quạt máy bay trực thăng nổ súng đúng vào lúc máy bay đang thả thang dây cứu giặc lái. Cánh quạt trực thăng bị bắn gãy, máy bay rơi tại chỗ, lập tức cả tiểu đội xông lên bắt gọn tốp giặc lái 6 tên gồm cả tên phi công của máy bay F4. Đây là trận đánh máy bay, bắt sống giặc lái có hiệu suất cao nhất, mang nhiều ý nghĩa của quân và dân Hương Khê vừa góp phần bắn rơi 1 chiếc F4, vừa độc lập bắn rơi chiếc trực thăng H43 đầu tiên trên miền bắc, vừa bắt sống nhiều giặc lái nhất. Hình ảnh “O du kích nhỏ giương cao súng” đang áp giải tên giặc lái Mỹ cao lớn cúi đầu do nhà nhiếp ảnh Phan Thoan ghi được trong sự kiện này đã thể hiện đầy đủ tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, không sợ hy sinh của quân và dân Hương Khê. Ngoài ra còn thể hiện tinh thần mưu trí, sáng tạo, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa ba thứ quân, giữa quân và dân trong một nhiệm vụ chung bắn rơi máy bay và bắt sống giặc lái.
Với chiến công lập được, quân dân Hương Khê được thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Nông trường 20-4 và dân quân Lộc yên được tặng Huân chương Quân công hạng Ba, Đội 6 Lâm trường Chúc A, dân quân Hương Phong được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, quân dân xã Hương Xuân, tự vệ Phòng giao thông, bộ đội địa phương huyện được tặng Huân chương Chiến công hạng Hai; các xã Hương Đô, Hương Lạc được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba; xã Hương Lĩnh, tự vệ cơ quan huyện được tặng Bằng khen.
Do vị trí quan trọng về nhiều mặt của Hương Khê, nên Đế quốc Mỹ đã cho máy bay đánh phá thường xuyên, liên tục bằng nhiều thủ đoạn và nhiều loại bom đạn khác nhau. Với dã tâm “đẩy lùi Bắc Việt Nam về thời đồ đá”, máy bay địch đã gây cho Hương Khê nhiều tổn thất to lớn. Điển hình là vụ ném bom ngày 9 tháng 2 năm 1966 vào trường cấp 2 xã Hương Phúc, làm chết 33 và bị thương 25 em học sinh và giáo viên. Hành động này của Đế quốc Mỹ đã bị dư luận trong nước và thế giới cực lực lên án. Ngày 14 tháng 2 năm 1966, Thường vụ Huyện ủy họp kiểm điểm những thiệt hại mà giặc Mỹ gây ra ở Hương Phúc, đồng thời tìm mọi biện pháp sơ tán triệt để nhân dân ra khỏi các vùng trọng điểm. Với khẩu hiệu “Nhà che mưa, che nắng. Hầm hố che máu, che xương” được toàn dân thực hiện. Nhà nhà đào hầm hào, người người thực hiện phòng không nhân dân. Các hợp tác xã chi công điểm cho xã viên tham gia đào hầm hào ở các vùng trọng điểm, nơi sản xuất gần khu vực địch đánh phá, đắp lũy cho các lớp học sinh, các trạm xá, nhà hộ sinh…
Trước những âm mưu đánh phá ác liệt ngày càng tăng của địch, Huyện ủy chủ trương tăng cường công tác quân sự địa phương về mọi mặt. Đảng bộ tập trung chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương huyện, xã, cơ quan, nông lâm trường, xí nghiệp. Huyện ủy thường xuyên cử một đồng chí ủy viên Thường vụ trực tiếp phụ trách công tác quân sự, cụ thể trong giai đoạn này đồng chí Đặng Tỵ - Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy trực tiếp phụ trách. ở các xã, đồng chí xã đội trưởng đều là Đảng ủy viên hoặc là Thường vụ Đảng ủy. Toàn dân đề cao ý thức quốc phòng, quan điểm cuộc chiến tranh nhân dân thường xuyên được quán triệt trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ chỗ xác định vai trò của dân quân tự vệ, của thanh niên là hết sức quan trọng, nên cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể thường xuyên động viên, xác định nhiệm vụ cho thanh niên và được đông đảo thanh niên nhiệt tình hưởng ứng.
Từ năm 1966, ở Hương Khê tất cả thanh niên đều tham gia dân quân tự vệ, được biên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội và được trang bị vũ khí đầy đủ. Đây là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ trực phòng không, trực chiến bắn máy bay và ứng cứu lúc địch đánh phá giao thông, làng mạc… Nhiều xã trong huyện có đội trực chiến quy cũ, trực 24/24 giờ, sẵn sàng độc lập tác chiến bắn máy bay địch bảo vệ trọng điểm và cơ động phối hợp với lực lượng phòng không chủ lực, lập thành các cụm trận địa phòng không đánh địch. Huyện đội được tăng cường cả về quân số và trang bị vũ khí. Tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện thường xuyên được củng cố, sau các khóa huấn luyện tiểu đoàn bổ sung quân số cho chủ lực và thay thế là số thanh niên mới nhập ngũ. Mỗi năm đều có từ hai đến ba đợt tuyển quân. Trong mấy năm qua, Hương Khê đã có hàng ngàn thanh niên trẻ khỏe lên đường nhập ngũ, tham gia chiến đấu trên khắp các chiến trường, ngoài ra còn có hàng trăm nam, nữ thanh niên hăng hái đi thanh hiên xung phong, làm nhiệm vụ trên các tuyến giao thông vận tải.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 1967, trên địa bàn Quân khu 4 máy bay Mỹ bắt đầu thả bom từ trường và thủy lôi xuống các trọng điểm, cửa biển, ngã ba sông, các bến phà và các tuyến đường xung yếu, nhằm gây khó khăn cho ta trong công tác bảo đảm giao thông vận tải. Trước những âm mưu, thủ đoạn mới của địch, ngày 3 tháng 2 năm 1967, Quân khu ủy ra Nghị quyết xác định “Tập trung hết khả năng đẩy mạnh công tác phòng không… đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của địch ở mức độ cao; xúc tiến khẩn trương hơn nữa công tác phòng thủ toàn diện trong quân khu”[14]. Thực hiện Nghị quyết của Quân khu ủy 4 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 13, quân và dân Hương Khê ra sức thực hiện thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Sau trận rà phá bom thành công ở Ngã ba sông La của bộ đội công binh tỉnh, trong tháng 5 năm 1967 tỉnh đội đã tổ chức nhiều đợt tập huấn, một số cán bộ cơ quan quân sự huyện đã tham gia các lớp tập huấn này, qua đó nắm được kỹ thuật rà phá bom mìn, thủy lôi để kịp thời tổ chức huấn luyện cho các đội dân quân công binh huyện và các xã. Đến tháng 12 năm 1967, toàn huyện có 7 đội công binh dân quân tự vệ chuyên trách và hơn 20 tổ công binh dân quân các xã.
Đối với nhiệm vụ rà phá bom mìn, thủy lôi, các đơn vị công binh chuyên trách của huyện thường xuyên có mặt ở những nơi cần thiết để tổ chức phá bom nổ chậm, bom từ trường. Lực lượng công binh dân quân các xã, qua các lần được tập huấn về cả lý thuyết và thực hành đã tiến tới tự phá được bom từ trường, bom nổ chậm. Dân quân công binh các xã Hương Tân, Hương Phố, Hương Thanh, Hương Hà, Hương Luyện, Hương Thu, Hương Châu, Hương Long, Hương Đô, Hương Thủy, tự vệ Nông trường Chúc A, Nông trường 20-4 và vùng thượng huyện, đều tự mình phá được bom từ trường với những dụng cụ thô sơ, tự tạo. Số bom bi, rốc két chưa nổ của địch được dân quân công binh thu gom phá hủy, bảo đảm an toàn cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
Kể từ khi đế quốc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại, máy bay địch đã tập trung đánh phá ác liệt vào các trọng điểm giao thông trên địa bàn toàn huyện. Dưới sự lãnh đạo của Thường vụ Huyện ủy, Ban chỉ huy Huyện đội đã phối hợp tốt với phòng giao thông và các ban, ngành cùng toàn dân lên mặt đường làm giao thông vận tải để nhanh chóng giải quyết các điểm tắc, bảo đảm thông xe, thông đường trong mọi tình huống. Trong số hàng ngàn người làm nhiệm vụ giao thông vận tải thì có tới 70% là lực lượng dân quân tự vệ và bộ đội địa phương huyện. Thực hiện chủ trương của Trung ương về quân sự hóa lực lượng bảo đảm giao thông vận tải, Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự chỉ đạo cơ quan quân sự các huyện, thị tiến hành tổ chức, sắp xếp lại lực lượng bảo đảm giao thông vận tải theo hình thức quân sự để tiện việc chỉ huy hiệp đồng. Trên địa bàn huyện Hương Khê, mỗi xã tổ chức một đại đội, mỗi xóm một trung đội, mỗi cụm dân cư một tiểu đội, dưới sự chỉ huy thống nhất của Ban chỉ huy xã đội. Lực lượng này luôn luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ vận chuyển đất đai, cọc tre, lá cây trên đường quốc lộ, bến phà… làm nhiệm vụ nâng cấp ngầm, đường xế, đường tránh và làm mới các đường xuống bến phà khi có lệnh. Với việc tổ chức sắp xếp lại công tác bảo đảm giao thông vận tải bằng hình thức quân sự hóa, ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm đối với công việc của cán bộ, chiến sỹ được nâng lên rõ rệt, hiệu suất chất lượng bảo đảm giao thông vận tải cũng được tăng lên rất nhiều. Các trọng điểm giao thông như phà Địa Lợi, bến sông Chợ Trúc, cầu Lộc Yên… đều được giải quyết thông suốt hàng hóa, không để bị ùn tắc. Kết quả của công tác giao thông vận tải tính từ năm 1965 - 1968, quân và dân Hương Khê đã đóng góp hàng vạn ngày công tham gia làm đường, bốc dỡ hàng hóa… Về giao thông, Hương Khê đã làm được 222 km đường liên huyện, liên xã; 276 km đường liên xã, hợp tác xã; 248 km đường vùng, đường khoảnh. Về phương tiện vận chuyển đã phát triển đến 2.929 xe các loại.
Đầu năm 1968, trước những thất bại liên tiếp và nặng nề cả về quân sự, chính trị và ngoại giao trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi một số chính sách và chiến lược quân sự nhằm cứu vãn tình thế và củng cố tinh thần cho binh lính Mỹ trên chiến trường. Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ thứ 2 và ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra. Đây là hành động thừa nhận sự thất bại, nhưng đồng thời cũng là thủ đoạn ngoại giao có tính toán của giới cầm quyền Mỹ. Sự thật của tuyên bố này chính quyền Mỹ tiếp tục lừa bịp dư luận nước Mỹ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới rằng Mỹ đã xuống thang chiến tranh. Nhưng sự thực chúng đang tập trung bom đạn để đánh phá vào vùng đất nhỏ hẹp nhất của bắc miền Trung Việt Nam từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20, nhằm chặn đứng sự chi viện của hậu phương miền Bắc đối với chiến trường miền Nam ngay tại địa bàn Quân khu 4. Sự thực đúng như vậy, trong suốt thời gian “ném bom hạn chế” cả địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, trong đó có huyện Hương Khê đã trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của không quân Mỹ. Quân dân Hương Khê cùng với các địa phương Quân khu 4 ngày đêm đối phó quyết liệt với các thủ đoạn đánh phá tàn bạo nhất của Mỹ.
Từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1968, cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải ở Hương Khê diễn ra ngày một gay go, quyết liệt suốt cả ngày lẫn đêm. Ngày 15 tháng 4 năm 1968, Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết khẩn cấp về công tác phòng tránh đánh địch và bảo đảm giao thông vận tải với 3 nội dung: “Kiên quyết chiến đấu đánh thắng mọi thủ đoạn chiến tranh của địch; có kế hoạch biện pháp cụ thể làm tốt hơn nữa công tác phòng không nhân dân, làm hầm hào phòng tránh, hạn chế thấp nhất thiệt hại người và của. Trong mọi hoàn cảnh kiên quyết bảo đảm công tác giao thông vận tải và chi viện cao nhất sức người, sức của cho tiền tuyến”. Được cấp trên tăng cường cho hàng ngàn dân công, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường… Quân và dân Hương Khê cùng với các lực lượng được tăng cường bám tuyến đường sắt, bắc lại nhiều lần các cầu Cửa Rào, Thanh Luyện, Lộc Yên… bộ đội công binh sửa chữa các cầu đường bộ, duy trì hoạt động tốt bến phà Địa Lợi. Hàng ngàn thanh niên xung phong các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Hà… ngày đêm sửa đường, bốc dỡ hàng hóa ở các bến sông, ga tàu trên địa bàn huyện. Sông Ngàn Sâu trở thành tuyến vận tải quan trọng đưa bộ đội và hàng hóa từ Đức Thọ lên Hương Khê để chuyển tiếp vào Quảng Bình. Lực lượng dân quân tự vệ huyện phối hợp tốt với lực lượng phòng không của tỉnh, của Quân khu và của Bộ liên tục đánh máy bay địch, bảo vệ các trọng điểm giao thông đi qua huyện.
Thực hiện Nghị quyết cấp bách của Thường vụ Tỉnh ủy (ngày 14 tháng 5 năm 1968), Ban chỉ huy Huyện đội Hương Khê kịp thời đề ra một số chủ trương biện pháp mới trong đánh địch như: Cải tiến công tác nắm địch và chỉ đạo đánh địch linh hoạt kịp thời có hiệu quả hơn, tổ chức các cụm trực chiến, trang bị thêm súng 12,7 ly, cơ động đón đánh địch. Nhờ có sự chỉ đạo sáng suốt của Ban chỉ huy Tỉnh đội “chốt điểm kết hợp với cơ động đánh địch trên diện rộng” và những chủ trương sát đúng của Huyện đội, lực lượng dân quân tự vệ huyện phối hợp tốt với các đơn vị bộ đội pháo cao xạ vận dụng tổ chức đánh địch có hiệu quả hơn. Ngày 28 tháng 8 năm 1968, tự vệ Lâm trường Trại Trụ Hương Khê phối hợp với bộ đội cao xạ chủ lực chiến đấu bắn rơi chiếc máy bay F111A của Mỹ. Đây là chiếc máy bay “cánh cụp cánh xòe” hiện đại nhất của Mỹ lần đầu tiên bị bắn rơi trên địa bàn miền Bắc. Chiến công này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ quốc phòng khen ngợi.
Trước những hành động đánh phá bừa bãi dã man vào khu vực dân cư, trường học, bệnh viện… của địch, ngày 29 tháng 8 năm 1968, Ban phòng không nhân dân tỉnh họp và đề ra những biện pháp khẩn cấp trong công tác phòng tránh. Những biện pháp này đã được ủy ban hành chính tỉnh đưa vào chỉ thị nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác phòng tránh, đưa công tác phòng không nhân dân vào thế vững chắc, lâu dài. Những biện pháp cụ thể đó là: Khoanh vùng khai thác gỗ, tận dụng thu mua tre, nứa, gỗ làm nguyên vật liệu phân phối cho các đơn vị bộ đội, cơ quan, xí nghiệp, trường học và nhân dân làm công sự chiến đấu, hầm lũy tránh bom đạn địch. Tổ chức đội dân quân chuyên trách làm hầm hào trong hợp tác xã, trích kinh phí và có chính sách hỗ trợ các địa phương, cơ quan, đơn vị, gia đình liệt sỹ, thương binh, già cả, neo đơn… trong việc làm hầm hào. Phát động toàn dân làm thêm hầm hào, ngủ trong hầm, trong lán có lũy đất che chắn, có giàn chống bom bi… Những chủ trương và biện pháp này đã được các địa phương trong huyện Hương Khê thực hiện nghiêm chỉnh, tạo được chuyển biến lớn trong công tác phòng không nhân dân và hạn chế được nhiều thiệt hại do bom đạn địch gây ra. Từ tháng 9 năm 1968, tỷ lệ thương vong do bom đạn Mỹ gây ra được giảm hẳn.
Tuy đã có những nỗ lực lớn với những biện pháp toàn diện, kiên quyết khắc phục giao thông trên các trọng điểm, nhưng do cường độ đánh phá và số lượng bom đạn tăng cao của địch, đặc biệt là trong tháng 7 năm 1968, nên tình hình giao thông vận tải lại có nguy cơ bị ùn tắc trở lại ở các trọng điểm của Khu 4. Trước tình hình này, Ban Bí thư Trung ương Đảng nhanh chóng ra chỉ thị bổ sung, nhấn mạnh: “… Đây là công tác chiến lược đột xuất của toàn Đảng, toàn dân”. Đồng thời ra Quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4, do đồng chí Phan Trọng Tuệ - Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải làm Tư lệnh, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình là thành viên của Bộ Tư lệnh. Từ đây công tác giao thông vận tải ở Khu 4 được chỉ đạo, chỉ huy chặt chẽ từng giờ, từng ngày. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4, Hương Khê thành lập một bộ phận chuyên trách chỉ đạo vận tải nhân dân và vận tải thủy, lập thêm các bến bãi, kho trạm tạm thời dọc sông Ngàn Sâu, dọc đường để giao nhận hàng, củng cố hệ thống đường nông thôn, lập thêm 3 đội xe thồ do cán bộ cốt cán chỉ huy. Ngoài ra ở các xã còn tổ chức đội vận tải bộ bằng quang gánh, chuyển hàng theo từng cung độ ngắn.
Phong trào vận tải nhân dân và vận tải thủy ở Hương Khê được triển khai chặt chẽ và bước đầu đã đem lại hiệu quả. Chỉ trong 2 tháng đã động viên được hàng ngàn lượt người tham gia, trong đó lực lượng dân quân là lực lượng nòng cốt. Để tạo thêm nguồn hàng tại chỗ chuyển nhanh ra chiến trường, tỉnh phát động nhân dân cho vay thóc gạo, nhân dân Hương Khê mặc dù còn thiếu ăn, nhưng đã cùng với nhân dân huyện Kỳ Anh cho Nhà nước vay 900 tấn gạo đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chi viện cho chiến trường. Bom đạn địch, thiên tai tuy có gây cho ta những khó khăn tổn thất, nhưng bằng nhiều con đường và phương tiện, mạch máu giao thông vận tải từ hậu phương miền Bắc đến tiền tuyến miền Nam vẫn không một giây ngừng trễ, quân và dân Hương Khê tự hào vì đã góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải vì miền Nam ruột thịt. Bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam - Bắc, trước sức ép của dư luận tiến bộ Mỹ và nhân dân thế giới, đêm 31 tháng 10 năm 1968, Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom đánh phá miền Bắc Việt Nam. Quân dân Hương Khê lại có thời gian khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển lực lượng vũ trang, tiếp tục chi viện tiền tuyến.
Trên cơ sở phương hướng chỉ đạo chung của Đảng ủy quân khu và Tỉnh ủy, ngày 20 tháng 3 năm 1969, Đảng ủy Tỉnh đội Hà Tĩnh họp đề ra nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang tỉnh: Khẩn trương chuẩn bị, nâng cao chất lượng mọi mặt, xây dựng lực lượng bộ đội tập trung và dân quân tự vệ mạnh cả phía trước và phía sau, sẵn sàng cơ động chiến đấu trên các chiến trường, có đủ khả năng đối phó nếu địch đánh phá trở lại. Triển khai nhiệm vụ Đảng ủy Tỉnh đội đã đề ra, Huyện đội Hương Khê được củng cố mọi mặt, duy trì nghiêm chế độ trực ban, trực chiến. Về cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cũng có sự thay đổi, đồng chí Phan Văn Toản được bổ nhiệm làm Huyện đội trưởng thay đồng chí Lâm Văn Vỵ. Ban chỉ huy Huyện đội được củng cố gồm: đồng chí Phan Văn Toản - Huyện đội trưởng; đồng chí Đặng Đình Lai - chính trị viên; đồng chí Nguyễn Văn Cân, Huyện đội phó - Tham mưu trưởng… (còn một số đồng chí khác chưa nắm được). Sau khi được củng cố, Ban chỉ huy Huyện đội tập trung chỉ đạo huấn luyện theo phương án tác chiến mới, chỉ đạo các xã biên giới củng cố Ban chỉ đạo tác chiến chống biệt kích, duy trì nghiêm các chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức phòng không nhân dân các cấp được duy trì và sắp xếp lại. Lực lượng phòng không của dân quân tự vệ tạm nghỉ chế độ trực chiến, nhưng vẫn giữ nguyên đội hình, chuyển thành các đội chuyên làm thủy lợi, khai hoang phục hóa, khi có lệnh các đội sẵn sàng huy động lực lượng, nhanh chóng bước vào chiến đấu được ngay. Hai đài quan sát máy bay ở Chu Lễ và La Khê được củng cố.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy về việc củng cố lại tổ chức dân quân tự vệ cả về số lượng, chất lượng và trang bị vũ khí; gắn với việc thực hiện Chỉ thị 37 và Thông tư 35 của Hội đồng Chính phủ để chấn chỉnh lại dân quân tự vệ. Huyện đội tham mưu cho Huyện ủy chỉ đạo quán triệt sâu sắc nhiệm vụ trong tình hình mới, phối hợp với Ban quản lý hợp tác xã nghiên cứu để thực hiện kế hoạch tổ chức lực lượng dân quân tự vệ theo quy mô các loại hợp tác xã (với hợp tác xã có quy mô thôn, 1 xã có 2 hợp tác xã trở lên thì tổ chức mỗi hợp tác xã 1 Trung đội dân quân I và 1 Trung đội dân quân II. Với hợp tác xã có quy mô toàn xã thì tổ chức 1 đại đội dân quân hỗn hợp, 1 trung đội dân quân cơ động, 1 tổ trinh sát, 1 tổ cứu thương, 1 tổ công binh kiêm quân giới và 1 tổ hỏa lực). Từ tháng 9 năm 1969, các chế độ bảo đảm sẵn sàng chiến đấu đã đi vào nền nếp, mạng lưới thông tin liên lạc trong toàn huyện thông suốt, lực lượng cơ động có quân số và trang bị đầy đủ sẵn sàng làm nhiệm vụ. Các đơn vị phòng không tích cực kiểm tra, đăng ký, tu sửa trận địa, rà xét lại phương án bắn máy bay và kế hoạch cơ động phục kích đường bay địch.
Hưởng ứng phong trào thi đua cùng “tiến quân ba mũi” (giải phóng giao thông, mở rộng diện tích canh tác, đào đắp thủy lợi nội đồng) của Tỉnh ủy phát động. Hương Khê được sự chi viện của bộ đội công binh cấp trên, đồng thời từ những kinh nghiệm ở Đập Làng (Hương Thủy), phong trào toàn dân phát hiện, rà phá bom nổ chậm, bom từ trường được lực lượng dân quân tự vệ thực hiện bằng mọi phương tiện sẵn có. Hàng chục đội rà phá bom ra quân trên các tuyến giao thông, các cánh đồng thu nhiều kết quả. Những cầu lớn nhỏ trên đường 15, đường sắt được sửa chữa nâng cấp, những trọng điểm giao thông như phà Địa Lợi, Bến Trúc, Lộc Yên, cầu Cửa Rào, cầu Thanh Luyện… được giải tỏa. Toàn tuyến giao thông thủy bộ ở Hương Khê đã thông suốt. Việc thông đường kịp thời đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vận tải của Trung ương và địa phương thực hiện chiến dịch vận tải VT5 (vận tải tranh thủ tụt thang) thắng lợi giòn giã. Hương Khê cùng các địa phương trong toàn tỉnh và các lực lượng đã đưa hơn 132 ngàn tấn hàng đi qua địa phận Hà Tĩnh chuyển giao cho Quảng Bình, để từ đó tiếp tục đưa vào chiến trường miền Nam.
Đi đôi với nhiệm vụ rà phá bom mìn, bảo đảm giao thông vận tải, mũi tiến quân vào đồng ruộng cũng thu hút phần lớn nông dân, mà nòng cốt là dân quân du kích tham gia giải phóng đồng ruộng, mở rộng diện tích, tất cả ruộng đất bị bom đạn phá hoại được san lấp, các công trình thủy lợi được sửa sang, hàng chục héc ta ruộng nằm cạnh cầu cống, bến phà và dọc các tuyến giao thông được giải phóng đưa vào sản xuất. Các hợp tác xã đã hướng mạnh vào phát triển hoa màu, khôi phục đàn trâu bò… góp phần làm cho sản lượng lương thực, thực phẩm được duy trì, giảm bớt khó khăn cho nhân dân trong toàn huyện. Sau gần một năm tạm thời có hòa bình, Đảng bộ, quân và dân Hương Khê phấn đấu kiên cường, thu nhiều thành tựu quan trọng. Tiềm lực kinh tế, quốc phòng được củng cố và ngày một nâng cao. Chính quyền các cấp, cơ quan quân sự huyện được kiện toàn, đủ sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong thời gian tiếp theo.
Giữa lúc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang ra sức thực hiện nhiệm vụ sản xuất và sẵn sàng chiến đấu với quyết tâm “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc thì ngày 2 tháng 9 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tại thủ đô Hà Nội, Bác ra đi để lại muôn vàn tình thương yêu cho cả dân tộc Việt Nam. Đúng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang Hương Khê biến đau thương thành hành động cách mạng, ra sức thực hiện các mục tiêu của phong trào thi đua “lập công đền ơn Bác” do Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu phát động, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh toàn diện. “Nâng cao chất lượng trong huấn luyện và xây dựng đúng thời gian quy định, đạt chất lượng cao, sẵn sàng có lệnh là đi được ngay”. Đối với các đơn vị sẵn sàng chiến đấu và trực tiếp phục vụ chiến đấu: “Phải luôn cảnh giác cao, sẵn sàng chiến đấu tại chỗ cao, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống, sẵn sàng có lệnh là đi được ngay đến bất cứ chiến trường nào”. Tăng cường bồi dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao hơn nữa ý chí chiến đấu, tinh thần cách mạng triệt để tiến công; đề cao ý thức lãnh đạo tập thể và quan điểm quần chúng; giữ vững và phát huy lối sống trong sạch, khiêm tốn, cần cù, giản dị; đoàn kết chân thành, thương yêu đồng chí; nâng cao trách nhiệm của Đảng ủy các cấp và của chi bộ đối với việc tăng cường bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đến hết năm 1969, tất cả các xã trong toàn huyện đã sắp xếp lại lực lượng dân quân tự vệ theo cơ chế mới, có 6 xã đưa dân quân vào sản xuất theo phương thức quân sự hóa.
Quán triệt quan điểm chiến lược của Trung ương, ngày 6 tháng 1 năm 1970, Đảng ủy quân sự tỉnh họp đề ra nhiệm vụ năm 1970 cho lực lượng vũ trang toàn tỉnh, trọng tâm là: Tập trung nâng cao chất lượng về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, hướng ra tiền tuyến, hướng về cơ sở, càng đánh càng trưởng thành, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm này, Hương Khê tập trung củng cố các hoạt động phòng chống biệt kích từ bộ máy chỉ huy đến các phương án tác chiến, các lực lượng được tiến hành tập dượt ở một số địa bàn trọng điểm. Trước những hoạt động trinh sát ngày càng tăng của địch, Huyện đội tập trung chỉ đạo nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu cho các đơn vị dân quân, tự vệ. Công tác phòng tránh, hệ thống báo động, lực lượng bắn máy bay bay thấp; các đội cứu thương, cứu sập, cứu hỏa của dân quân được củng cố lại và đi vào hoạt động. Với tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, ngày 25 tháng 1 năm 1970, một toán biệt kích 25 tên từ bản Na-ca-sợt (Lào) lén lút sang địa bàn Hương Khê hoạt động. Chúng đã bị bộ đội biên phòng và dân quân tại chỗ phát hiện vây bắt được một số tên, số còn lại chạy về bên kia biên giới. Tiếp đến ngày 13 tháng 10 năm 1970, dân quân xã Hương Trạch phối hợp với Trung đoàn 250 bắn rơi tại chỗ 1 máy bay F4 tại khu vực lèn La Khê, sau đó 2 ngày, ngày 15 tháng 10 lực lượng này tiếp tục bắn rơi 1 máy bay nữa.
Để tiếp tục củng cố và tăng cường hơn nữa công tác quân sự địa phương, ngày 13 tháng 5 năm 1970, Quân ủy Trung ương họp ra Nghị quyết về tăng cường công tác quân sự địa phương trong tình hình mới. Tại Hội nghị này, Quân ủy Trung ương quyết định đổi tên Ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội thành Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và Ban chỉ huy quân sự huyện. Việc đổi tên này đã xác định rõ vai trò, vị trí chỉ huy các lực lượng thống nhất của cơ quan quân sự cấp tỉnh và cấp huyện trong chiến tranh tại địa phương. Từ đây Huyện đội Hương Khê được đổi tên thành Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê. Sau khi được đổi tên, từ quý 3 năm 1970, Ban chỉ huy quân sự huyện được chấn chỉnh theo cơ cấu tổ chức của cơ quan quân sự địa phương, tăng cường thêm cán bộ và chuyển vào hoạt động theo cơ chế mới. Đồng chí chính trị viên Đặng Đình Lai được bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quân sự địa phương trong tình hình mới.
Từ cuối năm 1970, trước những thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, đế quốc Mỹ tiếp tục chuẩn bị cho những bước leo thang quân sự mới hòng cứu vãn sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh ở Việt Nam”. Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn mới của địch. ngày 27 tháng 12 năm 1970, Thường vụ Tỉnh ủy họp phiên bất thường xác định: “Dù xẩy ra tình huống nào thì cuộc chiến tranh ở Hà Tĩnh cũng sẽ diễn ra hết sức ác liệt và tàn khốc. Đảng bộ cùng toàn dân trong tỉnh phải nỗ lực làm tròn nhiệm vụ, chiến đấu giỏi, quyết tâm tiêu diệt địch, bảo vệ và tăng cường xây dựng hậu phương, chi viện tiền tuyến hết sức mình”[15]. Chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị cấp trên, Ban chỉ huy quân sự Hương Khê nhanh chóng xây dựng phương án tác chiến, các làng xã chiến đấu được củng cố liên kết theo cụm chiến đấu liên hoàn cả phía trước và phía sau. Các đơn vị phòng không 12,7 ly của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ duy trì trực chiến liên tục 24/24 giờ trong ngày. Một số công việc khác chuẩn bị cho chiến đấu như tu sửa các trục đường giao thông, làm thêm vọng gác, tổ chức cơ động được gấp rút triển khai. Các đơn vị dân quân tự vệ trực chiến được bổ sung đủ quân số và trang bị vũ khí. Công tác chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu được triển khai tốt trong toàn huyện, cụ thể đã kịp thời nổ súng đánh địch khi chúng đến gây tội ác, tiêu biểu là dân quân xã Hương Trạch thường xuyên cảnh giác, phát hiện và đánh lui các cuộc thâm nhập của bọn biệt kích Mỹ - ngụy, giữ vững an ninh địa bàn.
Đúng như ta nhận định, một tuần sau ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2. Ngày 9 tháng 4 năm 1972, địch tập trung 180 lần chiếc máy bay đánh vào các chân hàng, kho trạm dọc đường 1A, 15A và đường 8 trên địa bàn Hà Tĩnh. Trên địa bàn Hương Khê, ngay từ những đợt đánh phá đầu tiên, máy bay Mỹ đã đánh sập các cầu trên tuyến đường sắt và đường ô tô, phong tỏa tuyến đường sông Ngàn Sâu, chặn các bến phà, gây ách tắc giao thông vận tải ở nhiều nơi… Máy bay B52 đã ném bom rải thảm nhiều nơi trong huyện, vào cả khu dân cư, ruộng đồng, đê điều, nhất là dọc các tuyến giao thông như ven đường goòng ở Yên Duệ, Thanh Luyện, Trúc, Tân ấp, Hương Phong; tuyến ô tô từ Truông Bát, Động Đỏ lên Lộc Yên… gây cho ta nhiều khó khăn và tổn thất. Tuy nhiên, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, thực hiện sự chỉ đạo của trên, Ban Thường vụ Huyện ủy nhanh chóng đề ra chủ trương chuyển mọi hoạt động của quân dân sang trạng thái chiến tranh. Công tác phòng không sơ tán được thực hiện triệt để, nhiệm vụ chiến đấu kết hợp với sản xuất tiếp tục được đẩy mạnh.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Hương Khê đã nhanh chóng chuyển mọi hoạt động trở lại thời chiến. Toàn huyện đã hình thành hàng trăm trận địa chiến đấu; hàng trăm tổ công binh, cứu sập, cứu thương đi vào hoạt động. Các tiểu đoàn dân quân được thành lập ở các lâm trường Chúc A, Trại Trụ, Nông trường 20-4. Với những kinh nghiệm đã có và tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, ngày 26 tháng 3 năm 1972, dân quân xã Lộc Yên độc lập bắn rơi một máy bay F4H của Mỹ. Tiếp đến, ngày 20 tháng 7 năm 1972, tự vệ Nông trường 20-4 bằng một loạt đạn trung liên đã bắn rơi 1 chiếc RF4C của giặc Mỹ.[16] Đi đôi với nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, nhiệm vụ chi viện cho chiến trường cũng được chú trọng, các đợt tuyển và giao quân trong năm 1972 Hương Khê đã có gần 1.000 thanh niên nhập ngũ, trong đó có 137 thanh niên công giáo, Hương Khê là đơn vị tuyển quân cao nhất tỉnh Hà Tĩnh. Trong những ngày địch tập trung lực lượng mở cuộc tập kích chiến lược vào thủ đô Hà Nội 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, quân và dân trong toàn huyện tranh thủ khi địch giảm cường độ đánh phá để khôi phục giao thông, tiếp tục đưa nhanh hàng hóa vào tiền tuyến miền Nam.
Bị thất bại nặng nề bởi cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, đồng thời nhận luôn sự thất bại trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2, trước tình thế không thể ngăn chặn được ý chí giải phóng miền Nam của quân và dân ta. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký kết bản Hiệp định Pa ri chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đây là một thắng lợi vô cùng to lớn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ chống đế quốc Mỹ xâm lược. Với thắng lợi này, Hương Khê cùng với các địa phương trên toàn miền Bắc bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ra sức xây dựng tiềm lực làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến.
Để nhanh chóng bắt tay vào nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định cuộc sống cho nhân dân, từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 3 năm 1973, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh họp đánh giá tình hình nhiệm vụ năm 1972 và đề ra phương hướng nhiệm vụ năm 1973 với trọng tâm quán triệt các Nghị quyết của Trung ương, chuyển nhanh, chuyển mạnh khí thế chiến đấu sang trận địa mới khôi phục phát triển sản xuất… Đồng thời luôn đề cao tinh thần cảnh giác, giữ vững ý chí chiến đấu, tiếp tục tăng cường củng cố lực lượng vũ trang và lực lượng đảm bảo giao thông vận tải, bảo vệ sản xuất, bảo vệ cuộc sống hòa bình của nhân dân, sẵn sàng chi viện cho cuộc chiến đấu mới của nhân dân miền Nam… Thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, lực lượng vũ trang Hương Khê, nòng cốt là lực lượng dân quân tự vệ phối hợp cùng toàn dân triển khai ngay việc sửa chữa đường sá, sửa cầu, bốc dỡ hàng hóa, bảo đảm thông xe, thông goòng, thông thuyền nhanh nhất, nhằm giải tỏa lượng hàng hóa lớn còn ứ đọng tại Hương Khê.
Đi đôi với nhiệm vụ khắc phục giao thông vận tải, một nhiệm vụ hết sức nặng nề đối với lực lượng vũ trang Hương Khê đó là việc rà phá bom mìn chưa nổ tại địa bàn. Tháng 3 năm 1973, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy quân sự tỉnh, Ban công binh của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và Ban chỉ huy quân sự huyện cùng lực lượng công binh dân quân xã Hương Thủy tiến hành rà phá một số bom mìn ở tại đập Làng để rút kinh nghiệm cho toàn tỉnh. Sau 58 ngày đêm nghiên cứu và tiến hành, lực lượng công binh đã rà phá được 8 quả bom nổ chậm, có quả nằm sâu hơn 11 mét, bảo đảm an toàn cho lòng đập, Từ những kinh nghiệm ở đập Làng, Ban chỉ huy quân sự huyện tiếp tục chỉ đạo lực lượng công binh dân quân tiến hành rà phá  hàng trăm quả bom trong địa bàn huyện, san lấp hố bom, giải phóng phần lớn đồng ruộng đưa vào sản xuất.
Trong cùng một thời điểm phải triển khai nhiều nhiệm vụ khác nhau, lực lượng vũ trang huyện vừa tích cực rà phá bom mìn, vừa tham gia sửa chữa đường sá, cầu cống, bốc dỡ hàng hóa, vừa tham gia lao động sản xuất phát triển kinh tế. Trên tuyến đường Đồng - Đại, cầu treo Phúc Đồng được khởi công xây dựng, bảo đảm cho ô tô đi lại đến Hói Trí. Đường 15B qua Địa Lợi được làm từ những năm 1968 - 1969, đến cuối năm 1973 đã được nâng cấp, lực lượng huy động làm đường 15B có tới một quân đoàn dân công, mỗi xã đảm nhiệm một đoạn đường, lực lượng nòng cốt vẫn là lực lượng dân quân du kích…Với nhiệm vụ trọng tâm là huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, cơ quan quân sự huyện được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp với yêu cầu xây dựng quân đội từng bước chính quy trong thời bình và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chỉ huy, chỉ đạo trong thời chiến. Sau Hội nghị tổng kết xây dựng lực lượng dân quân tự vệ của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (đầu năm 1973), lực lượng dân quân tự vệ Hương Khê được củng cố và xây dựng theo đúng yêu cầu và bảo đảm đủ số lượng, vừa phù hợp với cơ cấu sản xuất tập trung, lấy chất lượng làm chính, khâu cán bộ là then chốt. Đến cuối năm 1973, lực lượng dân quân tự vệ Hương Khê chiếm 11% dân số, tỷ lệ lãnh đạo trong dân quân tự vệ chiếm 35%, có lực lượng tại chỗ rộng khắp, lực lượng cơ động được biên chế tổ chức chặt chẽ, huấn luyện cơ bản, đã phát huy được vai trò xung kích trên mọi lĩnh vực công tác.
Tuy nhiên, việc quán triệt vị trí tầm quan trọng của công tác xây dựng dân quân tự vệ nhìn chung vẫn chưa đầy đủ, công tác bồi dưỡng cán bộ chưa thường xuyên. Việc duy trì các chế độ, nền nếp sẵn sàng chiến đấu từ sau ngày Hiệp định Pa ri được ký kết có phần lơi lỏng, thiếu chặt hẽ, nên phong trào chuyển chưa đều. ở một số nơi khi có tình huống phức tạp xẩy ra do một số phần tử xấu kích động, gây rối, lực lượng dân quân tự vệ không xử lý được như vụ ở Hương Lâm. Tháng 12 năm 1973, Đại hội Đảng bộ Hương Khê lần thứ 16 đã chỉ ra những thiếu sót, hạn chế, đồng thời xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác lãnh đạo cho thời kỳ mới, trước mắt phát huy những thắng lợi đã đạt được, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang về mọi mặt. Sau Đại hội Đảng bộ huyện, cơ quan Huyện đội tập trung huấn luyện 4 tháng, du kích tự vệ chiến đấu huấn luyện 15 ngày, dân quân huấn luyện 7 ngày. Dân quân tự vệ ngoài chương trình huấn luyện các môn kỹ thuật chung, còn huấn luyện các tổ đội chuyên môn như rà phá bom, mìn, cứu thương, điều lệnh tuần tra canh gác, bảo quản vũ khí… Từ cơ quan quân sự huyện đến các công nông trường xí nghiệp ở Hương Khê đã tổ chức huấn luyện cho tự vệ bằng nhiều hình thức, tranh thủ huấn luyện cả ngoài giờ, huấn luyện ban đêm… Hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong bộ đội địa phương, dân quân tự vệ cũng thường xuyên được quan tâm đúng mức, tổ chức Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn kiện toàn củng cố, tỷ lệ đảng viên trong các đơn vị ngày một tăng và đã phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo trong thực hiện các nhiệm vụ.
Bước sang năm 1974, cách mạng miền Nam đã có những chuyển biến quan trọng, chiến trường đòi hỏi ngày càng lớn, yêu cầu tuyển quân và huấn luyện ngày càng nhiều. Đối với nhiệm vụ huấn luyện trong 2 năm 1974 -  1975, Hội nghị Quân khu ủy tháng 2 năm 1974 xác định: “Phải đưa công tác huấn luyện thành một cao trào rèn luyện cán bộ, bộ đội thực sự có hiệu quả cao, tạo ra chất lượng mới, sức chiến đấu mới để xây dựng quân đội chính quy và hiện đại”[17]. Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện năm 1974, tất cả lực lượng vũ trang Hương Khê đã dẫy lên phong trào thi đua sôi nổi dành chất lượng huấn luyện cao nhất, hoàn thành và đạt kết quả 100% trở lên, trong đó có tỷ lệ đạt khá và giỏi cao. Trong 6 tháng đầu năm 1974, Ban chỉ huy quan sự huyện đã cử cán bộ dự 8 lớp huấn luyện cán bộ bộ binh và 3 lớp cán bộ binh chủng do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh mở. Qua huấn luyện đội ngũ cán bộ được bồi dưỡng toàn diện về kỹ thuật, phương pháp quản lý bộ đội, phương pháp tổ chức huấn luyện làm cơ sở về trực tiếp huấn luyện cho lực lượng dân quân tự vệ huyện nhà. Kết hợp với nhiệm vụ huấn luyện, đầu tháng 7 năm 1974, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh báo động kiểm tra sẵn sàng chiến đấu trong lực lượng vũ trang toàn huyện. Qua kiểm tra 100% các đơn vị đều duy trì tốt các chế độ sẵn sàng chiến đấu. Sau kiểm tra, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh trực tiếp chỉ đạo Hương Khê thực hành diễn tập chống biệt kích, làm cơ sở để bổ sung cho phương án tác chiến cơ bản của tỉnh.
Đi đôi với nhiệm vụ huấn luyện, củng cố xây dựng đơn vị, để đáp ứng yêu cầu chi viện sức người, sức của cho chiến trường ngày càng cao, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hương Khê đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng củng cố hậu phương. Năm 1974, thu hoạch lúa các vụ tăng hơn trước, đời sống nhân dân được cải thiện. Đàn gia súc, gia cầm đều tăng, việc đóng góp nghĩa vụ về lương thực, thực phẩm được bảo đảm đầy đủ. Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, lương thực, thực phẩm vừa tranh thủ sự chu cấp của trên, vừa tận dụng nguyên vật liệu, nông lâm sản tại chỗ tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa phục vụ đời sống, sản xuất. Những thành tựu to lớn đạt được đã góp phần thúc đẩy các hoạt động sản xuất, chiến đấu, chi viện tiền tuyến đạt hiệu quả cao hơn so với những năm trước đó. Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ Tư lệnh quân khu về công tác tuyển quân đợt 2 năm 1974, Thường vụ Tỉnh ủy ra chỉ thị xác định: “Công tác tuyển quân đợt 2 năm 1974 là nhiệm vụ chính trị thường xuyên quan trọng nhưng rất khẩn trương về thời gian.” Nhận rõ tầm quan trọng của công tác tuyển quân lần này, Ban chỉ huy quân sự huyện tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban hành chính huyện chỉ đạo các cơ quan, xí nghiệp, các địa phương làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và triển khai chặt chẽ từ khâu đăng ký, khám tuyển đến giao quân. Kết quả, Hương Khê cùng với các địa phương trong toàn tỉnh đã huy động được 23.000 thanh niên đủ tiêu chuẩn lên đường nhập ngũ  kịp thời bổ sung cho các chiến trường.
Đầu xuân năm 1975, trước những thắng lợi liên tiếp của ta, chiến trường miền Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, ta đã giành được thế chủ động trên toàn chiến trường. Lực lượng phát triển nhanh với những quân đoàn chủ lực cơ động mạnh, đồng thời ta đã chuẩn bị được một khối lượng cơ sở vật chất khá lớn trên các hướng chiến lược. Cơ sở cách mạng trong nhân dân cũng được củng cố vững chắc, đủ điều kiện để mở rộng cuộc tấn công, nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong lúc đó địch ngày càng suy yếu toàn diện cả quân sự, chính trị và kinh tế, tinh thần chiến đấu của binh lính, sỹ quan ngụy giảm sút nghiêm trọng. Khả năng suy sụp và tan rã của địch là không thể tránh khỏi… Nắm vững thời cơ chiến lược này, tháng 1 năm 1975, Bộ chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết lịch sử: Hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị, Tỉnh ủy, ủy ban hành chính tỉnh chủ trương huy động tổng lực sức người, sức của các địa phương chi viện cho chiến trường miền Nam, trực tiếp là Trị - Thiên - Huế. Hương Khê cũng như các địa phương khác trong toàn tỉnh đã huy động tất cả các ngành, các cấp, tập trung mọi phương tiện, mọi khả năng phục vụ cho công tác tuyển quân. Cơ quan quân sự huyện tiến hành điều tra, đăng ký, thống kê nắm chắc lực lượng dự bị động viên ngay từ cuối năm 1974. Cán bộ chủ trì các ngành, các cấp từ huyện đến xã đều gương mẫu cho con em mình tham gia quân đội. Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên bàn biện pháp nuôi dưỡng số thanh niên thấp bé, nhẹ cân nhanh chóng phát triển toàn diện.
Ngày hội tòng quân giết giặc đầu xuân năm 1975 đã trở thành ngày hội truyền thống của thanh niên địa phương. Sau chưa đầy một tháng, toàn huyện đã tổ chức khám tuyển và tiễn đưa 1.327 thanh niên lên đường nhập ngũ. Sau khi giao cho các đơn vị bộ đội chủ lực phần lớn lực lượng tổng dự bị của địa phương, huyện tiếp tục huy động lực lượng để cùng với các địa phương tổ chức 4 trung đoàn bộ binh (117, 238, 15, 375) với cơ cấu và nhiệm vụ khác nhau, sẵn sàng nhận nhiệm vụ bổ sung cho chiến trường.
Để có lực lượng dự trữ bảo đảm chiến đấu tại chỗ và bổ sung liên tục, kịp thời cho chiến trường, từ đầu năm 1975, thực hiện kế hoạch kiện toàn củng cố dân quân tự vệ trong phạm vi toàn tỉnh. Trước mắt tập trung kiện toàn đội ngũ cán bộ xã đội, thôn đội. Thông qua đợt bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp năm 1975, cơ quan quân sự huyện cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương dự kiến sắp xếp lại đội ngũ cán bộ đủ số lượng, phù hợp với cơ cấu và bảo đảm chất lượng lãnh đạo. Kết quả sau bầu cử Hội đồng nhân dân, cán bộ chủ trì quân sự ở cơ sở đều được bầu vào Hội đồng nhân dân xã và đều được cơ cấu vào cấp ủy. Sau khi đã kiện toàn đội ngũ cán bộ, cơ quan quân sự huyện Hương Khê tiếp tục soát xét lại một lần nữa về biên chế, tổ chức lực lượng dân quân tự vệ theo quy mô hợp tác xã và đội sản xuát, bổ sung kịp thời quân số và trang bị cho các đội trực máy bay, các đội tuần tra canh gác. Đối tượng để đưa vào dân quân du kích được mở rộng ở lứa tuổi 17 đến 45.
Đi đôi với nhiệm vụ củng cố lực lượng, Ban chỉ huy quân sự huyện đã triển khai nhiệm vụ huấn luyện theo chương trình thống nhất của tỉnh. Đến hết quý I năm 1975 tất cả các xã đã hoàn thành chương trình huấn luyện, lực lượng tự vệ đã có 2/3 đơn vị triển khai và hoàn thành chương trình huấn luyện cả năm. Tháng 2 năm 1975, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh kiểm tra chế độ sãn sàng chiến đấu của Lâm trường Chúc A, rút kinh nghiệm bổ sung nội dung huấn luyện dân quân tự vệ trong toàn tỉnh. Trong những ngày cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1975, diễn biến trên chiến trường miền Nam ngày càng có lợi cho ta, địch đang ngày càng lâm vào tình trạng bị động, bất lợi. Thời cơ giải phóng miền Nam đang đến gần, nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lúc này càng khẩn trương và cấp bách. “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, dồn sức cho chiến trường miền Nam đánh thắng”. Hương Khê tập trung mọi cố gắng huy động lực lượng, phương tiện tốt nhất, chất lượng cao nhất kịp thời nhất cho tiền tuyến.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giành toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến đầy gian khổ và hy sinh của nhân dân cùng lực lượng vũ trang cả nước. Kết thúc cuộc chiến tranh tuy có nhiều hy sinh, mất mát, song quân và dân Hương Khê rất phấn khởi và tự hào đã được đóng góp sức người, sức của vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Hương Khê đã động viên được 6.550 thanh niên lên đường nhập ngũ; 9.786 người đi thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến dài ngày; huy động gần 3 triệu công của dân công trung, hỏa tuyến. Điều động công nghĩa vụ làm được 198.000m3 đất, 756m3 đá, đóng nộp 31.200 cây tre làm cọc chống lầy… Trong số con em yêu quý của quê hương Hương Khê nhập ngũ, đi thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến bổ sung cho các đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường, đã có 1.734 đồng chí anh dũng hy sinh, 1.060 thương binh.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hương Khê cùng với các địa phương khác thuộc Quân khu 4 vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương, đế quốc Mỹ đã nhiều lần tung gián điệp biệt kích phá hoại nội địa, sử dụng trên 4 vạn lần chiếc máy bay ném xuống đất Hà Tĩnh gần 200.000 tấn bom đạn các loại, gây hậu quả rất nặng nề về cả người và của . Nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, quân dân Hương Khê vượt lên mọi khó khăn gian khổ và bom đạn ác liệt của kẻ thù, kiên cường chiến đấu, phối hợp với các lực lượng phòng không bắn rơi 46 chiếc máy bay Mỹ tại địa bàn; trong đó lực lượng dân quân tự vệ Hương Khê độc lập bắn rơi 9 chiếc. Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Hương Khe là một trong những trọng điểm của tỉnh bị địch thường xuyên đánh phá ác liệt, nhưng các tuyến giao thông vẫn được giữ vững, nhiều địa danh nổi tiếng tiêu biểu cho mặt trận bảo đảm giao thông vận tải như Khe Giao, Địa Lợi, Chu Lễ, Bến Trúc, Lộc Yên… được lịch sử ghi nhận như một chiến công  hiển hách và mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Hương Khê, nhân dân cả nước và những người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc.





















Chương bốn

Lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê trong xây dựng, bảo vệ tổ quốc và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
(1975 - 2010).

Sau ngày đất nước độc lập thống nhất, Hương Khê cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước đang gặp muôn vàn khó khăn chồng chất, nặng nề do hậu quả chiến tranh để lại. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Nhưng cũng chính vào thời điểm đó, Tổ quốc lại phải tiếp tục đương đầu với chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch ở hai đầu biên giới đất nước cùng với chiến tranh phá hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác.
Xuất phát từ những đặc điểm tình hình chung trên thế giới và trong nước, lực lượng vũ trang Hương Khê tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của mình trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh hợp nhất (Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh), sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy Hương Khê tiếp tục vượt qua mọi khó khăn thử thách, ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, củng cố xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, góp phần cùng toàn dân khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội huyện nhà ngày một giàu đẹp.
1. Cùng toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế.
Trước tình hình và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, hòa chung với niềm vui toàn thắng, từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 8 năm 1975, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ 17, Đại hội tập trung đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ vừa qua, Nghị quyết Đại hội khẳng định: Mặc dù hàng năm đều bị hạn hán, rét đậm, số thanh niên lên đường đi bộ đội quá nhiều; trong 6 tháng đầu năm 1975 huyện còn phải huy động 763 lao động cho công trường, lâm trường, xí nghiệp của tỉnh và Trung ương… nhưng với sự cố gắng của toàn quân, toàn dân, Hương Khê vẫn đạt được thành tựu trên tất cả các mặt. Năng suất lúa từ 12,76 tạ/ha lên 14,4 tạ/ha. Tổng lương thực năm 1975 tăng hơn năm 1974 gần 1.100 tấn… Công tác tuyển quân đạt 102,3%, tuyển lao động đạt 103%. Giáo dục, văn hóa phát triển. Trong phương hướng nhiệm kỳ tới, đối với công tác quốc phòng, Nghị quyết Đại hội tiếp tục khẳng định: quán triệt xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ tài sản Nhà nước và tập thể. Tiếp tục củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ, công an, làm tròn nghĩa vụ tuyển quân…
Trên cơ sở những chủ trương của Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, đồng thời thực hiện điện chỉ đạo của Tổng cục chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam, Cấp ủy - Ban chỉ huy quân sự huyện tập trung giáo dục chính trị, làm chuyển biến nhận thức tư tưởng của bộ đội và dân quân tự vệ trước tình hình mới. Nhanh chóng điều chỉnh sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức. Ban chỉ huy quân sự huyện gồm các đồng chí: Lương Đình Ước - Chỉ huy trưởng; …….. Chính trị viên, Nguyễn Hữu Nghĩa, Chỉ huy phó - Tham mưu trưởng. Sau khi được kiện toàn, cơ quan quân sự huyện đi vào cải tiến phương pháp công tác và hình thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới. Khẩn trương giải quyết công tác chính sách trong chiến đấu đối với thương binh, liệt sỹ, công tác khen thưởng, kỷ luật… Tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm các mặt công tác trong chiến đấu. Trước mắt, thực hiện chỉ thị của trên tập trung vào nhiệm vụ chuyển lực lượng vũ trang “từ thời chiến sang thời bình”; thực hiện thu hồi, quản lý sử dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật và một số công tác trước mắt về tham mưu, chính trị, hậu cần, nhằm tạo thế và lực mới trong thực hiện nhiệm vụ mới.
Sau ngày đất nước độc lập, thống nhất, lực lượng vũ trang Hương Khê cùng lực lượng vũ trang cả nước chuyển nhiệm vụ từ thời chiến sang thời bình. Tuy nhiên, để bảo vệ vững chắc những thành quả đạt được, nhiệm vụ trọng tâm của lực lượng vũ trang vẫn phải xác định “… nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu là nhiệm vụ trọng tâm. Tích cực chuẩn bị cho cuộc phòng thủ đất nước lâu dài. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang quân khu tiến lên chính quy hiện đại là nhiệm vụ cơ bản thường xuyên”[18]. Phương hướng chung của lực lượng vũ trang quân khu được Bộ Tư lệnh quân khu xác định trong tháng 8 năm 1975, cấp ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện tổ chức quán triệt cho toàn thể lực lượng vũ trang huyện, xác định rõ phương hướng nhiệm vụ trước mắt cho bộ đội, dân quân tự vệ thường xuyên sẵn sàng chiến đấu, đồng thời chuẩn bị các phương án, tổ chức lực lượng phòng thủ địa bàn huyện, tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế.
Thực hiện Nghị quyết ngày 3 tháng 10 năm 1975 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về phân chia địa giới hành chính trên cả nước. ở địa bàn Quân khu 4, từ 6 tỉnh và 1 địa phương tương đương cấp tỉnh (khu vực Vĩnh Linh) được sáp nhập thành 3 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ - Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), Bình - Trị - Thiên (Quảng Bình, khu vực Vĩnh Linh, Quảng Trị, Thừa Thiên). Theo đó, ngày 16 tháng 1 năm 1976, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định hợp nhất hai Bộ chỉ huy quân sự Nghệ An và Hà Tĩnh thành Bộ chỉ huy quân sự Nghệ Tĩnh, lực lượng vũ trang hai tỉnh thành lực lượng vũ trang tỉnh Nghệ Tĩnh. Theo quy định, các đơn vị trực thuộc đóng quân trên địa bàn nào thì được giữ nguyên vị trí đó. Từ đây, lực lượng vũ trang Hương Khê thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh. Sau khi hợp nhất, Ban Thường vụ Đảng ủy quân sự tỉnh chủ trương lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện điều chỉnh một số các đơn vị cho phù hợp với địa bàn cơ động sẵn sàng chiến đấu… Chỉ đạo mỗi huyện thành lập một bộ phận giúp Chủ tịch ủy ban nhân dân tổ chức các đội khảo sát tình hình biên giới giáp Lào của tỉnh. Thực hiện sự chỉ đạo này, Hương Khê thành lập 3 đội khảo sát tình hình biên giới của huyện.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự năm 1976, lực lượng vũ trang Hương Khê luôn không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, kiên quyết trấn áp mọi hành động chống đối phá hoại của địch… Luôn phát huy vai trò nòng cốt xung kích của lực lượng vũ trang trong lao động sản xuất, thực hiện chế độ lao động xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng. Từ tháng 3 năm 1976, lực lượng vũ trang toàn huyện triển khai nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng lực lượng. Duy trì đúng thời gian huấn luyện chung là 80 ngày. Đi đôi với nhiệm vụ huấn luyện, lực lượng vũ trang huyện mà nòng cốt là lực lượng dân quân tham gia làm kinh tế, đặc biệt trong các đợt huy động nhân lực cho một số nhiệm vụ của tỉnh, nhất là công trình xây hồ Kẻ Gỗ - Bộc Nguyên (lực lượng dân quân tự vệ tham gia công trình Kẻ Gỗ lên tới 11.000 người).
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về vai trò, vị trí của dân quân tự vệ: “Dân quân tự vệ là lực lượng của chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt xung kích trong lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở thôn xóm”. Bởi vậy, đi đôi với nhiệm vụ huấn luyện, tham gia xây dựng kinh tế, công tác củng cố lực lượng dân quân tự vệ cũng được huyện triển khai tích cực. Trong 6 tháng đầu năm 1976, toàn huyện có 25/27 xã, thị trấn củng cố cơ bản đội ngũ dân quân tự vệ cơ sở. Đội ngũ cán bộ từ tiểu đội trưởng trở lên được kiện toàn. Lực lượng vũ trang huyện luôn duy trì nghiêm các hoạt động bảo vệ trật tự trị an, thường xuyên sẵn sàng chiến đấu cao, đặc biệt trong nhiệm vụ tham gia lao động xây dựng kinh tế, lực lượng dân quân tự vệ luôn phát huy tốt vai trò là lực lượng nòng cốt. Đến cuối năm 1976, số lượng dân quân tự vệ tăng nhanh, tổ chức biên chế ngày càng phù hợp với tình hình thực tế, phát triển đúng hướng. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp, lực lượng dân quân tự vệ huyện vừa củng cố phát triển tổ chức, vừa tích cực tham gia trên các công trường lao động do Ban chỉ huy quân sự huyện phụ trách.
Từ ngày 01 đến ngày 04 tháng 11 năm 1976, Đảng bộ quân sự tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ quân sự tỉnh vòng 1 (khóa I), đây là Đại hội đầu tiên từ khi nhập tỉnh. Đại hội đề ra phương hướng lãnh đạo nhiệm vụ trước mắt đến Đại hội vòng 2 (quý I/1977), tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm: Hoàn thành nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo lực lượng dân quân tự vệ toàn tỉnh xung kích lao động trên công trường tiêu úng Vách Bắc. Thống nhất và tiến hành kiện toàn tổ chức biên chế cơ quan, đơn vị phù hợp với tình hình mới. Hoàn thành tổng kết quân sự địa phương và thực hiện công tác chính sách đơn vị quân đội, đẩy mạnh công tác sản xuất tự túc… Thực hiện Nghị quyết Đại hội vòng 1 của Đảng bộ quân sự tỉnh, lực lượng vũ trang Hương Khê tiến hành tổng kết toàn diện nhiệm vụ, triển khai đợt sinh hoạt tự phê bình trong các tổ chức cơ sở Đảng, nhằm đánh giá thực chất mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Điểm nổi bật trong nhiệm vụ bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện là đã thường xuyên xác định đây là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài. Đối với dân quân tự vệ đã tập trung củng cố 100% số xã (25/25 xã), hơn 85% cơ sở tự vệ. Đối với nhiệm vụ huấn luyện, huấn luyện dân quân tự vệ đã kết hợp được với nhiệm vụ lao động sản xuất, có 23/25 xã thực hiện huấn luyện các nội dung đạt 90% kế hoạch.
Sau Hội nghị chuyên đề về “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn cấp huyện”, do Tỉnh ủy tổ chức vào ngày 22 tháng 1 năm 1977 tại Quỳnh Lưu. Từ tháng 2 năm 1977, Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh giao nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang các huyện, thực hiện lệnh điều động một số đơn vị của tỉnh thực hiện nhiệm vụ chung của quân khu. Lực lượng vũ trang Hương Khê nhận nhiệm vụ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh giao, đồng thời triển khai thực hiện Chỉ thị 21 của Bộ Quốc phòng với 3 nội dung: Củng cố nâng cao chất lượng dân quân tự vệ; đăng ký thống kê quản lý chặt chẽ lực lượng dự bị động viên, thực hiện tuyển quân, phục viên, chuyển ngành và tăng cường công tác giáo dục quốc phòng. Cuối năm 1977, thực hiện Chỉ thị 270/CT của Thường vụ Đảng ủy về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trước mắt đối với lực lượng vũ trang toàn tỉnh, Ban chỉ huy quân sự huyện phối hợp với lực lượng công an, tự vệ triển khai củng cố các phương án bảo đảm an toàn nội địa, trên không, biên giới trên địa bàn huyện. Ngăn chặn, dập tắt các vụ bạo loạn, chống đối phá hoại… đồng thời triển khai lực lượng phòng chống bão lụt, khắc phục hậu quả thiên tai. Đặc biệt đã tổ chức được nhiều phong trào thi đua sôi nổi chào mừng Đại hội Đảng các cấp và kỷ niệm các ngày lễ lớn. Sau đợt thi đua “Tháng tám quật khởi, tháng chín vẻ vang”, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, lực lượng vũ trang huyện tiếp tục phát động phong trào “Ngày chủ nhật lao động xã hội chủ nghĩa”, “Giờ thứ tám lao động cộng sản chủ nghĩa”, “Hướng về 70 năm cách mạng tháng Mười Nga”
Đối với công tác chính sách giải quyết những tồn đọng sau chiến tranh, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, huyện tích cực khẩn trương làm xong việc xác minh và báo tử số cán bộ, chiến sỹ mất tin. Hoàn thành hồ sơ thông báo về địa phương; đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương tổ chức điều tra, tìm kiếm, chuẩn bị phương án, phương tiện, địa điểm quy tập mộ liệt sỹ theo quy hoạch của tỉnh.
Đi đôi với nhiệm vụ quân sự, trong sản xuất phát triển kinh tế, lực lượng vũ trang huyện chủ yếu là lực lượng dân quân tự vệ tiếp tục làm tốt vai trò nòng cốt, trong năm 1977 tuy gặp nhiều khó khăn như thiên tai nặng nề, cơ sở vật chất yếu kém, đời sống ở một số vùng trong huyện giảm sút mạnh. Song nhìn chung sản xuất nông nghiệp vẫn tăng về diện tích, nhất là màu, khoai lang, vừng đen xuất khẩu. Sản xuất lâm nghiệp, cơ khí Trường Sơn đều vượt kế hoạch. Một số hợp tác xã đã đi vào chuyên canh, chăn nuôi trâu bò, lợn tập thể và hộ xã viên đều tăng. Hoàn thành dứt điểm một số công trình thủy lợi, giao thông, phúc lợi tập thể.
Từ cuối năm 1977, thực hiện quy định của Bộ về sẵn sàng chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ Hương Khê tăng cường trạng thái sẵn sàng chiến đấu theo quy định ba cấp: Thường xuyên, tăng cường, lên cao và ba cấp báo động: Báo động cấp 3 là cấp thấp nhất, có thời gian để hành động sau khi nhận lệnh nhưng chưa triển khai. Cấp 2 là sẵn sàng chiến đấu cao hơn cấp 3, các cơ sở sẵn sàng nổ súng khi có lệnh.. Cấp 1 đã triển khai hoàn toàn tại vị trí chiến đấu chờ lệnh nổ súng. Đối với các lực lượng thường trực có ba trạng thái: Thường xuyên, tăng cường và cao nhất. Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện cũng như toàn tỉnh được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh giao cụ thể bao gồm cả bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm, đồng thời chủ động nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội địa bàn tỉnh, huyện, sẵn sàng phối hợp với các lực lượng khác khi có yêu cầu; thực hiện các nhiệm vụ đột xuất như chống bão lụt, cháy nổ, cứu nạn, cấp cứu nhân dân khi thiên tai, hỏa hoạn xẩy ra trên địa bàn.
Đầu năm 1978, giữa lúc quân và dân ta đang tập trung xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất thì tình hình biên giới Tây Nam trở nên căng thẳng do tập đoàn Pôn Pốt-Iêng xa-ri phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 19 tháng 4 năm 1978, Đảng ủy quân sự tỉnh ra Nghị quyết xác định: “Tập trung sức làm tốt việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, tăng nhanh tiềm lực kinh tế - quốc phòng. Chuẩn bị tốt mọi mặt sẵn sàng chuyển sang thời chiến khi chiến tranh xẩy ra. Xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trên mặt trận lao động sản xuất”[19]
Từ những chủ trương lãnh đạo của Đảng ủy quân sự tỉnh và của Huyện ủy Hương Khê, lực lượng vũ trang Hương Khê tập trung đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ trung tâm trước mắt là đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm chiến đấu thắng lợi, giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trong toàn huyện. Góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch chỉ tiêu kinh tế năm 1978… Đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự túc lương thực, thực phẩm bảo đảm tự túc được từ 6 tháng trở lên; đồng thời chuẩn bị tốt cơ sở vật chất phấn đấu tự túc 100% trong năm 1979. Tập trung làm chuyển biến thực sự vững chắc về tình hình kỷ luật của bộ đội và chấp hành pháp luật của Nhà nước. Triển khai rộng rãi xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn cấp huyện, trước mắt là tuyến biên giới của huyện tiếp giáp với nước bạn Lào. Thực hiện sự chỉ đạo của trên, huyện tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm về triển khai nhiệm vụ đối với dân quân tự vệ trong hai năm 1976 - 1978. Đồng thời triển khai phương án kế hoạch chiến đấu, bảo vệ các mục tiêu, bảo vệ trật tự trị an địa bàn, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thực hiện các yêu cầu của nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Nhanh chóng triển khai kế hoạch huấn luyện. Trong thời gian này Bộ chỉ huy quân sự tỉnh mở 3 lớp tập huấn cho 213 cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị các hyện, thị, thành phố. Cán bộ chủ trì cơ quan quân sự huyện đã tham gia các lớp tập huấn này, qua tập huấn đã tiếp thu được những nội dung cơ bản, làm cơ sở để mở các lớp tập huấn tại huyện cho cán bộ tự vệ và cán bộ xã đội trong toàn huyện. Đi đôi với nhiệm vụ huấn luyện, nhiệm vụ tuyển quân đợt 1 năm 1978, Hương Khê hoàn thành việc khám, tuyển và giao quân, đạt 100% chỉ tiêu.
Trong 6 tháng cuối năm 1978, việc củng cố lực lượng dân quân tự vệ được triển khai toàn diện, tất cả các xã, cơ quan xí nghiệp, nông lâm trường… vừa gắn việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ với tổ chức lực lượng cơ động chiến đấu. Số lượng dân quân tự vệ toàn huyện nhanh chóng được tăng lên từ 30 - 40% so với năm 1977. Hương Khê cùng với các đơn vị Hương Sơn, Đức Thọ, thành phố Vinh đã tổ chức được trung đoàn tự vệ chiến đấu. Lâm trường Chúc A của huyện thành lập được trung đoàn bộ binh cơ động biên giới và đường 15.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 19 tháng 8 năm 1978, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Tổ chức Đảng và tổ chức công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Tổ chức Đảng trong quân đội nhân dân được tổ chức theo hệ thống dọc từ cơ sở lên… ở huyện, nếu có bộ đội địa phương thì thành lập Đảng ủy, nếu không thì thành lập Ban cán sự do Huyện ủy chỉ định, Tỉnh ủy chuẩn y sau khi đã lấy ý kiến của Đảng ủy quân sự tỉnh. Về quan hệ giữa Đảng ủy quân sự tỉnh và Đảng ủy (hoặc Ban cán sự) huyện đều thực hiện như quan hệ giữa Đảng ủy quân khu và Đảng ủy quân sự tỉnh, thành phố. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày…. tháng…. năm 1978, Thường vụ Huyện ủy Hương Khê ra quyết định giải thể chi bộ Ban chỉ huy quân sự huyện và thành lập Đảng bộ quân sự huyện. Đồng chí Lương Đình Ước, Thường vụ Huyện ủy, Huyện đội trưởng được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy quân sự huyện[20]. Sau khi được thành lập, Đảng ủy quân sự huyện đã phân công cán bộ về tất cả các cơ sở rà soát, nắm lại tình hình cán bộ, tổ chức quân sự, đánh giá đúng thực trạng tình hình các đơn vị dân quân tự vệ để ra nghị quyết lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ rang trong những năm tiếp theo.
Ngày 3 tháng 10 năm 1978, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra chỉ thị về kiện toàn cơ quan quân sự cấp tỉnh, huyện. Căn cứ chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Đảng ủy quân sự tỉnh chỉ đạo cơ quan quân sự huyện thực hiện nghiêm túc chỉ thị của Bộ, theo chỉ thị của Bộ quy định, tỉnh ngang cấp sư đoàn, huyện ngang cấp trung đoàn. Đây là giai đoạn cơ quan chỉ huy lực lượng vũ trang huyện được củng cố tăng cường, được biên chế đủ từ cơ quan đến các ban, ngành. Đi đôi với việc kiện toàn cơ quan Ban chỉ huy quân sự huyện, lực lượng vũ trang Hương Khê tiếp tục được củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ dân quân tự vệ, trọng tâm là vùng xung yếu trong nội địa và biên giới. Trong thực hiện xây dựng pháo đài cấp huyện, Hương Khê tập trung vào kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản; xây dựng hệ thống làng, xã, xí nghiệp, công nông lâm trường chiến đấu; cụm chiến đấu liên hoàn, hệ thống điểm tựa; đồng thời quân sự hóa toàn dân. Lãnh đạo chặt chẽ nhiệm vụ và kế hoạch tuyển quân. Năm 1978, Hương Khê đã tuyển và giao quân đạt 100,1% kế hoạch.
Đầu năm 1979, tình hình biên giới phía Bắc nước ta có nhiều diễn biến hết sức căng thẳng, đi đôi với các hoạt động xung đột vũ trang, địch tập trung một lực lượng lớn cùng với nhiều phương tiện chiến tranh triển khai áp sát trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. ở hướng biển chúng huy động một số tàu chiến vào tuyến chuẩn bị. Ngày 12 tháng 2 năm 1979, chiến tranh nổ ra trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, buộc quân và dân biên giới phía Bắc nước ta phải cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ngày 18 tháng 2 năm 1979, Đảng ủy quân khu (khối quân sự) họp mở rộng xác định: “Cuộc chiến tranh đang ở tình huống 1, toàn bộ lực lượng dân quân du kích đang ở trong tình trang thời chiến. Quân khu giao cho các địa phương khi chưa có địch tấn công vào địa bàn mình cần khẩn trương tiếp tục làm công tác chuẩn bị. Kiên quyết loại trừ bất ngờ, gấp rút chuẩn bị thế trận và lực lượng theo phương án. Đến 30 tháng 3 năm 1979 mọi mặt chuẩn bị phải hoàn thành. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh có trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ chiến đấu và chuẩn bị chiến đấu. Tổ chức quân sự hóa toàn dân, xây dựng phương án đánh địch tại chỗ, sơ tán, phòng tránh, làm trong sạch địa bàn.”[21]
Sau khi tỉnh thành lập Bộ chỉ huy thống nhất theo quyết định của Bộ Chính trị, Ban chỉ huy quân sự thống nhất huyện Hương Khê và các xã trong huyện cũng được thành lập, đồng chí Lương Đình Ước, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự thống nhất huyện. Việc thành lập cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất huyện và các xã nhằm bảo đảm thống nhất lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ các lực lượng vũ trang địa phương, công an, động viên nhân dân tham gia chiến đấu đánh địch, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, huy động nhanh chóng lực lượng phía sau lên phía trước, phát hiện và đập tan các cuộc bạo loạn trong nội địa. Trên cơ sở nhiệm vụ chung của quân khu, của tỉnh và của huyện nhà, với đặc điểm, vị trí nhiệm vụ chung của tỉnh vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương. Đảng ủy quân sự tỉnh xác định một số nhiệm vụ cụ thể của cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất gồm:
- Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng công an vững mạnh, có sức chiến đấu cao, thực sự sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.
- Xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, bờ biển, hải đảo, bảo vệ vững chắc địa bàn tỉnh và quân khu.
- Kịp thời phát hiện và đập tan các cuộc bạo loạn trong nội địa tỉnh.
- Chi viện cho các tỉnh biên giới, cho các hướng về sức người, sức của một cách đầy đủ, kịp thời nhất, chất lượng tốt nhất.
- Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, chỉ huy tập trung, thống nhất, tiến hành chiến tranh nhân dân ở địa phương, tiêu diệt bất cứ kẻ thù nào khi chúng có âm mưu, hành động gây chiến tranh xâm lược, kết hợp chặt chẽ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và sản xuất.
Căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của mình, Ban chỉ huy quân sự thống nhất huyện khẩn trương triển khai thực hiện các công tác cấp bách, bao gồm tổ chức xây dựng lực lượng, xây dựng công trình phòng thủ; triển khai nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, sẵn sàng bổ sung cho bộ đội thường trực. Với sự nỗ lực của Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện, Hương Khê cùng với các địa phương trong toàn tỉnh huy động được 76.000 thanh niên nhập ngũ và lực lượng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu (trong đó tổ chức được Sư đoàn bộ binh 348 xong trong tháng 4 năm 1979, hai đội đặc công, khôi phục nhanh được 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương… ). Ngoài ra còn tổ chức được lực lượng phòng không nhân dân từ cấp xã, do đồng chí Phó chủ tịch xã làm Trưởng ban phòng không. Sau khi các đơn vị, cơ quan được tổ chức xong, lực lượng vũ trang huyện bắt đầu bước vào tập huấn cán bộ, củng cố tổ chức quần chúng và triển khai huấn luyện theo yêu cầu “sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chiến đấu được ngay”. Quân và dân Hương Khê cùng quân dân toàn tỉnh đang hướng ra tiền tuyến, luôn sẵn sàng về tư tưởng và tổ chức, có lệnh là lên đường chiến đấu. Ban chấp hành Đảng bộ quân sự yêu cầu toàn thể lực lượng vũ trang huyện nhận thức rõ nghĩa vụ thiêng liêng trước sự mất còn của Tổ quốc. Đối với cán bộ điều động phải đi, đến phải nhận, thực hiện khẩn trương đúng thời gian quy định. Trong lúc chưa có mệnh lệnh thì dồn toàn bộ tâm sức tổ chức xây dựng lực lượng, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện về tư tưởng, tổ chức, năng lực lãnh đạo, chỉ huy; trình độ kỹ, chiến thuật, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân kết hợp chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, lao động sản xuất. Kiên quyết chống mọi biểu hiện thiếu lòng tin, ngại chiến tranh ác liệt lâu dài, đặc biệt tư tưởng dao động, hoài nghi.
Ngày 17 tháng 12 năm 1979, Đảng bộ tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ X. Đây là nhiệm kỳ mà Đảng bộ Nghệ Tĩnh phải tập trung lãnh đạo cao nhất cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang tỉnh nhà… Trên cơ sở thực hiện chỉ thị của Đảng ủy quân khu về sẵn sàng chiến đấu chống địch tiến công đổ bộ vào quân khu. Đảng bộ quân sự tỉnh tập trung quán triệt cho tất cả các hướng về tình hình chung: Hiện nay nước ta đang ở trong tình huống 1, bọn xâm lược đang ráo riết chuẩn bị hành động phiêu lưu quân sự mới, nên các đơn vị phải tập trung cao độ vào nhiệm vụ hàng đầu là khẩn trương nâng cao hơn nữa chất lượng mọi mặt công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, loại trừ bằng được mọi bất ngờ.
Quán triệt và triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy cấp trên, lực lượng vũ trang Hương Khê thường xuyên quán triệt tình hình nhiệm vụ mới, đường lối, quan điểm quân sự của Đảng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhận thức rõ kẻ thù mới, đối tượng tác chiến mới sâu sắc và triệt để. Từ đó lực lượng vũ trang huyện đã chuyển biến về nhiều mặt, tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của địch được nâng cao hơn; ý thức chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu có chiều sâu và thiết thực hơn. Hệ thống phòng thủ trong huyện, đặc biệt cụm làng xã chiến đấu được xây dựng. Lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích được tăng cường cả số lượng và chất lượng. Quân dự bị động viên được tổ chức, huấn luyện tốt. Trước tình hình biên giới Việt - Lào, ở nội địa, tình hình vượt biên, nhân dân xâm nhập biên giới ngày càng tăng. Từ đó đặt ra một số yêu cầu về tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ. Tập trung xây dựng tổ chức Đảng các cấp trong bộ đội địa phương huyện. Thường xuyên thực hiện tốt chức năng tham mưu kịp thời cho cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã, các cơ quan xí nghiệp công - nông - lâm trường về nhiệm vụ xây dựng địa bàn và sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu thắng lợi.
Để tập trung lãnh đạo tốt nhiệm vụ quân sự - quốc phòng trong hai năm 1980 - 1981, ngày 28 tháng 1 năm 1980, Đảng ủy Quân khu 4 triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng bộ quân khu, Hội nghị này có tầm quan trọng như Đại hội Đảng, Hội nghị đề ra một số nhiệm vụ cơ bản của lực lượng vũ trang quân khu trong hai năm 1980 - 1981: “Đẩy mạnh công tác phòng thủ sẵn sàng chiến đấu, đưa tổ chức phòng thủ quân khu vào thế vững chắc, bảo đảm luôn luôn sẵn sàng đánh bại mọi hành động mới của địch. Ra sức nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh nhiệm vụ sản xuất, tự túc giải quyết một phần lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng và xây dựng cơ bản, thuốc chữa bệnh và hàng tiêu dùng, hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế được cấp trên giao”[22].
Sau Hội nghị cán bộ Đảng bộ quân khu, Tư lệnh quân khu ra Mệnh lệnh số 02 cho lực lượng vũ trang toàn tỉnh, mệnh lệnh gồm 5 nội dung chính là: Tiêu diệt và đánh bại các cuộc tấn công của địch; tập trung sức mạnh của tỉnh xây dựng nâng cao chất lượng thế trận phòng thủ; chuẩn bị kế hoạch, lực lượng cơ sở quần chúng; sẵn sàng chi viện nhân tài, vật lực và xây dựng lực lượng. Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy, mệnh lệnh của Tư lệnh quân khu, từ tháng 3 năm 1980, Huyện ủy và Đảng ủy quân sự tập trung kiện toàn tổ chức Đảng bộ lực lượng vũ trang huyện. Tiếp nhận, đồng thời chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ huy quản lý mọi mặt các đơn vị thuộc lực lượng biên phòng ở địa bàn Hương Khê. Ban chỉ huy quân sự huyện được củng cố gồm các đồng chí: Lương Đình Ước - Chỉ huy trưởng; (đồng chí Chính trị viên chưa rõ); Nguyễn Thế Nghĩa - Phó chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng; (đồng chí Chỉ huy phó động viên và phó chính trị viên chưa rõ). Thực hiện quyết định của Tỉnh ủy, chi bộ bộ đội biên phòng huyện chuyển thuộc Đảng bộ quân sự huyện trực thuộc Huyện ủy Hương Khê.
Giữa năm 1981, cùng với việc tăng cường củng cố tổ chức Đảng các cấp trong Đảng bộ, thực hiện Chỉ thị của Tổng Tham mưu trưởng về tổ chức diễn tập chỉ huy và tham mưu, từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 7 năm 1981, quân khu tổ chức cuộc diễn tập C81. Thành phần tham gia diễn tập của tỉnh gồm: Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân và các ngành chủ chốt, Bộ chỉ huy quân sự Tỉnh, Ban chỉ huy quân sự huyện Diễn Châu, lực lượng vũ trang tỉnh thực hành diễn tập chỉ huy tham mưu hai cấp từ Cửa Hội đến Lạch Trường. Lực lượng chủ lực tỉnh tham gia 7.518 người, địa phương 3.525 người cùng lực lượng dân quân tự vệ huyện Diễn Châu. Lực lượng vũ trang Hương Khê không thuộc thành phần tham gia diễn tập, nhưng số cán bộ cơ quan quân sự huyện tham gia theo dõi diễn tập đã nắm rõ hơn phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân theo đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta, thấy rõ sự đoàn kết nhất trí Quân - Dân - Chính - Đảng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, việc xử lý các tình huống chiến dịch một cách đúng đắn… Thắng lợi của cuộc diễn tập C81 có ý nghĩa quan trọng, đã làm cho các ngành, các cấp có thêm những chuyển biến tích cực trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng. Đối với lực lượng vũ trang càng nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu trước những âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Đầu tháng 9 năm 1981, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng ủy quân sự tỉnh triển khai thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng nhân dân chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Ban chỉ huy quân sự huyện, một mặt tích cực bổ sung hoàn chỉnh các phương án chiến đấu, củng cố xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức huấn luyện quân sự phù hợp với điều kiện cụ thể của từng cụm chiến đấu, từng địa phương… Mặt khác, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực chỉ huy tham mưu tác chiến cho đội ngũ cán bộ các ban ngành, cơ sở, với mục đích làm cho mọi người nắm vững nội dung xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Quán triệt và thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, Ban chỉ huy quân sự huyện tham mưu cho Huyện ủy chỉ đạo hướng vào ba mục tiêu cụ thể gồm: tạo ra một lực lượng hùng hậu, rút ngắn thời gian huấn luyện bộ đội chủ lực, giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ.
Để bảo đảm cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại chỗ của lực lượng vũ trang huyện, trên cơ sở tiếp tục xây dựng huyện thành pháo đài quân sự, Ban chỉ huy quân sự huyện tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo xây dựng các làng, xã xây dựng thành một đơn vị chiến đấu trong thế trận liên hoàn các cụm chiến đấu. Các đơn vị chiến đấu được tổ chức, biên chế theo đội hình sản xuất. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự tỉnh và của Huyện ủy Hương Khê, năm 1981 huyện đã làm tốt công tác tổ chức lực lượng, quân số dân quân đạt hơn 12% so với dân số toàn huyện; số tự vệ đạt 75,3% so với số công nhân viên chức Nhà nước.
Trong năm 1981, thực hiện Chỉ thị 01, 02 của Liên Bộ Quốc phòng - Bộ Nội vụ về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để toàn quân và toàn dân thực hiện thành công các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, Ban chỉ huy quân sự huyện kết hợp chặt chẽ với cơ quan công an huyện xây dựng phương án tác chiến, xác định các khu vực trọng điểm trên địa bàn, thường xuyên duy trì chế độ trực ban, trực chỉ huy, thực hành báo động kiểm tra; đồng thời phối hợp kiểm tra thường xuyên cũng như đột xuất, bảo vệ tốt tài sản của Nhà nước và của nhân dân… những việc làm thường xuyên này của lực lượng vũ trang nhân dân huyện và cơ quan công an càng làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào chính quyền, tin tưởng vào lực lượng vũ trang huyện và hoàn toàn an tâm sản xuất, phát triển kinh tế.
Bước sang năm 1982, đất nước ta vẫn trong tình trạng vừa có hòa bình, vừa phải đối phó với tình huống có thể có chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Đồng thời đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại hết sức thâm độc và xảo quyệt của các thế lực thù địch đang ra sức chống phá sự nghiệp cách mạng. Từ thực tiễn tình hình này, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ trên giao, Đảng ủy quân khu họp ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ quân sự cho lực lượng vũ trang quân khu, trọng tâm: “Thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân; không ngừng xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang quân khu, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. Trước mắt, cùng với các lực lượng chủ động, kiên quyết tập trung đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của chúng trên địa bàn quân khu và trên chiến trường quân khu đảm nhiệm. Chuẩn bị sẵn sàng chi viện cho các chiến trường và làm tròn nghĩa vụ quốc tế”.
“Chiến tranh phá hoại nhiều mặt” là một dạng chiến tranh mới, quan hệ rất chặt chẽ với chiến tranh xâm lược quy mô lớn của địch, nhằm mục đích làm suy yếu để thôn tính đất nước ta… Bởi vậy, để tập trung làm tốt nhiệm vụ chống chiến tranh phá hoại, chuẩn bị chống chiến tranh xâm lược lớn, nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang, huấn luyện quân sự… Ngày 31 tháng 5 năm 1982, quân khu đã hoàn chỉnh đề án “Kiên quyết đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch trên địa bàn Quân khu 4”. Đề án đưa ra bốn phương thức địch tiến hành “chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Từ đó làm cơ sở xác định 6 nội dung chủ yếu để tiến hành nhiệm vụ chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của quân và dân Quân khu 4 trong năm 1982.
Đề án, quyết tâm, kế hoạch kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch trên địa bàn Quân khu 4, đã được Hội nghị liên tịch giữa Thường vụ Đảng ủy - Bộ Tư lệnh quân khu với Thường trực Tỉnh ủy - ủy ban nhân dân ba tỉnh trên địa bàn quân khu nhất trí cao, và coi là một văn kiện quan trọng để vận dụng thực hiện trong từng địa phương quân khu. Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê căn cứ vào đề án, kế hoạch chung của quân khu và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, triển khai lực lượng bao gồm bộ đội địa phương, dân quân tự vệ cùng nhân dân và lực lượng công an bảo đảm an toàn tuyệt đối về người, tài sản Nhà nước, quân đội và của địa phương; ngăn chặn và dập tắt ngay những vụ gây rối, làm mất an ninh, các vụ cháy nổ kho tàng, nhà máy, trạm trại, các vụ vượt biên ở nội địa, biên giới trên địa bàn huyện. Đến cuối tháng 10 năm 1982, lực lượng vũ trang huyện phối hợp với công an chủ động tổ chức một số đợt truy quét ở một số khu vực trọng điểm, tạo kết quả và đà phát triển tốt. Sau đó phối hợp chặt chẽ với đồn biên phòng và bạn Lào, tổ chức ngăn chặn có hiệu quả các vụ vượt biên, xâm nhập trái phép vào địa bàn huyện.
Ngày15 tháng 12 năm 1982, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07 về “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam”. Việc thực hiện cơ chế mới này được triển khai rộng khắp ở các đơn vị cơ sở và trên cơ sở kể từ ngày 20 tháng 5 năm 1984. Đến cuối năm 1984, lực lượng vũ trang Hương Khê bắt đầu thực hiện Nghị quyết 07, thực hiện chế độ một người chỉ huy. Ban chỉ huy quân sự huyện tiếp tục được củng cố, đồng chí Trần Văn Yên được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng thay đồng chí Lương Đình Ước; đồng chí ……….. được bổ nhiệm làm Phó chỉ huy trưởng về chính trị; đồng chí Mai Văn Tuấn làm Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng (các đồng chí Phó chỉ huy trưởng động viên, chính trị viên phó chưa nắm được…). Cơ chế lãnh đạo mới của Đảng đã hình thành về tổ chức và đi vào hoạt động, từng bước phát huy được hiệu lực trong thực hiện các nhiệm vụ và xây dựng đơn vị. Thực hiện những nội dung theo tinh thần Nghị quyết 07 và Nghị quyết Tỉnh ủy, Huyện ủy, tổ chức biên chế lực lượng vũ trang huyện được kiện toàn; sức chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng lên một bước. Dân quân tự vệ tổ chức rộng khắp và được rà xét về tiêu chuẩn chính trị, kiện toàn với quy mô tổ chức hợp lý. Phân đội an ninh - quốc phòng được tổ chức rộng khắp ở cơ sở. Phân đội trực chiến được tổ chức ở những khu vực trọng điểm. Lực lượng dự bị động viên được xây dựng lớn, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng một khi chiến tranh xẩy ra.
Hương Khê cũng như một số địa phương khác thuộc tỉnh Hà Tĩnh, là địa bàn chiến tranh tàn phá nặng nề, tình hình kinh tế - xã hội đang ngày một phát triển đi vào thế dần ổn định đã tạo ra những nhân tố mới cho tiềm lực quốc phòng ở địa phương. Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và tổ chức phòng thủ của huyện được chuẩn bị một bước. Phong trào “Xây dựng xã - tuyến an toàn làm chủ” phát triển rộng khắp. Kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản của huyện được xây dựng thành văn bản. Kế hoạch xây dựng quân dự bị động viên được triển khai xuống cơ sở và tổ chức diễn tập nhiều lần. Cán bộ chỉ huy, Ban chỉ huy quân sự huyện được luyện tập và tham gia diễn tập về chiến thuật và chiến dịch chống chiến tranh xâm lược trên địa bàn quân khu.
Năm 1984 là năm lực lượng vũ trang Hương Khê triển khai tất cả mọi mặt công tác trong thực hiện cuộc vận động lớn “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”“Phong trào thi đua quyết thắng”, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trung tâm, nâng cao sức mạnh chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, chống địch phá hoại gắn với chống tiêu cực; củng cố, xây dựng lực lượng ở cơ sở, nhất là củng cố lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ theo yêu cầu mới. Khả năng phòng thủ và trình độ sẵn sàng chiến đấu tiếp tục được tăng cường và củng cố. Đội ngũ cán bộ từ đại đội trở lên và cơ quan quân sự huyện được sắp xếp đủ chức danh theo cơ chế mới. Đội ngũ cán bộ luôn kiên định đường lối của Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang toàn quân khu trong chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và trong xây dựng cũng như lao động sản xuất, bảo vệ quê hương.
Để lãnh đạo lực lượng vũ trang toàn quân khu thực hiện tốt nhiệm vụ năm 1985, Hội đồng quân sự quân khu xác định: Thường xuyên bám sát diễn biến tình hình, nắm chắc âm mưu và hành động của địch để chủ động trong mọi tình huống, nâng cao hơn nữa khả năng phòng thủ, sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang cùng toàn dân đánh bại một bước kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống chiến tranh xâm lược nếu xẩy ra, bảo vệ vững chắc địa bàn quân khu, làm tròn nhiệm vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến… Năm 1985, lực lượng vũ trang Hương Khê triển khai nhiệm vụ nhằm thiết thực kỷ niệm các ngày lễ lớn: 55 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, 10 năm ngày chống Mỹ cứu nước toàn thắng, 95 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 40 năm ngày cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9… Đồng thời thực hiện những mục tiêu chung của huyện nhà trong thời kỳ mới về kinh tế - xã hội, tập trung sức vào mặt trận hàng đầu là sản xuất nông nghiệp mà trọng tâm là lương thực, thực phẩm, nông sản; phấn đấu đủ ăn và có một phần dự trữ. Tiếp tục củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhất là nâng cao chất lượng kế hoạch hóa, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm theo tinh thần Nghị quyết 28 của Thường vụ Tỉnh ủy. Xây dựng huyện vững mạnh, phát huy vai trò của ngành kinh tế, kỹ thuật của huyện phục vụ đắc lực cho cơ sở. Tăng cường công tác trị an, quốc phòng, bảo vệ tốt biên giới, bảo đảm trong sạch địa bàn, chống gây rối, bạo loạn, chống chiến tranh tâm lý và chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong bất cứ tình huống nào.
Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ mà Hội đồng quân sự quân khu đã xác định và những mục tiêu chung của huyện, lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ thường xuyên tổ chức học tập quan điểm đường lối của Đảng cả về kinh tế và quốc phòng, nâng cao năng lực vận dụng, cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng đơn vị. Trong xây dựng lực lượng, theo sự chỉ đạo của tỉnh và quân khu, huyện tập trung vào 4 trọng tâm: Tổ chức biên chế; công tác động viên; quân số và chính sách; công tác trang bị. Với quan điểm xây dựng lực lượng phải đáp ứng cho được yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, động viên giành thắng lợi trong mọi tình huống và hoàn thành các nhiệm vụ khác do cấp trên giao.
Sau hơn một năm thực hiện cơ chế lãnh đạo mới của Đảng, từ thực tế mà bản thân Quân khu 4 cũng như các đơn vị trong toàn quân không giải quyết được chính là sự băn khoăn, trăn trở của các cấp về:  Vai trò và chất lượng lãnh đạo của Đảng ở cơ sở và cấp trên cơ sở không những không được nâng cao hơn trước, mà trái lại có đơn vị còn yếu đi. Nguyên nhân là do cơ quan chính trị cấp trên cơ sở chưa làm được chức năng cơ quan lãnh đạo về Đảng; cán bộ chủ trì chính trị cấp cơ sở chưa đủ năng lực, bản lĩnh hoàn thành chức năng người Bí thư Đảng ủy, người Chính ủy, đồng thời là Chủ nhiệm chính trị… Không thể chuyển sang một cách suôn sẻ cho cấp phó về chính trị (với tư cách người giúp việc của chỉ huy); càng không thuận khi tách nhiệm vụ của Bí thư Đảng ủy ra khỏi nhiệm vụ của phó chỉ huy về chính trị và ngược lại… Từ những kiến nghị và đề nghị của các đơn vị trong toàn quân, đồng thời kết hợp với quá trình theo dõi chỉ đạo, cấp trên đã nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo mới của Đảng. Bộ Chính trị sớm ban hành Nghị quyết 27 thay cho những điểm không phù hợp trong Nghị quyết 07. Khôi phục lại chế độ Đảng ủy cấp trên cơ sở, giải thể Hội đồng Quân sự, Hội đồng cục (phòng) chính trị, bỏ chế độ Bí thư Đảng ủy chuyên trách đã tách khỏi chức năng phó chỉ huy về chính trị ở cấp cơ sở… Chấp hành Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị, lực lượng vũ trang Hương Khê cùng lực lượng vũ trang tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục thực hiện nghiêm túc, chủ động, nhạy bén đường lối, nghị quyết, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quân sự của Đảng, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên… coi trọng tất cả các đối tượng, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên; đi sâu thực hiện các nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ và quân khu, từ ngày 23 tháng 9 đến ngày 4 tháng 10 năm 1985, Đảng ủy quân sự, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh làm mọi công tác chuẩn bị và thực hành diễn tập động viên quân dự bị M85. Cuộc diễn tập diễn ra trong ba đợt: đợt một gồm 6 huyện, đợt hai 16 huyện, đợt ba 5 huyện. Hương Khê và 15 huyện (Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Nam Đàn, Anh Sơn, Đô Lương, thành phố Vinh, Đức Thọ, Kỳ Anh, thị xã Hà Tĩnh, Hương Sơn, Nghi Xuân, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc) tiến hành diễn tập đợt 2 từ ngày 28 tháng 9 đến ngày 29 tháng 9. Trong đợt hai 16 huyện thị thành đã giao 17.644/18.400 quân dự bị, trong đó có 829/860 sỹ quan và 16.815/17.540 hạ sỹ quan, đạt tỷ lệ 95,8%. Hương Khê giao 966/997 hạ sỹ quan, đạt tỷ lệ 96,9%. Đảng bộ Hương Khê chỉ đạo chính quyền các cấp, các hợp tác xã huy động được 3 tấn gạo, 2 tấn thực phẩm cùng với 40.000 đồng tiền mặt phục vụ cho đợt diễn tập.[23] Cuộc diễn tập đạt kết quả tốt cả trên 4 mặt: Bảo đảm đủ số lượng theo yêu cầu, nâng cao được nhận thức cho lực lượng quân dự bị, cơ quan quân sự rút được nhiều kinh nghiệm, củng cố được niềm tin của quần chúng.
Năm 1985 là năm kết thúc kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985), đồng thời là năm chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), đất nước vẫn trong tình thế có hòa bình chuyển sang thời chiến và có chiến tranh ở những mức độ khác nhau; “vừa có hòa bình, vừa có thể xẩy ra chiến tranh”. Có thể nói đây là giai đoạn thử thách quyết liệt, phức tạp ở mức độ cao. Quân và dân Hương Khê cùng cả nước không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, nâng cao ý chí chiến đấu, tinh thần tự lực tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, vượt qua mọi khó khăn, dốc sức phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, giành được những thành tựu lớn về nhiều mặt. Đặc biệt đã nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, giải quyết tốt hơn một bước mục tiêu số một là lương thực; công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân và tổ chức phòng thủ được chuẩn bị một bước, trình độ sẵn sàng chiến đấu được nâng lên, an ninh chính trị giữ vững, trật tự an toàn xã hội càng ngày càng chuyển biến rõ rệt.
Bên cạnh những thành quả đạt được, do những khó khăn về kinh tế, đời sống, nhất là tác động xấu của vấn đề giá - lương - tiền… nên tình hình chung của huyện nhà vẫn còn một số hạn chế. Tình hình quốc phòng - an ninh vẫn còn xẩy ra nhiều trộm cắp trên các phương tiện giao thông; trong các cửa hàng lương thực, thực phẩm vẫn xẩy ra nạn tham ô; một số người ở các địa phương khác đến khai thác lâm thổ sản vô tổ chức. Tệ nạn mê tín dị đoan, lừa đảo, cờ bạc nảy nở. Việc gọi thanh niên nhập ngũ nhiều nơi còn khó khăn, có một số xã nhiều năm không hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự; số quân nhân đào bỏ ngũ vẫn còn… lòng tin của nhân dân suy giảm. Về nông nghiệp thâm canh chưa đồng đều, năng suất các loại cây trồng còn thấp. Ruộng cao sản, đổi mới mùa vụ chưa rộng; chăn nuôi phát triển chậm. Tiểu thủ công nghiệp còn yếu, chưa có chính sách khuyến khích tạo nguyên liệu tại chỗ, không cạnh tranh, phát triển được ngành nghề như mặt hàng mây xuất khẩu, nón lá…
Trải qua mười năm đầu của thời kỳ sau ngày đất nước độc lập, thống nhất, thời kỳ quân dân cả nước thi đua hàn gắn vết thương chiến tranh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, quân dân Hương Khê đã vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, tích cực góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vẫn còn những hạn chế, thậm chí khó khăn gay gắt, còn những thử thách phải vượt qua. Song thắng lợi thu được trong phát triển kinh tế, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng pháo đài quân sự huyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương, chi viện cho biên giới; trong lao động sản xuất, phát triển văn hóa giáo dục… của thời gian qua là nguồn cổ vũ lớn lao, tạo niềm tin và sức mạnh để quân và dân toàn huyện tiếp tục vươn lên, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong thời kỳ mới đang mở ra.
2. Lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê trong sự nghiệp đổi mới đất nước (1986 - 2010).
Trong giai đoạn những năm giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đất nước ta trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, thêm vào đó sự sụp đổ chế độ chính trị xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động lợi dụng thời cơ ra sức thực hiện chiến lược xóa bỏ nhanh chủ nghĩa xã hội trên thế giới, nước ta là một trong những trọng điểm… tất cả những vấn đề này đã tác động lớn đến tư tưởng của quân và dân ta. Cuối năm 1985 đầu năm 1986, tình hình kinh tế - xã hội đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội ở nhiều nơi còn phức tạp. Nhưng từ những định hướng mở đầu quan trọng của quá trình tiến tới Đại hội Đảng lần thứ VI, trên nhiều mặt nhân dân ta đã có những chuyển biến tích cực.
Chấp hành Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị, đầu tháng 1 năm 1986, Đảng ủy quân khu họp quán triệt Nghị quyết 64 của Đảng ủy quân sự Trung ương về nhiệm vụ quân sự năm 1986. Đảng ủy quân khu thực hiện sự lãnh đạo theo nguyên tắc và chức năng xác định, thẳng thắn phân tích thực trạng tình hình cần tập trung khắc phục. Về nhiệm vụ thời gian tới Hội nghị xác định: “Tiếp tục đánh bại các thủ đoạn kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch; tăng cường khả năng phòng thủ ở các đảo, tuyến ven biển và tuyến biên giới phía Tây; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân; không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang quân khu; ra sức lao động sản xuất, xây dựng kinh tế và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô; làm tròn nhiệm vụ quốc tế ở Lào; xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh có sức chiến đấu cao; sẵn sàng đối phó thắng lợi mọi tình huống chiến tranh xâm lược quy mô lớn.”[24] Đây là những định hướng để Đảng ủy, Bộ Tư lệnh quân khu, các cơ quan quân khu tập trung chuẩn bị cho Đại hội quân khu lần thứ IV với tư tưởng chỉ đạo phải thể hiện cho được một bước đổi mới tư duy và hành động, trước hết là trong Đảng, đồng thời triển khai thực hiện chặt chẽ nhiệm vụ năm 1986, tập trung sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu thắng lợi trên tất cả các hướng, điều chỉnh lực lượng, xây dựng huấn luyện, củng cố quốc phòng địa phương…
Lực lượng vũ trang Hương Khê chấp hành nghiêm túc các Chỉ thị 79, 80 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng ủy quân sự Trung ương về tự phê bình, phê bình và tiến hành Đại hội Đảng, đồng thời tổ chức đợt sinh hoạt chính trị trước tình hình khó khăn gay gắt diễn biến phức tạp; giáo dục quan điểm, lập trường, ý chí chiến đấu, ý thức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật cho mọi cán bộ, chiến sỹ trong thực hiện và bảo vệ quan điểm đường lối của Đảng, nâng cao cảnh giác cách mạng. Tất cả lực lượng vũ trang huyện bao gồm bộ đội địa phương, dân quân tự vệ thực hiện phong trào thi đua rộng lớn do quân khu phát động “mỗi người làm 6 việc tốt theo chức trách; mỗi đơn vị, địa phương giành 6 đỉnh cao theo nhiệm vụ, thiết thực làm trong sạch Đảng, trong sạch nội bộ và góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội”. Tập trung củng cố, xây dựng, phát triển pháo đài quân sự huyện, phấn đấu thành huyện an toàn làm chủ, lấy xây dựng cơ sở vững mạnh làm nền tảng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Bổ sung kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản, chuẩn bị động viên lực lượng và nền kinh tế quốc dân, triển khai xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên tuyến biên giới. Điểm mới trong kế hoạch được bổ sung là các nội dung được đưa sát với tình hình đất nước vừa có hòa bình, vừa đối phó với chiến tranh phá hoại nhiều mặt và chiến tranh lấn chiếm biên giới, đồng thời sẵn sàng chống nguy cơ chiến tranh xâm lược quy mô lớn có thể xẩy ra.
Trước tình hình biên giới phía Bắc vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, trong năm 1986 một số đơn vị lực lượng vũ trang vẫn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường, có lúc lên cao để đối phó với các thủ đoạn khiêu khích nhiều mặt của các thế lực thù địch. Lực lượng vũ trang Hương Khê tập trung củng cố xây dựng thế trận pháo đài quân sự huyện, tổ chức huấn luyện, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên vững mạnh, rộng khắp, kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, góp phần xây dựng địa phương Hương Khê phát triển kinh tế xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng. Sau khi có Nghị quyết 33 (ngày 21 tháng 7 năm 1986) của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1986 - 1990), Ban chỉ huy quân sự huyện tham mưu cho Huyện ủy ra Nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa phương trong giai đoạn mới, nêu rõ: “Lãnh đạo, chỉ huy quân sự huyện và chỉ huy trực quân sự các xã, thị trấn phải thường xuyên làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đồng thời củng cố xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh rộng khắp. Đăng ký quản lý chặt chẽ lực lượng dự bị động viên, sẵn sàng chiến đấu. Hoàn thành tốt chương trình huấn luyện cho các đối tượng, tổ chức luyện tập các phương án sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.”
Thực hiện Nghị quyết, Ban chỉ huy quân sự huyện chỉ đạo Ban quân sự các xã, thị trấn tích cực phối hợp với các ban ngành đoàn thể tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa phương ngày càng có chất lượng cao. Đồng thời tổ chức báo động chiến đấu đối với Tiểu đoàn dự bị động viên. Qua báo động tiểu đoàn đã đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi, chấp hành nghiêm mệnh lệnh, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, ý thức tổ chức kỷ luật cao. Đi đôi với việc tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa phương năm 1986, Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê còn tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất hậu cần, nâng cao đời sống cho cán bộ, chiến sỹ. Tích cực củng cố xây dựng doanh trại, đóng thêm giường tủ. Tổ chức tăng gia sản xuất cải thiện bữa ăn cho cơ quan. Thường xuyên duy trì tốt bảo đảm an toàn tuyệt đối công tác đảm bảo kỹ thuật, trang bị vũ khí, khí tài của cơ quan quân sự huyện và Ban chỉ huy quân sự các xã, thị trấn.
Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, bộ đội địa phương huyện đã phối hợp tốt với lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội biên phòng, công an huyện quản lý địa bàn, tuần tra canh gác, xây dựng lực lượng cốt cán; tổ chức nắm chắc tình hình địa bàn đặc biệt ở tuyến biên giới, các trọng điểm trên trục đường giao thông, các ga tàu hỏa, triệt phá một số băng nhóm tội phạm, căn bản ngăn chặn được các vụ nhen nhóm hoặc đang vượt biên trái phép. Tiến hành kiểm tra, củng cố tổ chức, giao nhiệm vụ và luyện tập cho các lực lượng sẵn sàng cơ động theo yêu cầu nhiệm vụ. Huyện hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân đợt 1 năm 1986. Công tác động viên quản lý nguồn tốt hơn, đạt trên 90% quân dự bị chuyển về huấn luyện tại cơ sở. Hoàn thành tốt chương trình huấn luyện cho các đối tượng.
 Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và Đại hội Đảng các cấp, đầu năm 1987, cả nước tập trung đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, thực hiện chuyển hướng chiến lược quốc phòng bảo vệ Tổ quốc và những nội dung lớn quan trọng: đổi mới, điều chỉnh bố trí lại lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước và từng địa phương; củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn chặt với xây dựng đất nước mạnh lên về kinh tế; chấm dứt xung đột vũ trang; chấn chỉnh tổ chức biên chế, giảm mạnh quân thường trực, nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ chiến đấu và sức chiến đấu cao, cả trong huấn luyện và quản lý lực lượng dự bị động viên gắn chặt củng cố, nâng cao chất dân quân tự vệ. Tích cực tham gia xây dựng phát triển kinh tế, làm tròn nhiệm vụ quốc tế trong điều kiện mới.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 2 tháng 1 năm 1987, Đảng ủy quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 06 về nhiệm vụ quân sự năm 1987, nội dung nghị quyết chỉ rõ: “Phải chấn chỉnh một bước về tổ chức quân đội theo Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị và kế hoạch phòng thủ đất nước. Trong thực hiện phải nắm vững yêu cầu cần chấn chỉnh một bước tổ chức quân đội, giảm quân số nhằm làm cho tổ chức quân đội hợp lý, gọn, mạnh, đủ sức chiến đấu cao, đi đôi với điều chỉnh quân số tạo bước chuyển biến lớn về chất lượng tổng hợp và kỷ luật của quân đội. Đối với vùng biên giới phải thực hiện nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu…” Những nội dung quan trọng của Nghị quyết số 06 được cấp ủy, chỉ huy quân sự huyện Hương Khê tham mưu kịp thời cho Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân và lực lượng vũ trang huyện thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, công tác quân sự địa phương trên tất cả các lĩnh vực như: Xây dựng củng cố lực lượng; huấn luyện bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và dự bị động viên; động viên tuyển quân; tham gia bảo vệ trật tự trị an trên địa bàn huyện.
Đi đôi với lãnh đạo thực hiện tốt công tác quân sự địa phương, về lĩnh vực kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, đến cuối năm 1986, Hương Khê đạt được một số thành tựu quan trọng: diện tích gieo trồng đạt 15.600 ha (bằng 86% kế hoạch). Sản lượng lương thực đạt 18.500 tấn (bằng 75% kế hoạch). Tạo thêm được 14 hồ đập mới, làm cầu treo Địa Lợi… Diện tích rừng thông nhựa sau nhiều năm đã đạt tới 3.000 ha, giao được 20.000 ha rừng các loại cho 17 hợp tác xã… Lạc từ 500 ha năm 1980 lên 1.000 ha năm 1986. Trồng mới 200 ha dầu trẩu, 100 ha chè, thu mua 50 tấn dược liệu, 1 tấn trầm hương. Giá trị xuất khẩu đạt 180.000 rúp - đô la, bình quân đầu người 1,8 rúp - đô la. Làm nghĩa vụ lương thực bình quân từ 1.900 đến 2.000 tấn mỗi năm… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu kém. Chỉ đạo nông nghiệp còn tùy tiện, nhất là về giống. Chăn nuôi sa sút, nhiều trại chăn nuôi của hợp tác xã giải thể. Khai thác rừng  bừa bãi. Khai thác hàng hóa địa phương yếu…
Dưới sự chỉ đạo của quân khu, của tỉnh, huyện tiếp tục phối hợp tốt với các ngành, các cấp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng pháo đài quân sự huyện, huyện an toàn làm chủ gắn với xây dựng và tăng cường cấp huyện, gắn kinh tế với quốc phòng. Xây dựng pháo đài quân sự huyện gắn liền xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện. Tập trung xây dựng làng xã chiến đấu, cụm chiến đấu liên hoàn xã tuyến biên giới và những xã thuộc khu vực trọng điểm nội địa. Cấp ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện thường xuyên tổ chức học tập nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức về vai trò trách nhiệm của lực lượng vũ trang huyện, nhận rõ bản chất âm mưu kẻ thù, nâng cao cảnh giác cách mạng sẵn sàng chiến đấu. Ban chỉ huy quân sự huyện tăng cường kiểm tra, luyện tập các phương án tác chiến đánh địch, tổ chức báo động chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Đồng thời chỉ đạo Ban chỉ huy quân sự các xã, thị trấn phối hợp chặt chẽ với công an tăng cường công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn địa bàn huyện.
Năm 1987 là năm đầu quân và dân Hương Khê quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và Đại hội Đảng các cấp, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Cùng với cả nước Hương Khê bắt đầu thực hiện chuyển hướng chiến lược quốc phòng bảo vệ Tổ quốc với nhiều nội dung quan trọng. Trước hết tập trung điều chỉnh bố trí lại lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn huyện; củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với xây dựng huyện nhà mạnh lên về kinh tế, nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, ngày càng hiện đại; có kỷ luật chặt chẽ, trình độ chiến đấu và sức chiến đấu cao cả trong huấn luyện và quản lý lực lượng dự bị động viên gắn chặt củng cố nâng cao chất lượng dân quân tự vệ. Tích cực tham gia xây dựng và phát triển kinh tế.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, Ban chỉ huy quân sự huyện tập trung chuyển hướng sự lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo đối với công tác quân sự địa phương theo hướng sát cơ sở, sát thực tiễn, giải quyết các vấn đề tại cơ sở… Từ đó, công tác quân sự địa phương của huyện được triển khai đồng bộ, toàn diện và được đổi mới trên các mặt. Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, bộ đội huyện đã phối hợp tốt với dân quân tự vệ, bộ đội biên phòng, công an tuần tra canh gác, quản lý địa bàn; xây dựng lực lượng cốt cán, tổ chức nắm địch ở khu vực tuyến biên giới, các trọng điểm trên trục đường giao thông, triệt phá một số ổ nhóm tội phạm hoạt động ở địa bàn thị trấn và biên giới huyện tiếp giáp với bạn Lào. An ninh chính trị trên địa bàn huyện được giữ vững. Vừa kiểm tra, vừa củng cố tổ chức, giao nhiệm vụ và luyện tập cho lực lượng sẵn sàng cơ động. Hoàn thành 100% kế hoạch tuyển quân đợt một. Công tác động viên quản lý nguồn được thực hiện tốt hơn, có trên 90% quân dự bị được tổ chức huấn luyện tại cơ sở, chất lượng huấn luyện ngày càng cao.
Ngày 30 tháng 7 năm 1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 02 về về nhiệm vụ Quốc phòng - An ninh trong tình hình mới. Sau Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị, ngày 30 tháng 11 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 20 về nhiệm vụ Quốc phòng địa phương của các cấp ủy, chính quyền, các ban ngành đoàn thể. Đây là những cơ sở hết sức quan trọng để cơ quan quân sự địa phương các cấp có cơ sở bàn bạc với địa phương đẩy mạnh công tác quân sự địa phương, thực hiện có hiệu quả việc chuyển hướng chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cuối năm 1987, cấp ủy - Ban chỉ huy quân sự huyện triển khai học tập và thực hiện “Quy định về tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, theo quy định của Ban Bí thư về tổ chức Đảng trong quân sự địa phương: “Thành lập theo tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy địa phương, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Đảng ủy quân sự cấp trên và hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên. Đồng chí Bí thư cấp ủy địa phương trực tiếp làm Bí thưc Đảng ủy quân sự cùng cấp”. Về cơ chế lãnh đạo, Nghị quyết 02 Bộ Chính trị xác định: “Cấp ủy địa phương lãnh đạo, chính quyền địa phương quản lý, điều hành theo Hiến pháp và Pháp luật; các cơ quan, ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội của địa phương (nòng cốt là cơ quan quân sự) làm tham mưu theo chức năng, Chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương chỉ huy các lực lượng thuộc quyền.”[25]
Đầu năm 1988, Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh tổ chức quán triệt Chỉ thị 20 của Ban Bí thư Trung ương cho cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị để nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, Đảng ủy xác định: “Việc xây dựng, củng cố quốc phòng toàn dân trên địa bàn tỉnh, thành phố, huyện, cũng như việc chỉ đạo các lực lượng vũ trang địa phương cùng với các tổ chức khác của Đảng, chính quyền và toàn dân hoạt động bảo vệ địa phương, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù được đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Tỉnh ủy (Thành ủy), Huyện ủy (Quận ủy), dưới sự điều hành của chính quyền địa phương và sự chỉ huy thống nhất của người chỉ huy quân sự tỉnh, huyện”.
Thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị, tháng 1 năm 1988, Đảng ủy quân sự tỉnh được hình thành với cơ cấu mới. Đồng chí Nguyễn Kỳ Cẩm - Bí thư Tỉnh ủy, đồng thời làm Bí thư Đảng ủy quân sự tỉnh. Theo đó, đầu năm 1989, Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Khê quyết định thành lập Ban cán sự Đảng quân sự gồm: đồng chí Nguyễn Xuân Hương - Bí thư Huyện ủy trực tiếp làm Bí thư; đồng chí Phạm Huy Khang - phó chỉ huy trưởng về chính trị - Ban chỉ huy quân sự huyện làm phó Bí thư. Các đồng chí Trần Văn Yên - Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện; đồng chí Trần Khoa - Phó Bí thư - Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, đồng chí.............. trưởng công an huyện là ủy viên Ban cán sự.
Ban cán sự Đảng ủy quân sự huyện Hương Khê sau khi được thành lập đã họp thông quy chế hoạt động, phân công các ủy viên và ra Nghị quyết lãnh đạo "Tập trung nâng cao chất lượng mọi mặt của lực lượng vũ trang huyện; thực hiện tốt công tác động viên quân đội và công tác an ninh, quốc phòng". Thực hiện Cơ chế 02 của Bộ chính trị là sự đổi mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang địa phương. Từ đây công tác quân sự địa phương được lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp chặt chẽ của các ban ngành, chính quyền các cấp trong huyện. Công tác an ninh, quốc phòng được tiến hành thuận lợi tạo nên sức mạnh mới. Ban cán sự, Ban chỉ huy quân sự huyện lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Thường xuyên nắm vững vị trí quan trọng của huyện nhà, tăng cường cảnh giác, phát huy sức mạnh của an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân, chống phản động, thâm nhập, gây rối, trộm cắp. Làm tốt công tác xây dựng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, quản lý quân dự bị động viên; công tác động viên thanh niên nhập ngũ, quản lý vũ khí, thực hiện chính sách hậu phương... Duy trì có hiệu lực chế độ sẵn sàng chiến đấu, phối hợp với bạn Lào truy quét làm trong sạch địa bàn biên giới. Hoàn thành kế hoạch A2, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, xây dựng làng, xã chiến đấu trong toàn huyện đạt kết quả khá.
Năm 1990, tình hình thế giới, trong nước tiếp tục có nhiều diễn biến ngày càng phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực phản động quốc tế  tăng cường triển khai chiến lược phá hoại toàn diện đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam... ở tại địa phương huyện Hương Khê, bên cạnh những thành tựu bước đầu đạt được trong những năm đầu đất nước đổi mới, thì vẫn còn nhiều khó khăn tồn tại. Về nông nghiệp Đảng bộ đã chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện. Nhiều hợp tác xã đã có ý thức cao trong đổi mới giống, năng suất khá. Dịch vụ sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh. Khoán 10 đã phát huy được quyền làm chủ của người lao động, kinh tế hộ được hình thành... Tuy nhiên cơ cấu mùa vụ, giống mới chuyển đổi vẫn còn chậm. ý thức sản xuất hàng hóa thấp. Tiểm năng đất đai của huyện chưa khai thác hết... Về công tác quốc phòng - an ninh, chất lượng của lực lượng dân quân tự vệ còn yếu, chưa đạt kế hoạch huấn luyện. Một số vụ về chống người thi hành công vụ và một số vụ việc giải quyết không kịp thời, có vụ giải quyết không được sự đồng tình của quần chúng.
Trước tình hình trên, Ban cán sự - Ban chỉ huy quân sự huyện tham mưu cho Huyện ủy tập trung chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang huyện vững mạnh về mọi mặt, nhất là chính trị, tư tưởng, tổ chức; củng cố các tổ chức quần chúng, tham gia tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân xây dựng địa bàn an toàn. Kịp thời phát hiện những hiện tượng tiêu cực, gây rối bạo loạn, phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an, các ngành chức năng của huyện, kiên quyết ngăn chặn không để xẩy ra gây rối, bạo loạn. Ban chỉ huy quân sự huyện xây dựng kế hoạch bảo vệ các mục tiêu quan trọng như cơ quân Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện, Bưu điện, Đài truyền thanh, Ngân hàng, Kho bạc, Kho vũ khí... Chỉ đạo các xã, thị trấn, đơn vị tự vệ xây dựng kế hoạch chiến đấu trị an tại cơ sở, lựa chọn những cán bộ, chiến sỹ có bản lĩnh chính trị vững vàng để bổ sung cho trung đội dân quân cơ động, làm nhiệm vụ nắm chắc tình hình, phát hiện kịp thời các vụ việc xẩy ra trên địa bàn báo cáo cho cấp ủy chính quyền xử lý có hiệu quả. Tổ chức tuần tra canh gác bảo vệ các mục tiêu được phân công.
Tháng 6 năm 1990, thực hiện kế hoạch của Thường vụ Đảng ủy - Bộ Tư lệnh quân khu và chỉ thị của Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Hương Khê tiến hành sơ kết toàn diện kết quả xây dựng làng xã chiến đấu từ huyện đến cơ sở, cơ quan quân sự huyện làm tham mưu trong nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Công tác sơ kết được các cấp ủy Đảng lãnh đạo trực tiếp, chính quyền điều hành tổ chức, cơ quan quân sự huyện, thị trấn, xã phường báo cáo kết quả cụ thể. Kết quả của sơ kết làm cơ sở để Huyện ủy nắm được đặc điểm tình hình chung, tiếp tục xác định tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng làng, xã, phường, cơ sở chiến đấu theo đúng tinh thần Nghị quyết của Đảng ủy quân khu, với trọng tâm là: Ra sức củng cố kiện toàn các tổ chức cơ sở vững mạnh toàn diện gồm làng, xã, phường, cơ sở kinh tế, hành chính, văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao sức chiến đấu và năng lực hoạt động của cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, nhân dân làm chủ, cơ quan quân sự làm tham mưu (trung tâm hiệp đồng của các ban ngành đoàn thể để đề xuất phương án và tổ chức triển khai thực hiện) ở cơ sở; nhằm xây dựng một hệ thống làng, xã, phường, cơ sở chiến đấu đánh thắng mọi thủ đoạn chống phá ở cơ sở của các thế lực thù địch, sẵn sàng đối phó thắng lợi mọi âm mưu kết hợp bọa loạn chính trị với tiến công quân sự của kẻ thù đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Sau khi Chính phủ quyết định chia tách tỉnh Nghệ - Tĩnh, tái thành lập hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh với địa giới hành chính như nguyên trạng, ngày 30 tháng 9 năm 1991, thực hiện quyết định của Bộ Quốc phòng, Bộ chỉ huy quân sự Hà Tĩnh được tái thành lập, theo đó lực lượng vũ trang Hương Khê chuyển thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, của Huyện ủy và chính quyền huyện, lực lượng dân quân tự vệ được chấn chỉnh, chuyển hướng xây dựng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động. Năm 1991, tổng số dân quân tự vệ toàn huyện có 4.028 đồng chí (chiếm 3,5% dân số), trong đó lực lượng cơ động 712 đồng chí, lực lượng tại chỗ 3.068 đồng chí, lực lượng binh chủng 248 đồng chí.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Đảng bộ quân sự tỉnh Hà Tĩnh tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ 7. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ lãnh đạo nhiệm kỳ 1991 - 1995 với trọng tâm: Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các lực lượng và mọi khả năng vật chất, tinh thần cũng như sự vận động của cơ chế mới, xây dựng khu vực phòng thủ cũng như thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc. Chủ động phòng ngừa, kịp thời dập tắt các vụ gây rối bạo loạn, các hoạt động phá hoại, các âm mưu cũng như hành động phản cách mạng ở địa phương; giữ vững chủ quyền an ninh biên giới, bờ biển và trật tự an toàn xã hội trong tỉnh, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng trên giao cho trong mọi tình huống, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả nước kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền của Tổ quốc.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân sự tỉnh lần thứ 7 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ 24 (vòng 1) tháng 3 năm 1991, lực lượng vũ trang Hương Khê tập trung cụ thể hóa các nhiệm vụ trước mắt đưa nội dung nghị quyết đại hội vào thực tiễn nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ an ninh chính trị và chế độ xã hội chủ nghĩa theo mệnh lệnh của quân khu và của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tập trung truy quét các loại tội phạm, ngăn chặn và giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Thực hiện nghiêm chỉnh các Pháp lệnh của Nhà nước, không để xẩy ra các điểm nóng. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở vững mạnh, an toàn, làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Xây dựng khu vực phòng thủ, tổ chức huấn luyện, diễn tập đạt kết quả tốt. Về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ thường trực và dự bị động viên cũng được chú trọng. Năm 1992 toàn huyện có 4.152 dân quân tự vệ (chiếm 3,8% dân số toàn huyện), trong đó có 712 đồng chí thuộc lực lượng cơ động, lực lượng tại chỗ có 3.068 đồng chí, lực lượng binh chủng 248 đồng chí. Quy mô biên chế: mỗi xã, thị trấn tổ chức một trung đội cơ động, quân số từ 20 - 30 đồng chí. Mỗi cơ quan, xí nghiệp tổ chức một tiểu đội, quân số từ 7 - 10 đồng chí. Lực lượng dân quân chiến đấu tại chỗ, mỗi xã, thị trấn tổ chức từ 3 - 5 trung đội; mỗi cơ quan, xí nghiệp 1 trung đội. Riêng lực lượng binh chủng toàn huyện tổ chức 7 trung đội 12,7 ly, các binh chủng bảo đảm khác không tổ chức riêng, mà nằm trong lực lượng dân quân ở cơ sở.[26]
Nhìn chung công tác lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ đã có sự thống nhất cao giữa Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và các huyện (thị), giữa cơ quan quân sự huyện với các xã, phường, thị trấn về củng cố quốc phòng, xây dựng thế trận, xây dựng lực lượng vũ trang gắn với phát triển kinh tế - xã hội, nên đã chủ động, tích cực triển khai được nhiều việc, kết quả tương đối toàn diện. Đã tích cực đưa công tác xây dựng cơ sở cả chủ lực và địa phương đi vào chiều sâu; từng bước động viên được cả hệ thống chính trị phối hợp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quốc phòng - an ninh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, giữ được ổn định chính trị địa bàn huyện. Năm 1992 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong bước trưởng thành, vươn lên mạnh mẽ của cơ quan quân sự huyện Hương Khê, là năm tạo cơ sở tiền đề để dồn sức về cơ sở, xây dựng các cơ sở phường, xã và đơn vị trực thuộc vững mạnh, giữ vững ổn định từ mỗi cơ sở. Từ năm 1992 - 1993, Ban chỉ huy quân sự huyện cùng các đơn vị triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự, trước hết là nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, tuần tra canh gác, nhất là các xã biên giới. Tổ chức báo động kiểm tra sẵn sàng chiến đấu cho các phân đội dân quân nòng cốt, huyện đã xây dựng được 2 cơ sở quân báo nhân dân nhằm thu thập tình hình, cung cấp các tin tức, kịp thời phục vụ cho chỉ huy, lãnh đạo các cấp xử lý nhanh và hiệu quả các tình huống xẩy ra.
Lực lượng vũ trang Hương Khê cùng lực lượng vũ trang toàn tỉnh ra sức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng toàn dân đưa nền kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện từng bước ổn định và phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị được giữ vững. Nhà nước đang tiến hành thực hiện chế độ tiền lương mới, đời sống của lực lượng vũ trang nhân dân huyện cũng được nâng lên đã tạo sự phấn khởi yên tâm phục vụ quân đội, nhất là đội ngũ cán bộ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng của cơ quan quân sự huyện... Tuy nhiên, các mặt xã hội còn nhiều tồn tại chưa được giải quyết như nhịp độ tăng dân số còn cao, thiếu việc làm cho người lao động. Nạn chặt phá rừng và buôn bán lâm sản trái phép chưa được ngăn chặn triệt để. Nếp sống văn hóa một số nơi trong huyện còn lạc hậu. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa sâu rộng, chất lượng dân quân tự vệ và an ninh ở một số cơ sở còn yếu.
Nhằm đánh giá kết quả xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trong giai đoạn 1990 - 1993, theo Hướng dẫn của Bộ Tư lệnh quân khu và của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban nhân dân tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 55/BBT và Nghị định 29/HĐBT về tăng cường sự lãnh đạo, xây dựng dân quân tự vệ (1990 - 1993). Hội nghị tổ chức vào cuối tháng 12 năm 1993. Hội nghị đã khẳng định trong 3 năm qua, Huyện ủy đã chỉ đạo các ban ngành cấp huyện và cơ sở tổ chức học tập quán triệt. Kết quả có 27/27 xã, thị trấn; 13/13 cơ quan xí nghiệp được tổ chức học tập. Về tổ chức xây dựng lực lượng, đến năm 1993 toàn huyện có tổng số dân quân tự vệ là 4.152 đồng chí, trong đó lực lượng nòng cốt 872 đồng chí biên chế thành 34 trung đội cơ sở; lực lượng chiến đấu tại chỗ có 2.909 đồng chí, biên chế thành 278 tiểu đội thôn xóm và cơ quan; lực lượng binh chủng có 381 đồng chí biên chế thành cấc tiểu đội, tổ ở 27 xã, thị trấn và các cơ quan xí nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong huấn luyện, diễn tập, diễn biến tình hình chung ở địa phương những năm 1993 - 1994 có nhiều phức tạp, gây ảnh hưởng xấu đến phong trào xây dựng lực lượng vũ trang. Đặc biệt có những mặt yếu kém chưa hề xẩy ra trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ Quân sự - Quốc phòng ở địa phương, năm 1992 Hương Khê không hoàn thành nhiệm vụ giao quân (thiếu 12 quân). Bên cạnh đó tình hình doanh trại của cơ quan quân sự huyện xuống cấp nghiêm trọng, trong khi đó một loạt các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy cơ quân quân sự huyện nghỉ hưu theo chế độ: đồng chí Trần Văn Yên - Chỉ huy trưởng và đồng chí Nguyễn Trọng Thể - Chỉ huy phó động viên. Sau đó 3 tháng đồng chí Nguyễn Thanh Chắt - Phó chỉ huy chính trị và đồng chí Trần Đình Tá - Tham mưu trưởng cũng được trên thông báo nghỉ hưu. Cấp trên đã điều động và bổ nhiệm các đồng chí: Lê Hồng Mão làm Chỉ huy trưởng thay đồng chí Trần Văn Yên; đồng chí Nguyễn Huy Chương làm Chính trị viên phó chính trị thay đồng chí Nguyễn Thanh Chắt.
Trước những diễn biến tương đối phức tạp ở trên, được sự chỉ đạo trực tiếp cụ thể của Thường trực Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, cơ quan quân sự huyện nhanh chóng được kiện toàn. Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện đã họp thống nhất nhận định và ra nghị quyết lãnh đạo tập trung vào những vấn đề then chốt như: "Nâng cao công tác giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng, tổ chức, đưa đơn vị vào nền nếp, kỷ luật; củng cố đội ngũ cán bộ, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để chuẩn bị cho diễn tập phòng thủ cấp huyện. Xây dựng khu căn cứ quân sự kết hợp phát triển kinh tế rừng. Quy hoạch xây dựng mới doanh trại nhằm nâng cao đời sống cho bộ đội. Báo cáo với ủy ban nhân dân huyện và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh về việc tập trung cải tạo các quân nhân đào bỏ ngũ. Xây dựng thành tích đồng thời làm tờ trình đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho nhân dân và lực lượng vũ trang huyện cùng một số xã. Tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn trong năm..."
Thực hiện nghị quyết của Đảng ủy quân sự huyện, Ban chỉ huy quân sự huyện triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 1993 đạt nhiều kết quả tốt, trước hết là việc tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo các ngành, các cấp tập trung làm tốt việc tuyển và giao quân. Đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập cấp huyện đạt chất lượng cao, được thủ trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh biểu dương ghi nhận. Với phương châm về với cơ sở, bám sát cơ sở để phát hiện những yếu kém và trực tiếp chỉ đạo giữ vững phong trào, đưa phong trào từng bước đi lên, từ đó tình hình chung được củng cố và dần đi vào ổn định. Năm 1993, đề án thành lập khu căn cứ quân sự được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt, với diện tích 760 ha rừng ở Ma Leng (xã Phúc Trạch). Cùng với việc xin vốn đầu tư trồng rừng theo Dự án 327 của Nhà nước, cơ quan quân sự huyện đã thành lập khung chỉ đạo trồng rừng và cải tạo tập trung số quân nhân đào bỏ ngũ. Chỉ trong một thời gian ngắn hàng chục héc ta cây trồng đã phát triển xanh tốt. Việc cải tạo số quân nhân đào bỏ ngũ đã có tác dụng răn đe rất lớn. Nên từ sau năm 1993 đã loại bỏ được những vi phạm về luật nghĩa vụ quân sự và đào bỏ ngũ. Sự chỉ đạo chặt chẽ nghiêm túc của Đảng ủy quân sự, Ban chỉ huy quân sự huyện đã lấy lại được uy tín và vực dậy phong trào thi đua sôi nổi trong toàn huyện.
Thực hiện Quy định 72/QĐ-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) về tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, chuyển đổi cơ chế từ Ban cán sự Đảng quân sự sang Đảng ủy quân sự, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy quân sự tỉnh, trong tháng 1 năm 1994, Thường vụ Huyện ủy Hương Khê ra quyết định giải thể Ban cán sự Đảng quân sự huyện, thành lập Đảng ủy quân sự huyện Hương Khê. Đồng thời chỉ định 5 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ quân sự huyện. Đồng chí Trần Khoa - Bí thư Huyện ủy trực tiếp làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Huy Chương - Phó chỉ huy trưởng về chính trị - Ban chỉ huy quân sự huyện làm phó Bí thư Đảng ủy quân sự và 3 ủy viên gồm: đồng chí Nguyễn Văn Chung - Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện; đồng chí Lê Hồng Mão - Chỉ huy trưởng, Ban chỉ huy quân sự huyện; đồng chí Lê Danh Quế - Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng - Ban chỉ huy quân sự huyện. Đảng bộ quân sự huyện gồm 3 chi bộ: Tham mưu, Chính trị, Hậu cần - Kỹ thuật. Sau khi được thành lập, Đảng bộ quân sự huyện luôn chăm lo xây dựng tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên, gắn việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng cơ quan vững mạnh toàn diện. Coi trọng công tác lãnh đạo giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho đội ngũ cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân huyện. Duy trì nghiêm chế độ sinh hoạt Đảng. Thực hiện tốt nguyên tắc lãnh đạo tập trung dân chủ, làm tốt công tác tự phê bình và phê bình. Tập trung làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy chính quyền địa phương, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng - an ninh gắn với phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Hương Khê là một huyện miền núi ở về phía tây nam của tỉnh, có 6 xã tiếp giáp với nước bạn Lào anh em, để đánh giá thực trạng tình hình công tác, hoạt động dân quân tự vệ các xã biên giới, cuối năm 1994 Hương Khê tổ chức Hội nghị về thực trạng tình hình tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ của huyện từ năm 1991 - 1994. Hội nghị đánh giá: Về xây dựng lực lượng, thường xuyên bảo đảm số lượng 957 đồng chí so với dân số 24.930 người. Trong đó, lực lượng nòng cốt có 152 đồng chí, lực lượng tại chỗ 805 đồng chí. Với quy mô biên chế 6 xã có 6 trung đội cơ động gồm 18 tiểu đội, thường xuyên tuần tra canh gác bảo vệ an ninh chính trị an toàn xã hội trên từng địa bàn và toàn tuyến biên giới. Lực lượng tại chỗ 6 xã có 6 đại đội được tổ chức thành 24 trung đội, 77 tiểu đội và 3 trung đội cơ động của 3 lâm trường (Chúc A, Trại Trụ, Vũ Quang).[27] Trong thời gian qua, Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện và cơ quan quân sự huyện luôn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn đội ngũ cán bộ đủ số lượng, bảo đảm chất lượng. Về trang bị vũ khí chủ yếu tập trung cho các xã: Vũ Quang, Hòa Hải, Hương Liên, Hương Lâm với số lượng 24 khẩu súng bộ binh. Về hoạt động tác chiến trị an thường xuyên được duy trì, đạt hiệu quả tốt. Nổi bật có xã Vũ Quang và xã Hương Liên.
Sau một năm triển khai thực hiện nhiệm vụ, ngày 1 tháng 1 năm 1995, Ban chỉ huy quân sự huyện tổ chức tổng kết công tác Quốc phòng toàn dân năm 1994. Tổng kết đánh giá toàn diện các mặt gồm: Công tác sẵn sàng chiến đấu, công tác huấn luyện - diễn tập, công tác xây dựng đơn vị - xây dựng chính quy... Về công tác sẵn sàng chiến đấu, cơ quan quân sự huyện thường xuyên phối hợp với các đồn biên phòng, công an huyện tổ chức nắm chắc hoạt động diễn biến tình hình địch trên địa bàn, đặc biệt ở các xã vùng biên giới. Đồng thời thông qua giao ban cụm hàng tháng nắm và kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu ở cơ sở. Duy trì nghiêm chế độ trực, đặc biệt trực sẵn sàng chiến đấu. Trong năm 1994 đã tổ chức tập huấn cho 40 đồng chí xã đội trưởng, tự vệ trưởng và các đồng chí cán bộ, chiến sỹ cơ quan quân sự huyện. Sau tập huấn đã triển khai huấn luyện cho 24/27 xã, thị trấn và 5/10 đơn vị tự vệ. Kết quả đạt yêu cầu trở lên. Nổi lên trong công tác huấn luyện có các xã Hương Trạch, Hương Liên và Hương Đại. Về biên chế tổ chức, xây dựng chính quy năm 1994 có một số thay đổi. Đồng chí Lê Danh Quế được bổ nhiệm làm Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng thay đồng chí Trần Đình Tá. Đồng chí Mai Văn Tuấn được bổ nhiệm làm Chỉ huy phó động viên thay đồng chí Nguyễn trọng Thế. ở cơ sở bổ sung 11 đồng chí xã đội trưởng.
Năm 1994 đã tổ chức diễn tập cho một số đơn vị còn lại, kết quả có 14 đơn vị đạt khá, 2 đơn vị đạt yêu cầu (Phú Gia và Hương Bình). Tổng số dân quân tự vệ toàn huyện có 3.566 đồng chí (chiếm 3,2% dân số), trong đó lực lượng nòng cốt 825 đồng chí, lực lượng chiến đấu tại chỗ 2.325 đồng chí, lực lượng binh chủng 401 đồng chí. Số xã, thị trấn có trung đội nòng cốt 27/27, số cơ quan có trung đội nòng cốt 3/10. Số xóm có tiểu đội chiến đấu tại chỗ 253/253. Đối với tiểu đoàn huyện, cơ quan quân sự đã tiến hành phúc tra nắm lại lực lượng, sắp xếp biên chế theo chuyên nghiệp quân sự. Cử 12 đồng chí tham gia tập huấn ở tỉnh đạt kết quả khá. Sắp xếp biên chế cho 329 đồng chí quân nhân dự bị và tiểu đoàn huyện. Phối hợp cùng xã Phú Gia báo động kiểm tra lực lượng dự bị động viên đạt kết quả tốt. Năm 1994 huyện đã tổ chức khám tuyển và giao 285 quân, đạt 100% chỉ tiêu giao. Về xây dựng cơ bản đã hoàn thành khu nhà làm việc, quy hoạch khu doanh trại, sửa chữa nâng cấp nhà ở, hoàn chỉnh bể nước, khu nhà vệ sinh, kho vũ khí. Công tác chăn nuôi cũng được chú trọng, trong năm thu 300kg cá lồng, trồng được 100 gốc chuối, duy trì đàn dê 30 con. Tích cực trồng rau xanh đạt 120kg cho mỗi người trong một năm.
Đến cuối năm 1995, tổng số dân quân tự vệ toàn huyện có 4.658 đồng chí, trong đó lực lượng cơ động 811 đồng chí, lực lượng chiến đấu tại chỗ 3.847 đồng chí, lực lượng binh chủng 565 đồng chí. Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức biên chế mỗi xã, thị trấn tổ chức một trung đội cơ động từ 20 đến 30 đồng chí. Mỗi cơ quan, xí nghiệp tổ chức một tiểu đội từ 7 - 10 đồng chí. Lực lượng chiến đấu tại chỗ mỗi xã, thị trấn tổ chức 3 - 5 trung đội, mỗi cơ quan xí nghiệp 1 trung đội. Riêng lực lượng binh chủng toàn huyện tổ chức 7 trung đội 12,7 ly. Cán bộ xã, phường, cơ sở có 76 đồng chí trong đó có 51 đồng chí trong cấp ủy; cán bộ chuyên trách 65 đồng chí, bán chuyên trách 11 đồng chí gồm 27 xã đội trưởng, phường đội trưởng; 11 đồng chí tự vệ trưởng cơ quan xí nghiệp.
Về hoạt động chiến đấu trị an được cấp ủy, chính quyền các cấp thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kết hợp với sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan quân sự huyện và Ban chỉ huy quân sự cơ sở đã tổ chức xây dựng kế hoạch A và A2. Đến hết năm 1995 có 100% đơn vị cơ sở được diễn tập. Đối với công tác tuyển quân, chỉ tiêu tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ số lượng ít hơn so với các năm trước, nhưng yêu cầu chất lượng ngày càng cao hơn về văn hóa, sức khỏe, đặc biệt là tiêu chuẩn chính trị... Nên từ Ban chỉ huy quân sự huyện đến Ban chỉ huy quân sự thị trấn và các xã đã làm tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, Hội đồng nghĩa vụ quân sự các cấp, duy trì tốt công tác quản lý công dân đến độ tuổi nhập ngũ. Hương Khê hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân trong năm 1995.
Với những thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và những năm đầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, ngày 30 tháng 8 năm 1995, Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê vinh dự được Nhà nước phong tặng là đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đi cùng với niềm vui huyện nhà trở thành đơn vị Anh hùng, Sở chỉ huy cơ quan quân sự huyện cũng được khánh thành gồm 3 tầng với đầy đủ tiện nghi, phòng làm việc. Việc khánh thành và đưa vào sử dụng Sở chỉ huy cơ quan quân sự huyện đã giải quyết tốt tình trạng tạm bợ, xuống cấp kéo dài trước đây. Cùng với việc phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê, đồng thời Nhà nước phong tặng 53 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng của toàn huyện.
Năm 1996, năm đầu tiên cả nước ta bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm (1996 - 2000) theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn, Huyện ủy chỉ đạo các cấp, các ngành, quân và dân trong toàn huyện triển khai các mặt công tác chuẩn bị bước vào thực hiện kế hoạch này. Tháng 2 năm 1996, Đảng bộ quân sự huyện tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ 2 nhiệm kỳ 1996 - 1998. Đại hội đã tập trung đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, khẳng định: Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ quân sự huyện đã quán triệt sâu sắc quan điểm đường lối của Đảng, cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng ủy cấp trên, tập trung lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân huyện thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng. Công tác quân sự địa phương có nhiều chuyển biến tốt, nhất là công tác sẵn sàng chiến đấu, tuyển quân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, tham gia sản xuất và làm kinh tế, làm nòng cốt trong việc giải quyết các điểm nóng, thực hiện tốt các chính sách hậu phương quân đội... Những kết quả đạt được này đã góp phần củng cố thêm một bước thế trận quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện.
Sau phần đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, Đại hội đã đề ra phương hướng mục tiêu cho nhiệm kỳ 1996 - 1998 với trọng tâm là: Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng toàn dân, kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, quốc phòng với an ninh, xây dựng huyện Hương Khê thành khu vực phòng thủ vững chắc của tỉnh. Thường xuyên bổ sung hoàn thành các phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến đấu sát với nhiệm vụ trên giao. Xây dựng cơ quân quân sự huyện vững mạnh toàn diện, đủ năng lực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác quốc phòng an ninh, công tác quân sự địa phương. Xây dựng Đảng bộ quân sự huyện luôn trong sạch vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo toàn diện các mặt công tác, nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên giao cho.
Triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy cấp trên, đặc biệt là Nghị quyết của Đảng bộ quân sự huyện, trong hai năm 1996 - 1997, cơ quân quân sự huyện phối hợp với bộ đội biên phòng và công an khảo sát nghiên cứu để tìm ra các phương pháp hoạt động thích hợp của lực lượng dân quân tự vệ chống xâm nhập lấn chiếm của 6 xã biên giới. Huyện Hương Khê có 6 xã gồm Hương Liên, Hương Lâm, Hương Vĩnh, Phú Gia, Hòa Hải, Vũ Quang có biên giới giáp tỉnh Polykhamxay nước bạn Lào dài 92km. Trong thời gian qua huyện luôn chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đủ số lượng, bảo đảm chất lượng. Thường xuyên bảo đảm được 525 đồng chí so với tổng dân số 26.369 người, trong đó lực lượng nòng cốt 148 đồng chí, lực lượng tại chỗ 377 đồng chí. Với quy mô 6 xã có 6 trung đội cơ động gồm 18 tiểu đội thường xuyên tuần tra canh gác, phối hợp các đồn biên phòng 545, 571 và 576 bảo vệ an ninh chính trị, an toàn xã hội trên từng địa bàn và tuyến biên giới. Lực lượng tại chỗ 6 xã có 6 đại đội (24 trung đội, 72 tiểu đội). Hàng năm đều tổ chức huấn luyện theo chương trình kế hoạch, quân số tham gia 520 đồng chí. Nội dung huấn luyện gồm: nhiệm vụ quốc phòng năm 1996 và 1997; Chính sách của Mỹ sau khi bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ; Pháp lệnh dân quân tự vệ; Nghị quyết của Đảng ủy cấp trên; học bắn súng AK bài 1, trung đội dân quân chiến đấu tập kích ở địa hình rừng núi, các tư thế ném lựu đạn. Kết quả đạt khá.
Về hoạt động tác chiến trị an, hàng năm trung đội dân quân cơ động phối hợp lực lượng an ninh xã và lực lượng biên phòng tuần tra canh gác bảo vệ trị an thôn xóm và địa bàn biên giới. Trong 2 năm (1996 - 1997) không xẩy ra vụ việc xâm phạm hoặc xâm lấn biên giới. Tuy nhiên, các vụ gây rối trị an còn nhiều, tổng 74 vụ với 105 lượt người vi phạm gồm: trộm tài sản công dân, buôn bán gỗ trái phép, tranh chấp đất, phá hoại tài sản công dân... sử dụng vũ khí trái phép 1 vụ, thu 1 lựu đạn, 1 súng AK và 1 dao găm. Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự huyện, các xã thường xuyên bổ sung kế hoạch phòng thủ A, A2, củng cố hệ thống đường sá liên thôn, liên xã; tu sửa 10km kênh mương, trồng 150 ha rừng vừa bảo đảm kinh tế trước mắt, vừa bảo đảm chiến lược lâu dài.
 Đến cuối năm 1997, Hương Khê có 38 đơn vị dân quân tự vệ gồm: Cấp xã 25 đơn vị, cấp thị trấn 2 đơn vị, cơ quan xí nghiệp 11 đơn vị. Đánh giá phân loại cơ sở khá có các xã: Hương Long, Hương Giang, Phúc Trạch, Hương Thủy, Hương Liên, Hương Trạch, Gia phố, Thị trấn, Nông trương 20-4, Lộc Yên, Hương Vĩnh, Phúc Đồng, Hòa Hải, Vũ Quang, Phú Gia, tự vệ ủy ban, Kho bạc, Bưu điện, Lâm trường Trại Trụ, Lâm trường Chúc A. Số còn lại là những cơ sở trung bình. Về tổ chức lực lượng, toàn huyện có 1.651 dân quân xã, 196 dân quân thị trấn, 135 tự vệ, các xã biên giới có 480 đồng chí. Tổ chức biên chế thành 29 trung đội, 84 tiểu đội. Đội ngũ cán bộ xã, phường có 146 đồng chí gồm 38 đồng chí chính trị viên, 25 đồng chí xã đội trưởng, 95 đồng chí cán bộ trung đội, 2 đồng chí thị đội trưởng; 290 cán bộ tiểu đội, 11 đồng chí tự vệ trưởng.
Về công tác huấn luyện, năm 1997 đã có 16 đồng chí xã đội trưởng tập huấn ở trường quân sự tỉnh, 1 đồng chí trung đội trưởng 12,7 ly tập huấn ở quân khu. Đồng thời đã tổ chức tập huấn quân sự đầu năm cho cán bộ xã, phường gồm 104 đối tượng gồm Chủ tịch, Bí thư, Giám đốc, thủ trưởng cơ quan, xã đội trưởng, thị đội trưởng. Kết quả 100% đạt khá. Kết hợp với nhiệm vụ huấn luyện, huyện đã tổ chức diễn tập tác chiến trị an cho 7 đơn vị đạt kết quả khá, 7 đơn vị gồm: Hương Bình, Hương Long, Phú Phong, Hương Vĩnh, Phú Gia, Hòa Hải, Lộc Yên. Hoàn thành chương trình huấn luyện cho dân quân tự vệ 38/38 đơn vị. Huấn luyện quân sự cho hai trường cấp 3 (Vũ Quang và Hương Khê) với thời gian 6 ngày, quân số tham gia huấn luyện 2.200 em. Thường xuyên chú trọng công tác sẵn sàng chiến đấu, tổ chức tuần tra năm tình hình biên giới 18 lượt. Tham gia lao động sản xuất, đặc biệt tham gia chiến dịch làm giao thông ở địa phương trên địa bàn huyện 30.100 ngày công, đào đắp được 1.200m3 đất đá. Tham gia trồng cây phủ xanh đồi trọc được trên 60 ha. Ngoài ra còn tham gia phòng chống bão lụt, khắc phục hậu quả thiên tai được nhân dân địa phương khen ngợi.
Đầu năm 1998, Đảng ủy quân sự huyện ra Nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng năm 1998, trọng tâm của nhiệm vụ chung là: "Tiếp tục quán triệt nâng cao nhận thức về tình hình nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng 8; Nghị quyết 05 của Thường vụ Huyện ủy. Tập trung nâng cao chất lượng của lực lượng vũ trang thực sự vững chắc, xây dựng cơ sở an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu. Đồng thời phát huy đầy đủ vai trò chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ huyện, xây dựng cụm tuyến biên giới. Chủ động phòng ngừa và sẵn sàng làm thất bại âm mưu "Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, giữ vững ổn định chính trị, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện nhà lên một bước mới".[28]
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đảng ủy quân sự huyện, năm 1998, Ban chỉ huy quân sự huyện chủ động tham mưu kịp thời và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng năm 1998 có hiệu quả toàn diện trên các nội dung: Tổng số dân quân tự vệ cấp xã có 25 đơn vị, thị trấn 2 đơn vị, tự vệ 1 tiểu đoàn. Phân loại cơ sở khá 21 đơn vị, trung bình 17 đơn vị. Dân quân tự vệ toàn huyện có 2.624 đồng chí (chiếm 2,4% dân số), trong đó dân quân xã 2.117 đồng chí, dân quân thị trấn 205 đồng chí, tự vệ 302 đồng chí. Đã tổ chức huấn luyện xong cho 36/38 đơn vị (25 xã, 11 cơ quan), quân số tham gia huấn luyện 2.415 đồng chí. Nội dung huấn luyện chính trị học nhiệm vụ của lực lượng vũ trang quân khu năm 1998, nhiệm vụ quốc phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Về quân sự, huấn luyện cho trung đội dân quân làm nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu trong tình huống A2; binh khí súng tiểu liên AK, kỹ thuật bắn súng AK bài 1. Kết quả huấn luyện: Về chính trị kiểm tra có 72,4% khá giỏi, quân sự có 70,22% khá giỏi. Kết hợp với nhiệm vụ huấn luyện đã tổ chức tuần tra 16 lượt, quân số 98 đồng chí. Đồng thời tham gia chiến dịch giao thông ở địa phương 6.490 ngày công, đào đắp 99.600m3 đất đá.
Trong hai năm 1997 - 1998, huyện đã chọn 4 đơn vị làm điểm trong xây dựng củng cố lực lượng và huấn luyện dân quân tự vệ, đó là: xã Phú Gia, xã Phú Phong, Nông trường 20/4 và tự vệ Lâm trường Trại Trụ. Đánh giá thực trạng, về số lượng thường xuyên bảo đảm 282 đồng chí (chiếm 2,4% dân số), trong đó tỷ lệ đảng viên chiếm 22,7%, đoàn viên chiếm 77,3%, quân nhân phục viên xuất ngũ 15%, lực lượng nòng cốt 79 đồng chí, lực lượng tại chỗ 198 đồng chí. Biên chế 2 xã và 2 đơn vị có 10 trung đội gồm 30 tiểu đội. Lực lượng dân quân tự vệ thường xuyên tuần tra, canh gác, phối hợp với đồn biên phòng 571 bảo vệ an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn và tuyến biên giới. Qua hai năm thực hiện nhiệm vụ, lực lượng dân quân tự vệ 4 đơn vị luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm và ý chí chiến đấu của mình trong nhiệm vụ huấn luyện và nhiệm vụ tuần tra canh gác bảo vệ trị an. Thường xuyên kiểm tra và tổ chức tập duyệt kế hoạch A, A2, xử lý giải quyết tốt các vụ việc xẩy ra trên địa bàn. 4 lần tỉnh phát lệnh báo động, các đơn vị đều chấp hành nghiêm mệnh lệnh , huyện được đánh giá là đơn vị khá.
Cuối năm 1999, Đảng ủy quân sự huyện tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm (1993 - 1999) xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đánh giá kết quả, báo cáo tại hội nghị nhấn mạnh: Đảng bộ thường xuyên lãnh đạo nâng cao trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, chủ động phòng chống âm mưu thủ đoạn "Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ giảm số lượng để nâng cao chất lượng theo đúng Pháp lệnh dân quân tự vệ từ 4.585 đồng chí (năm 1993) xuống còn 2.784 đồng chí (năm 1999). Chú trọng tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng cho dội ngũ cán bộ chủ trì và cán bộ quân sự cơ sở. Trong 6 năm đã có 1.250 lượt cán bộ gồm Chủ tịch, Bí thư, xã đội trưởng, xóm trưởng, cán bộ các ban ngành cấp huyện được tập huấn. Lãnh đạo chặt chẽ công tác tuyển gọi thanh niên nhập ngũ đạt và vượt kế hoạch trên giao. Trong 6 năm đã có 1.705 thanh niên lên đường nhập ngũ. Đầu tư hơn 1 tỷ đồng xây nhà làm việc, nhà kho, nhà ăn, nhà bếp... ngoài ra còn tự mua sắm các trang thiết bị cần thiết để cải thiện đời sống sinh hoạt của bộ đội.
Đối với nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, trọng tâm là xây dựng cơ sở an toàn làm chủ thường xuyên được coi trọng. Từng bước hình thành được  cụm an toàn làm chủ, góp phần quan trọng giữ vững ổn định ở từng khu vực và trên toàn địa bàn. Những vấn đề nẩy sinh cơ bản được giải quyết, khong để xẩy ra các điểm nóng. Công tác giải quyết các tồn đọng sau chiến tranh cũng được triển khai tích cực, đã quy tập và tiếp nhận 40 mộ liệt sỹ, làm thủ tục khen thưởng cho hàng ngàn trường hợp. Thường xuyên củng cố xây dựng tổ chức Đảng, năm 1993  các chi bộ chỉ có Bí thư, nhưng đến năm 1999 đã có 2/4 chi bộ có cấp ủy. Đảng ủy luôn có số lượng 7 đồng chí (5 đồng chí trong Đảng bộ quân sự).
Trong các năm 1996 - 1998, đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan quân sự huyện có sự thay đổi, năm 1996 đồng chí Trần Đình Lượng được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng thay đồng chí Lê Hồng Mão; năm 1998, đồng chí Trần Tiến Dũng được bổ nhiệm làm chính trị viên Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê thay đồng chí Nguyễn Huy Chương (Tháng 7 năm 2002, đồng chí Chỉ huy trưởng Trần Đình Lượng từ trần, cấp trên đã chỉ định được đồng chí Trần Tiến Dũng - Chính trị viên  kiêm Chỉ huy trưởng).
Trước tình hình chung của thế giới và khu vực cũng như các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với nước ta, trong phiên họp cuối tháng 12 năm 1999, Đảng ủy quân khu đã xác định tập trung nâng cao tiềm lực quốc phòng, trước hết là sức mạnh chính trị, tăng cường chất lượng đồng bộ đảm bảo sẵn sàng chiến đấu thực sự nghiêm ngặt. Rèn luyện xây dựng nền nếp chính quy toàn diện, cơ bản, vững chắc, nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang quân khu, loại trừ bất ngờ, giữ vững ổn định chính trị... Hết sức coi trọng gắn phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, nhất là ở những địa bàn chiến lược, vùng cao, bờ biển, biên giới. Chủ động đối phó với mọi tình huống...
Thực hiện những chủ trương của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh quân khu, của Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và của Huyện ủy, Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự huyện tập trung quán triệt các nghị quyết, làm cho mọi cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân huyện nhận thức đầy đủ, đúng đắn, sâu sắc những thủ đoạn phá hoại tinh vi thâm độc ngầm, mềm, sâu, hiểm của kẻ thù bằng "Chiến tranh ngầm", "Chiến tranh tình báo" xuyên tạc nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng ta, nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh... Từ đó động viên cán bộ, chiến sỹ bộ đội địa phương, dân quân tự vệ huyện cùng nhân dân nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ huyện, xã, phường, cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân huyện chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đến năm 2000, toàn huyện có 22 đơn vị dân quân, 18 đơn vị tự vệ, với tổng số 11.731 đồng chí, trong đó lực lượng dự bị 1 là 2.742 đồng chí. Về tuyển quân, nét nổi bật trong năm 2000 là đã đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức giao lưu trước ngày giao quân. Năm 2000, huyện Hương Khê được Bộ Tư lệnh quân khu tặng Bằng khen về những thành tích tuyển gọi thanh niên nhập ngũ trong 5 năm (1996 - 2000). Đối với nhiệm vụ huấn luyện diễn tập, trước khi huấn luyện đã tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ chủ trì cơ sở bảo đảm cả thời gian và quân số. Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền trong việc lập kế hoạch, giao nhiệm vụ, triển khai thực hiện kế hoạch. Trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn chuẩn bị kế hoạch chu đáo và tổ chức điều hành thực hành diễn tập đạt kết quả tốt. Qua diễn tập, các đơn vị rút được nhiều kinh nghiệm, nâng cao  được nhận thức, ý thức trách nhiệm, nắm được phương pháp vận hành theo Cơ chế 02 của Bộ Chính trị và thực hành huy động lực lượng đánh địch bảo vệ địa phương. 6/6 đơn vị hoàn thành diễn tập, trong đó có 2 đơn vị (Hương Giang, Hương Thủy) hoàn thành tốt nhiệm vụ. Về hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, 5 năm liên tục (1996 - 2000) Đảng bộ quân sự huyện Hương Khê đạt vững mạnh xuất sắc, cả 4/4 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Năm 2000 đã xin kinh phí đầu tư sửa chữa nhà cho bộ đội, đồng thời tu sửa nhà xe, dàn che nắng, nhà ăn với tổng số gần 100 triệu đồng.[29]
Ngày 25 tháng 1 năm 2000, cơ quan quân sự huyện đã tổ chức Tổng kết 5 năm công tác huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị. Đối với công tác huấn luyện, hàng năm cơ quan quân sự huyện đã cử cán bộ tham gia học tại các trường của Bộ và quân khu từ 6 - 18 tháng (tổng số được 14 đồng chí), tập huấn tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh 185 lượt cán bộ, thời gian 5 - 7 ngày. Đồng chí Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện tham gia tập huấn tại quân khu 20 ngày. Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, thị trấn tập huấn hội thao ở tỉnh được 26 lượt. Xã đội trưởng tham gia tập huấn tại trường quân sự tỉnh 34 lượt, thời gian từ 12 - 15 ngày. Huyện tổ chức tập huấn được 18 lớp cho cán bộ chủ trì và cán bộ chuyên trách cơ sở với 690 lượt cán bộ. Tổ chức hội thi, hội thao 3 đợt về nhiệm vụ quân sự cho 147 lượt Chủ tịch, Bí thư, Xã đội trưởng, thủ trưởng, tự vệ trưởng. Trước khi bước vào huấn luyện đã tổ chức huấn luyện cho đội mẫu. Trong huấn luyện đã đổi mới hình thức, phương pháp huấn luyện phù hợp với từng đối tượng.
Đối với công tác tổ chức xây dựng lực lượng, thường xuyên chăm lo kiện toàn, củng cố cơ quan quân sự huyện đảm bảo số lượng theo biên chế, làm tốt công tác chính trị tư tưởng kết hợp chặt chẽ với công tác tổ chức, xây dựng lập trường quân điểm bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và năng lực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Luôn làm tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ. Hàng năm tổ chức đăng ký quản lý lực lượng trong độ tuổi dân quân tự vệ, cụ thể: năm 1997 đăng ký quản lý được 29.275 người, năm 1998 là 28.690 người, năm 1999 quản lý 25.670 người, đến năm 2000 là 25.729 người.
Thông qua việc đăng ký đã tuyển chọn được các đối tượng có đầy đủ phẩm chất sức khỏe, bổ sung luân phiên vào lực lượng nòng cốt. Vì vậy mà chất lượng chính trị, khả năng hoàn thành được nhiệm vụ ngày càng được nâng lên. Năm 1996, tổng số có 38 đơn vị dân quân tự vệ, đến năm 2000 đã phát triển thêm thành 47 đơn vị (thành lập mới 9 đơn vị). Lực lượng nòng cốt năm 2000 có 2.083 đồng chí (chiếm 24% dân số). Về tổ chức biên chế: mỗi xã, thị trấn tổ chức 1 trung đội cơ động, quân số từ 20 - 25 đồng chí; mỗi xóm, thôn được tổ chức 1 tổ hoặc 1 tiểu đội chiến đáu tại chỗ tùy theo địa bàn và dân số. Lực lượng binh chủng tổ chức thành 3 - 5 đồng chí gồm Thông tin, Trinh sát, Hóa học, Công binh... toàn huyện tổ chức 6 trung đội phòng không 12,7 ly trên các vùng trọng điểm. Đối với đơn vị tự vệ biên chế 1 tiểu đội cơ động, số lượng 5 - 12 đồng chí và tổ chiến đấu tại chỗ 3 - 5 đồng chí. Thường xuyên đăng ký quản lý lực lượng dự bị động viên chặt chẽ, có nền nếp cả số lượng và chất lượng. Toàn huyện có 11.731 đồng chí. Tổ chức biên chế các đơn vị gồm: 2 tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 337 có 1.080 đồng chí; tiểu đoàn bộ binh huyện 435 đồng chí; đại đội công binh tỉnh 170 đồng chí; dự trữ 273 đồng chí. Trong 5 năm đã bổ nhiệm chức danh chỉ huy đơn vị dự bị động viên 226 đồng chí.
 Kết quả huấn luyện trong 5 năm (1996 - 2000), về quân sự đã gửi học ở trường Bộ và Quân khu 14 đồng chí, thời gian từ 6 - 18 tháng. Số cán bộ này đã hoàn thành nội dung, chương trình, kiểm tra 100% khá giỏi. Tham gia tập huấn tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh 185 lượt cán bộ, kết quả 100% đạt yêu cầu, trong đó có trên 80% khá giỏi. Hàng năm đều tổ chức huấn luyện tại cơ quan cả chính trị và quân sự, thời gian từ 28 - 30 ngày. Trong huấn luyện, xã Hương Trạch và Hương Liên là những đơn vị khá về bảo đảm quân số, thời gian và chất lượng. Hàng năm huyện đều kết hợp tốt giữa huấn luyện với diễn tập. Năm 1996, diễn tập động viên quân dự bị, quân số tham gia 188/191 đồng chí thuộc tiểu đoàn huyện, đạt kết quả tốt, nổi bật có xã Hương Vĩnh, xã Hương Xuân và Nông trường 20/4. Năm 1997, huấn luyện cho đại đội bộ binh 1 thuộc tiểu đoàn huyện, quân số tham gia gồm 112 đồng chí, kết quả có 84% khá giỏi. Năm 1998, tổ chức báo động kiểm tra một đại đội bộ binh thuộc tiểu đoàn huyện, gọi huấn luyện tại Sư đoàn 337 quân số 220 đồng chí, kết quả 100% hoàn thành nhiệm vụ. Năm 1999, tiếp tục báo động kiểm tra 1 đại đội, quân số có mặt 105/112 đồng chí, gọi huấn luyện tại Sư đoàn 337 quân số 50 đồng chí, tất cả đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Về giáo dục quốc phòng cho học sinh, trong 5 năm cơ quan quân sự huyện và Ban giám hiệu các trường phổ thông đã giáo dục cho 13.974 lượt, thời gian từ 5 - 7 ngày. Kết quả, về giáo dục chính trị các năm đều đạt từ 74 - 78% khá giỏi; quân sự đạt từ 76 - 80% khá giỏi.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự trong 5 năm (1996 - 2000) vẫn còn một số tồn tại đó là: Việc quán triệt nhiệm vụ huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị ở một số cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang chưa sâu, nên thực hiện nhiệm vụ có mặt còn hạn chế. ở một số đơn vị cấp ủy, chính quyền chưa thực sự quan tâm chăm lo đầu tư đúng mức cho nhiệm vụ huấn luyện. Công tác tổ chức, phương pháp huấn luyện thực hành còn yếu. áp dụng chương trình huấn luyện thực hiện luân phiên 4 năm ở cơ sở còn gặp nhiều khó khăn...
Nhìn chung trong nhiệm kỳ 1996 - 2000, công tác quốc phòng, an ninh ở địa phương luôn được giữ vững, chính trị xã hội ổn định. Đảng bộ huyện thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về hai nhiệm vụ chiến lược và về âm mưu "diến biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh, đủ sức để giải quyết tại chỗ những vấn đề phức tạp nảy sinh ở địa phương. Hàng năm đều tổ chức huấn luyện, diễn tập bảo đảm chất lượng. Hoàn thành tốt công tác tuyển gọi thanh niên nhập ngũ. Trong 5 năm, Hương Khê đã giao 717 tân binh, không có quân nhân đào ngũ. Phong trào xây dựng cơ sở vững mạnh, an toàn làm chủ được chú trọng. Hương Khê đã được Bộ Tư lệnh Quân khu 4 tặng Bằng khen về thành tích 10 năm xây dựng cơ sở xã, phường vững mạnh toàn diện.
Ngày 10 tháng 5 năm 2001, Hương Khê Tổng kết 10 năm thực hiện nhiệm vụ A2 (phòng chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ). Trong 10 năm (1990 - 2000), dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh quân khu, Tỉnh ủy - ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Sở công an. Hàng năm Ban Thường vụ Huyện ủy ra Nghị quyết lãnh đạo về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, trong đó tập trung vào nhiệm vụ phòng chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, xác định đây là nhiệm vụ cấp bách trước mắt vừa cơ bản, vừa lâu dài. Đồng thời ra các văn bản chỉ thị cho cơ sở, tổ chức các đợt học tập quán triệt, tập huấn cho cán bộ là cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách quân sự, công an cơ sở với tỷ lệ tham gia 85% quân số. Tổ chức hội thi nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục tuyên truyền nhận thức chính trị, tư tưởng, nhiệm vụ quân sự quốc phòng, nhiệm vụ phòng chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của địch để nâng cao nhận thức nhiệm vụ về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, nâng cao cảnh giác đập tan mọi âm mưu luận điệu xuyên tạc, mọi hành vi vi phạm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Tổ chức thành 8 cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu và phân công các thành viên trong Thường vụ và Ban chấp hành Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo cụm và từng đơn vị cơ sở. Tổ chức diễn tập cấp huyện 3 lần (1993, 1996, 1998), chỉ đạo và tổ chức diễn tập kế hoạch phòng chống gây rối bạo loạn lật đổ cho 24 lượt đơn vị; diễn tập tác chiến trị an cho 31 lượt đơn vị cơ sở. Từng bước phát huy tốt việc vận hành Cơ chế 02 của Bộ Chính trị, tăng cường phối hợp giữa công an - quân sự - biên phòng tạo sự thống nhất làm nòng cốt cho xây dựng và bảo vệ an ninh cơ sở.
- Công tác an ninh nông thôn, phòng chống tội phạm 10 năm liền đạt kết quả tốt, toàn huyện có 27 Hội đồng tự quản, 1.242 tổ liên gia, trong đó có 70% hoạt động có hiệu quả. Mạng lưới an ninh cơ sở được củng cố góp phần tạo nên phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh cơ sở. Nhiều vụ trọng án được khám phá nhanh, công tác phòng ngừa tội phạm, giáo dục pháp luật được triển khai tích cực tạo niềm tin trong quần chúng nhân dân. Tình hình an ninh biên giới bảo đảm thế ổn định. Khi có vụ việc kịp thời giải quyết nhanh, gọn, không để diễn biến phức tạp kéo dài.
Năm 2002, Ban chỉ huy quân sự Hương Khê được củng cố và kiện toàn với tổng quân số có 37 đồng chí, trong đó có 21 sỹ quan, 14 quân nhân chuyên nghiệp - công nhân viên quốc phòng, 2 hạ sỹ quan chiến sỹ. Được biên chế gồm: Ban chỉ huy gồm các đồng chí: Trần Tiến Dũng - Chính trị viên kiêm Chỉ huy trưởng, đồng chí Trần Đình Tá - Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Trọng Thể - Phó chỉ huy trưởng động viên, đồng chí Nguyễn Văn Luận - Chính trị viên phó kiêm Chủ nhiệm chính trị. Đội ngũ cán bộ gồm: 4 trợ lý tác huấn, 2 trợ lý dân quân, 1 trợ lý trinh sát, 1 trợ lý quân lực, 3 trợ lý động viên tuyển quân, 4 trợ lý chính trị, 1 trợ lý cán bộ, 1 trợ lý hậu cần. Số còn lại là các nahan viên thống kê của cơ quân quân sự huyện.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng năm 2002, Ban chỉ huy quân sự huyện đã xây dựng bổ sung các kế hoạch A, A2, A3, kết hợp phòng chống bão lụt, cháy nổ, bảo vệ cơ quan đơn vị... Kế hoạch chiến đấu trị an của các xã, thị trấn từng bước được haoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng địa phương. Năm 2002 đã tổ chức báo động kiểm tra khả năng sãn sàng chiến đấu cho 14 lượt đơn vị cơ sở tổng số 302 đồng chí; 4 trung đội dân quân cơ động 92 đồng chí, 1 tiểu đoàn công binh tỉnh 170 đồng chí. Tổ chức diễn tập chiến đấu trị an cho 4 đơn vị, diễn tập phòng chống bão lụt 1 đơn vị và kiểm tra kế hoạch phòng chống bão lụt 5 đơn vị. Phối hợp với công an 2 đồn biên phòng nắm chắc tình hình biên giới và các vùng trọng điểm. Huy động lực lượng thường trực, dân quân tự vệ chống lụt, cứu hộ, cứu nạn ở các vùng bị ngập lụt nặng.
Về củng cố và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, năm 2002 toàn huyện có 11.020 đồng chí, trong đó dự bị hạng I là 2.512 đồng chí (sỹ quan 105, hạ sỹ quan chiến sỹ 2.047); dự bị hạng II có 8.508 đồng chí. Biên chế tổ chức cho các đơn vị: Trung đoàn 4 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh 911 đồng chí, Tiểu đoàn bộ binh huyện 435 đồng chí, tiểu đoàn công binh tỉnh 170 đồng chí, lực lượng dự trữ cho tỉnh 154 đồng chí. Có 22/22 xã, thị trấn hoàn thành chỉ tiêu giao quân, trong đó có 13 xã, thị trấn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 2002, huyện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyển và giao quân, được Bộ Tư lệnh Quân khu 4 tặng Bằng khen. Đến hết tháng 4 năm 2002 toàn huyện hoàn thành chương trình giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự cho dân quân tự vệ. Sau mỗi đợt huấn luyện, đã tổ chức hội thao theo cụm để đánh giá chất lượng. Tổ chức diễn tập chiến đấu trị an cho 4 đơn vị, diến tập phòng chống bão lụt 1 đơn vị đạt kết quả khá.
Đối với công tác chính sách hậu phương quân đội, đã tổ chức góp quỹ tình nghĩa đạt hơn 100 triệu đồng. Làm mới 3 nhà bia tưởng niệm, tiếp nhận 20 bộ hài cốt, cất bốc quy tập vào nghĩa trang 4 mộ liệt sỹ. Tổ chức làm nhà tình nghĩa và giúp đỡ các gia đình chính sách xóa nhà tranh tre dột nát. Phối hợp các ngành làm thủ tục cho hơn 1.000 hồ sơ chất độc da cam...
Trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2005, lực lượng vũ trang Hương Khê cùng lực lượng vũ trang toàn tỉnh triển khai nhiệm vụ trong điều kiện tình hình quốc tế, khu vực, tình hình trong nước vẫn còn những diễn biến mới phức tạp, luôn chứa đựng những yếu tố tiềm ẩn, mất ổn định khó lường. Trên địa bàn huyện một số đối tượng lợi dụng tôn giáo ngấm ngầm hoạt động tuyên truyền chống phá, hiện tượng khiếu kiện vẫn còn xẩy ra ở một số nơi, các tệ nạn xã hội còn nhiều phức tạp. Nền kinh tế huyện nhà bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những khó khăn, yếu kém; một bộ phận nhân dân đời sống còn thấp. Về tổ chức biên chế cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cơ quan quân sự huyện trong hai năm 2002 - 2003 có sự thay đổi, năm 2002, đồng chí Hồ Thế Thu được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng, đến năm 2003 đồng chí Thái Bá Đức được bổ nhiệm làm Chính trị viên thay đồng chí Trần Tiến Dũng nhận nhiệm vụ ở Bộ chỉ huy quân sự tỉnh.
Đảng bộ, Ban chỉ huy quân sự huyện tập trung quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân sự tỉnh lần thứ XV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 26. Hàng năm bằng nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể, sát đúng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt các mục tiêu, chỉ tiêu về nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Trước hết chủ động tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quân sự quốc phòng, trọng tâm là nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu; chủ động phòng ngừa, đấu tranh với mọi âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, chống "tự diễn biến", góp phần ổn định chính trị, tạo điều kiện phát triển kinh tế, xã hội. Quán triệt và triển khai nghiêm túc chỉ thị sẵn sàng chiến đấu của trên. Bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống kế hoạch A, A2, A3, kế hoạch phòng tránh sơ tán, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt; kế hoạch chống khủng bố từ huyện đến các xã, thị trấn, đơn vị tự vệ. Đồng thời tổ chức luyện tập, diễn tập theo phương án. Tháng 6 năm 2003, tổ chức diễn tập tác chiến khu vực phòng thủ cấp huyện, diễn tập chiến đấu trị an, kết hợp phòng chống bão lụt, cháy rừng cho 14 xã và đơn vị tự vệ đạt kết quả tốt. Trong huấn luyện đã vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật; hội thi, hội thao, thực hành sát với địa hình, phù hợp với vũ khí trang bị và cách đánh sở trường của dân quân tự vệ, dự bị động viên. Thông qua đó để nâng cao nhận thức và trách nhiệm, năng lực cho đội ngũ cán bộ các cấp. Qua các đợt kiểm tra của quân khu và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh cùng các ngành chuyên môn, lực lượng vũ trang Hương Khê luôn được đánh giá là đơn vị bảo đảm quân số, thời gian và nội dung huấn luyện, hoàn thành nhiệm vụ đạt loại giỏi.
Công tác tuyển và giao quân cũng được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, đủ chỉ tiêu, chất lượng ngày càng cao. Từ năm 2003 đến năm 2005 đã tổ chức giao 350 thanh niên cho các đơn vị. Riêng năm 2005, trong số thanh niên nhập ngũ có gần 30% đảng viên, 2 công chức, 1 dân tộc ít người, được Bộ Tư lệnh quân khu và tỉnh tặng Bằng khen. Công tác xây dựng cơ sở theo 5 nôi dung xây dựng cơ sở có sự chuyển biến khá tốt, đi vào chiều sâu. Phân loại chất lượng, năm 2004 có 6/6 cụm hoạt động khá, 12/22 đơn vị vững mạnh toàn diện, 5/22 đơn vị đạt khá, 2 đơn vị đạt trung bình, không có đơn vị yếu kém. Đội công tác tăng cường xây dựng cơ sở đã từng bước hoạt động có hiệu quả, góp phần cùng cấp ủy, chính quyền làm chuyển biến tình hình trên mọi mặt ở địa phương.
Đối với nhiệm vụ huấn luyện, đã quán triệt tốt phương châm "cơ bản, thiết thực, chất lượng". Tích cực chủ động sáng tạo trong huấn luyện, đầu tư hệ thống sổ sách, giáo án, mô hình học cụ, bảo đảm thực hiện đúng thời gian, chương trình, nội dung và chất lượng. Kết quả có 100% đạt yêu cầu, 82% khá giỏi, riêng sỹ quan 98% khá giỏi. Được cấp trên đánh giá là đơn vị đạt tiêu chuẩn huấn luyện giỏi. Hai năm liên tục 2003 và 2004 được ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen.
Trong xây dựng lực lượng, lực lượng dân quân tự vệ được củng cố theo hướng nâng cao chất lượng, có tỷ lệ thích hợp với thời bình và mở rộng thời chiến, hoặc có tình huống cần huy động. Hàng năm được đăng ký, quản lý, khảo sát, phúc tra. Đã sắp xáp theo biên chế đạt 100% chỉ tiêu. Toàn huyện có 40 đơn vị dân quân tự vệ gồm 2.579 người (chiếm 2,4% dân số), tỷ lệ đảng viên 13,5%, bộ đội xuất ngũ phục viên 9,7%. Các trung đội dân quân cơ động được biên chế phù hợp với địa bàn, gọn, huy động nhanh. Lực lượng dân quân tự vệ và các doanh nghiệp trên địa bàn các xã biên giới luôn được chú trọng tập trung xây dựng. Duy trì và quản lý chặt chẽ lực lượng phòng không nhân dân, thường xuyên luyện tập và báo động kiểm tra tinh thần sẵn sàng cơ động khi có tình huống. Năm 2003 và 2004 huy động 2 đại đội huấn luyện tham gia diễn tập đạt kết quả cao. Công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng luôn bảo đảm đúng nội dung, chương trình và thời gian quy định. Hình thức, phương pháp ngày càng được đổi mới. Hàng năm đã tổ chức giáo dục cho trên 5.300 học sinh và 200 cán bộ các cấp, qua kiểm tra đánh giá kết quả có 100% đạt yêu cầu, tỷ lệ khá giỏi trên 755.
Công tác bảo đảm hậu cần, tài chính - kỹ thuật thường xuyên được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, Đảng ủy cơ quan quân sự huyện đã có những chủ trương, biện pháp đúng đắn, vừa bảo đảm phục vụ tốt nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ đột xuất, vừa củng cố nâng cấp doanh trại, kho tàng, mua sắm thêm các trang thiết bị phương tiện bảo đảm phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm và đời sống sinh hoạt của bộ đội. Trong các năm từ 2003 đến 2005 đã đầu tư gần 100 triệu đồng củng cố xây dựng hệ thống tường rào, xây dựng cảnh quan môi trường. Duy trì chăn nuôi, tăng gia, kết hợp làm kinh tế... góp phần giải quyết chính sách hậu phương cán bộ, chiến sỹ và đưa vào bữa ăn hàng ngày cho bộ đội. Hệ thống kho tàng luôn được củng cố. Vũ khí trang bị được bảo quản, bảo dưỡng, bảo đảm đồng bộ. Đã tiếp nhận và sửa chữa 2 xuồng máy, 2 ô tô, phục vụ tốt cho nhiệm vụ sãn sàng chiến đấu, huấn luyện, diễn tập, phòng chống bão lụt...
Ngày 18 tháng 7 năm 2005, Đảng ủy quân sự huyện tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2005 - 2008. Trong phần đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - quân sự và xây dựng cơ quan vững mạnh toàn diện đã nhận xét: "Trong nhiệm kỳ 2003 - 2005, Đảng bộ tập trung quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn xây dựng lực lượng quân sự - quốc phòng với xây dựng thế trận lòng dân. Nội bộ cơ quan luôn đoàn kết, tin tưởng, nỗ lực phấn đấu khắc phục mọi khó khăn vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao."[30]
Bên cạnh những kết quả đạt được khá toàn diện, vững chắc trên các mặt, trong các năm 2003 - 2005 vẫn còn một số những khuyết điểm tồn tại. Công tác giáo dục quốc phòng, tình hình lực lượng vũ trang, âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng chưa thường xuyên. Nhận thức về nhiệm vụ sãn sàng chiến đấu, về mối quân hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược trong một bộ phận cấp ủy, chính quyền và nhân dân chưa cao, chưa quan tâm đúng mức, nên hiệu quả còn hạn chế. Chất lượng huấn luyện, diễn tập hàng năm có mặt chưa cao. Hoạt động xây dựng cơ sở An toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu chưa liên tục, một số cơ sở còn có những mâu thuẫn và phát sinh tình huống phức tạp...
Trên cơ sở phân tích đánh giá toàn diện những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2003 - 2005, Đại hội đã đề ra phương hướng chung tập trung lãnh đạo trong nhiệm kỳ 2005 - 2008, trọng tâm là: Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 8 của Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa IX). Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Củng cố xây dựng khu vực phòng thủ huyện vững chắc, gắn chặt thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị. Củng cố nâng cao chất lượng và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống. Tham gia tích cực các phong trào của địa phương, góp phần ổn định chính trị và thúc đẩy kinh tế, xã hội huyện nhà ngày một phát triển.
Thực hiện kế hoạch của Ban phòng không nhân dân tỉnh, ngày........, Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Hương Khê ký quyết định thành lập Ban phòng không nhân dân huyện gồm ........... đồng chí,. Đồng chí ............ phó Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện làm trưởng ban; đồng chí Hồ Thế Thu, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện làm phó ban thường trực và ......... thành viên. Cơ quan thường trực là cơ quan quân sự huyện. Sau khi thành lập, Ban phòng không nhân dân huyện họp thống nhất một số quy chế hoạt động. Đặc biệt là xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ban phòng không nhân dân huyện, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan thường trực và các thành viên trong ban.
Để giúp Ban phòng không nhân dân huyện hoạt động hiệu quả, cơ quan quân sự huyện đã tham mưu về xây dựng kế hoạch phòng không nhân dân trong khu vực phòng thủ huyện. Tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về nội dung Nghị định 65/2002/NĐ-CP của Chính phủ về công tác phòng không nhân dân. Xây dựng phương án đánh địch tập kích đổ bộ đường không, xây dựng đài quan sát, trạm thông báo phòng không tại cơ quan quân sự huyện và xây dựng trung đội phòng không dân quân súng máy 12,7 ly...
 Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, cuối năm 2005, Ban chỉ huy quân sự huyện tham mưu cho Hội đồng Giáo dục quốc phòng tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm (2001 - 2005) thực hiện Chỉ thị 62/CT-TW của Bộ Chính trị và Nghị định 15/2001/NĐ-CP của Chính phủ về "Giáo dục quốc phòng toàn dân thời kỳ mới". Hội nghị sơ kết khẳng định một số kết quả đạt được trên các mặt của Hương Khê: Đã tập trung giáo dục để mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức giáo dục qua phương tiện thông tin đại chúng ở cơ sở, ở cấp huyện, cấp tỉnh hàng trăm tin, bài; hơn 100 lượt trên mạng lưới phát thanh - truyền hình huyện, tỉnh về nội dung thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa phương của Đảng bộ, nhân dân, các dân tộc và lực lượng vũ trang nhân dân huyện. Tổ chức cử cán bộ chủ chốt cấp huyện, cán bộ lực lượng vũ trang huyện bồi dưỡng kiến thức quốc phòng tại trường quân sự tỉnh và quân khu. Số còn lại là đối tượng 3 được bồi dưỡng tại Ban chỉ huy quân sự huyện. Kết quả kiểm tra nhận thức 100% đạt yêu cầu, trong đó có gần 75% khá giỏi. Công tác giáo dục quốc phòng cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện được thực hiện đúng nội dung chương trình và thời gian quy định, qua kiểm tra có 100% đạt yêu cầu trong đó có trên 75% đạt khá giỏi.
Sau Hội nghị sơ kết 5 năm (2001 - 2005) về "Giáo dục quốc phòng toàn dân thời kỳ mới", đầu năm 2006, Ban chỉ huy quân sự huyện tiếp tục tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện tổ chức sơ kết 5 năm (2001 - 2005) thực hiện Chỉ thị 773/CT-QP của Bộ Quốc phòng về "Đẩy mạnh công tác dân vận của dân quân tự vệ trong tình hình mới". Đồng thời tiến hành sơ kết 4 năm thực hiện Chỉ thị 16/CT-TW về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên trong tình hình mới". Cả hai hội nghị sơ kết đều đánh giá được những việc làm tốt, chưa tốt, từ đó làm cơ sở để đề ra phương hướng cho những năm tiếp theo.
Năm 2006, biên chế của đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan quân sự huyện có thay đổi thuyên chuyển nhiều, cấp trên đã bổ nhiệm một số vị trí gồm: đồng chí Mai Văn Tuấn - Chỉ huy trưởng thay đồng chí Hồ Thế Thu; đồng chí Hồ Xuân Nguyên - Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng thay đồng chí Mai Văn Tuấn; đồng chí Trần Văn Nhỏ - Phó chỉ huy trưởng động viên thay đồng chí Phan Công Hải. Tuy có sự thay đổi thuyên chuyển nhiều của đội ngũ cán bộ chỉ huy, nhưng Đảng ủy - Chỉ huy cơ quan quân sự huyện đã kịp thời có những điều chỉnh hợp lý, ưu tiên trọng tâm, trọng điểm, do đó không có tác động chi phối đến việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị.
Triển khai nhiệm vụ huấn luyện diễn tập năm 2006, huyện Hương Khê cùng với huyện Thạch Hà được tỉnh chọn tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, kết hợp với phòng chống bão lụt, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, phòng chống cháy rừng. Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện đã tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo các cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hành diễn tập đạt kết quả tốt. Đồng thời chỉ đạo các xã, thị trấn, các đơn vị hoàn thành kế hoạch diễn tập chiến đấu trị an. Thông qua diễn tập đã tạo một bước chuyển biến tốt về nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các đoàn thể và khả năng phối hợp hiệp đồng giữa các lực lượng trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 2008, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Hà Tĩnh nói chung cũng như của huyện Hương Khê ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Tuy vậy các thế lực thù địch vẫn tăng cường chống phá ta quyết liệt; các hoạt động lợi dụng tôn giáo, khiếu kiện, tranh chấp đất đai... còn diễn ra phức tạp; thiên tai, dịch bệnh xẩy ra liên tiếp làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy quân sự tỉnh và Ban chấp hành Đảng bộ huyện, Đảng bộ, cơ quan quân sự huyện quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan quân sự huyện và lực lượng vũ trang huyện đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn, góp phần cùng Đảng bộ và nhân dân giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển.
Ngày ..... tháng........ năm 2008, Đảng bộ quân sự tổ chức Đại hội Đảng bộ quân sự huyện nhiệm kỳ 2008 - 2010. Báo cáo kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị từ năm 2005 - 2008 đã đánh giá được những thành tích nổi bật. Trong nhiệm kỳ vừa qua Đảng ủy, cơ quan quân sự đã chủ động, nhạy bén với sự phát triển của tình hình, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, nâng cao chất lượng, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, góp phần cùng cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương giữ vững ổn định chính trị trong các thời điểm. Tập trung tham mưu, chỉ đạo xây dựng nền Quốc phòng toàn dân vững chắc, gắn thế trận Quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân trên cơ sở xây dựng xã, thị trấn vững mạnh toàn diện, cụm An toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu đi vào chiều sâu, vững chắc phù hợp với sự phát triển của tình hình chung. Đến giữa năm 2008, tỷ lệ đơn vị đạt vững mạnh toàn diện chiếm 82,66% (tăng 6,86% so với năm 2005).
Quán triệt sâu sắc các chỉ thị của trên về công tác "Giáo dục quốc phòng trong tình hình mới", Đảng ủy - chỉ huy đã tham mưu cho Ban Thường vụ Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện cử người dự các lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng cho đối tượng 2, đối tượng 3, chức sắc tôn giáo. Mở lớp bồi dưỡng cho đối tượng 3, đối tượng 4, chức việc tôn giáo. Chỉ đạo cơ sở mở lớp bồi dưỡng cho đối tượng 5. Riêng 6 tháng đầu năm 2008 đã mở được 1 lớp đối tượng 3 và 1 lớp đối tượng 4. Toàn huyện đạt 73,6% đối tượng được bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng. Thực hiện tốt các đợt giáo dục Quốc phòng cho học sinh và cho toàn dân. Đội xây dựng cơ sở đã từng bước bám sát nhiệm vụ, địa bàn, bám dân hoạt động có hiệu quả. Chủ động phối hợp với các đơn vị thuộc Lữ đoàn 283, Tiểu đoàn bộ binh 2 làm tốt công tác vận động nhân dân hai xã Hương Lâm và Hương Giang phối hợp với 2 đồn 575, 571 biên phòng, tổ chức nhiều hoạt động trên tuyến biên giới, góp phần tăng cường mối quân hệ đoàn kết quân dân, phù hợp với sự phát triển tình hình mới. Tổ chức thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, tiếp tục giải quyết những chính sách tồn đọng sau chiến tranh, giải quyết xong chế độ theo Quyết định 47/CP, hoàn thành cơ bản đối tượng theo Nghị định 290/CP... Phối hợp với các địa phương, ban ngành đoàn thể đề xuất và tổ chức xây dựng được 7 nhà tình nghĩa... những việc làm này mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, góp phần vào việc ổn định tình hình ở các địa phương.
Về nhiệm vụ xây dựng lực lượng: đã tập trung chỉ đạo rà soát, kiện toàn lực lượng dân quân tự vệ theo biên chế mới và theo phương châm "Vững mạnh, rộng khắp", chất lượng chính trị ngày càng được nâng lên. Đến năm 2008, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ đã đạt 22,7%; 80% các đồng chí Xã đội trưởng, Thị đội trưởng là cấp ủy viên địa phương, có 18/22 xã, thị trấn có cán bộ quân sự được đào tạo cơ bản. Công tác động viên có nhiều chuyển biến tốt, nhận thức trách nhiệm trong nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên ngày càng đi sâu vào nền nếp, hiệu quả. Từ năm 2005 đến năm 2008 có 100% đơn vị dân quân tự vệ, dự bị động viên luôn hoàn thành chương trình, thời gian, huấn luyện đạt chất lượng tốt, quân số tham gia trên 98%, kiểm tra có 100% đạt yêu cầu, tỷ lệ khá giỏi trên 75%. Đã có 9 đơn vị trung đội, 2 đơn vị dự bị động viên cấp đại đội huấn luyện giỏi. Cán bộ, nhân viên Ban chỉ huy quân sự huyện có nhiều đồng chí đạt thành tích cao trong huấn luyện và hội thao. Năm 2008, đồng chí Nguyễn Văn Minh được cấp trên bổ nhiệm làm Chỉ huy phó động viên thay đồng chí Trần Văn Nhỏ.
Công tác hậu cần tài chính cũng được chú trọng, tiếp tục thực hiện phong trào "Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy", lực lượng vũ trang Hương Khê ra sức phát huy tinh thần tự lực, tự cường, chủ động khắc phục khó khăn bảo đảm tốt lượng vật chất cho yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn và nâng cao đời sống bộ đội. Đến cuối năm 2008, cơ bản tự túc được rau sạch, muối nén, trong năm thu hoạch trên 300kg thịt các loại. Hàng năm mua sắm doanh cụ, sửa chữa nâng cấp doanh trại với số tiền trên 100 triệu đồng. Năm 2008 hoàn chỉnh đưa vào sử dụng nhà ở 2 tầng cho bộ đội.
Những kết quả đạt được trong thực hiện nhiệm vụ chính trị 2005 - 2008 của lực lượng vũ trang nhân dân huyện là hết sức quan trọng, tuy nhiên vẫn tòn tại một số khuyết điểm đó là: Việc nắm tình hình địa bàn, đặc biệt là ở vùng trọng điểm chưa thực sự chú trọng. Nên việc đề xuất các biện pháp để ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo còn hạn chế. Công tác xây dựng khu vực phòng thủ huyện có nhiều nôi dung chưa được đầu tư như xây dựng khu căn cứ chiến đấu. Chất lượng xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu ở một số địa phương chưa đạt độ vững chắc, còn tiềm ẩn yếu tố bất ngờ, khả năng loại trừ yếu tố bất ngờ càng khó khăn, nhất là các tình huống cứu hộ, cứu nạn, gây rối vào ban đêm...
Trên cơ sở những đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2005 - 2008, Đại hội đã đề ra 6 nhiệm vụ, mục tiêu tập trung lãnh đạo năm 2009 - 2010, với trọng tâm là: Tiếp tục quán triệt sâu sắc, tổ chức thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết Đại hội Đảng về nhiệm vụ Quân sự - Quốc phòng. Chủ động nhạy bén, bám sát nhiệm vụ và sự phát triển của tình hình, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân huyện luôn kiên định vững vàng về chính trị, có trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động đối phó và làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch. Phấn đấu đến cuối năm 2010 có 80 - 85% cơ sở vững mạnh toàn diện, không có cơ sở yếu kém, không để xẩy ra điểm nóng. Hoàn chỉnh thủ tục khu đất căn cứ chiến đấu, xây dựng được 1 đến 2 công trình trong khu căn cứ... Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện. Kiên quyết khắc phục khâu yếu, mặt yếu, trong đó tập trung làm chuyển biến tình hình cơ sở, chất lượng huấn luyện tại chức; chất lượng xây dựng chính quy. Hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cấp trên giao, với trọng tâm tập trung xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu, bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng, động viên tuyển quân...
Triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp, đặc biệt là Nghị quyết của Đảng bộ quân sự huyện, Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện tích cực chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh dạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân tạo chuyển biến tốt. Đảng bộ, lực lượng vũ trang huyện luôn quán triệt, nắm vững quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới". Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm chỉ thị sẵn sàng chiến đấu. Bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống kế hoạch A, A2, A3, kế hoạch phòng tránh sơ tán, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt giảm nhẹ thiên tai từ huyện đến các xã, thị trấn, đơn vị tự vệ, đồng thời tổ chức luyện tập, diễn tập theo phương án. Từ tháng 7 năn 2006 đến năm 2010 đã tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện, diễn tập chiến đấu trị an kết hợp với phòng chống bão lụt, cháy rừng cho 22 xã, thị trấn đạt kết quả tốt. Tổ chức huấn luyện cho lực lượng dân quân tự vệ quân số đạt 90%, dự bị động viên đạt 95%. Từ năm 2005 đến năm 2009 đã huy động 5 lượt đại đội tham gia huấn luyện và diễn tập đạt kết quả cao. Qua các đợt kiểm tra của quân khu, của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và các ngành chuyên môn, lực lượng vũ trang Hương Khê luôn được đánh giá là đơn vị bảo đảm quân số, thời gian, nội dung huấn luyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Công tác tuyển và giao quân cũng được lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức chặt chẽ, luôn bảo đảm đủ chỉ tiêu, chất lượng ngày càng cao, từ năm 2005 đến năm 2010, Hương Khê đã tổ chức bàn giao 610 thanh niên lên đường nhập ngũ bổ sung cho các đơn vị, được Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và tỉnh Hà Tĩnh tặng Bằng khen. Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố theo hướng nâng cao chất lượng, đạt tỷ lệ 1,7% dân số, tỷ lệ đảng viên đạt 21,5%, tỷ lệ bộ đội phục viên xuất ngũ 20%. Các trung đội cơ động được biên chế phù hợp với địa bàn, gọn, huy động nhanh. Lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn 4 xã biên giới luôn được tập trung xây dựng. Duy trì hoạt động mạng lưới phòng không, quân báo nhân dân chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên sẵn sàng cơ động khi có tình huống. Tỷ lệ dân quân tự vệ tham gia huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị đạt 96%, dự bị động viên đạt 99%. Ban chỉ huy quân sự các xã, thị trấn, cơ quan tự vệ thường xuyên được củng cố cả số lượng và chất lượng. Các đồng chí chỉ huy trưởng quân sự xã, thị trấn, tự vệ trưởng đều tham gia vào cấp ủy. Đến năm 2010, tất cả các đồng chí xã đội trưởng (22/22 xã, thị) đều được đào tạo tại trường quân sự tỉnh; các thôn, xóm đều bố trí thôn đội trưởng kiêm chức. Chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên ngày một nâng lên, kết quả kiểm tra 100% đạt yêu cầu, có 75% khá giỏi.
Ngày....... tháng 5 năm 2010, Đảng bộ quân sự huyện Hương Khê tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đại hội đã tập trung đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2010 - 2015, đánh giá chung: "Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ quân sự huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang huyện nhà vững mạnh về mọi mặt, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao, hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân sự huyện đề ra. Tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, phát huy vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ Quân sự - Quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng cơ sở cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu. Tích cực chủ động phối hợp giải quyết tốt các vấn đề nẩy sinh ở cơ sở, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện nhà phát triển."[31]
Để lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự - quốc phòng và công tác xây Đảng trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Nghị quyết Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu, trọng tâm: Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang, củng cố xây dựng khu vực phòng thủ huyện vững chắc. Tổ chức chỉ đạo diễn tập chiến đấu trị an, gắn với phòng chống bão lụt, cứu hộ cứu nạn, phòng chống cháy rừng cho các xã, thị trấn. Đồng thời tham mưu và tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện, góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện nhà ngày càng phát triển. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, cả hệ thống chính trị tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc. Hàng năm đầu tư ngân sách xã hội xây dựng khu căn cứ chiến đấu từ 100 - 150 triệu đồng. Đề nghị trên đầu tư ngân sách xây dựng thao trường huấn luyện khoảng 200 - 300 triệu đồng. Tiến hành xin dự án xây dựng kho quân khí đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý vũ khí trang bị sẵn sàng chiến đấu. Hoàn thành chỉ tiêu giao quân, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng, huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên đạt yêu cầu 100%, trong đó có 76% khá giỏi... Tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, 4/4 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, làm tốt công tác chính sách hậu phương quân đội.
Trong năm 2010, cán bộ chủ trì cơ quan quân sự huyện tiếp tục có sự thay đổi lớn, đồng chí Chỉ huy trưởng Mai văn Tuấn và đồng chí Chính trị viên Thái Bá Đức, được trên cho nghỉ hưu theo chế độ. Đồng chí Thái Công Anh được điều động và bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Hồ Sỹ Hà bổ nhiệm làm Chính trị viên. Đồng chí Nguyễn Huy Hoàng-  phó Chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Quốc Tuấn - Chính trị viên phó kiêm Chủ nhiệm chính trị. Đến tháng 1 năm 2012, đồng chí Nguyễn Quốc Tuấn được điều động nhận nhiệm vụ mới ở quân khu, cấp trên bổ nhiệm đồng chí Trần Quốc Đạt làm Chính trị viên phó kiêm Chủ nhiệm chính trị thay đồng chí Nguyễn Quốc Tuấn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, ủy ban nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê đã lập được nhiều thành tích, giành được nhiều phần thưởng cao quý: Cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang huyện được phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân"; cùng 14 xã: Gia Phố, Hà Linh, Hòa Hải, Hương Bình, Hương Đô, Hương Long, Hương Thủy, Hương Trà, Hương Trạch, Hương Vĩnh, Hương Xuân, Lộc Yên, Phúc Đồng, Phúc Trạch. Trong đó có xã Gia Phố được phong tặng 2 lần Anh hùng (Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng thời kỳ đổi mới). Toàn huyện có 4 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 53 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. (Phần này còn thiếu số liệu thống kê các loại huân, huy chương).
Tự hào với truyền thống 65 năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê đang ra sức cùng toàn Đảng, chính quyền và nhân dân trong huyện phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân sự huyện nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã đề ra, xứng đáng là lực lượng tin cậy của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Hương Khê.

Kết luận
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng cộng sản Việt nam ra đời đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua muôn ghềnh thác đến bờ bến vinh quang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Giữa năm 1930, Đảng bộ Hương Khê đã được hình thành với 10 chi bộ và gần 100 đảng viên, Đảng bộ Hương Khê ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của địa phương. Từ đây, Ban cấp hành Đảng bộ huyện sẽ trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng của huyện nhà. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, ủy ban kháng chiến cách mạng lâm thời, lực lượng du kích, tự vệ huyện Hương Khê phát triển nhanh chóng. Chiều ngày 19 tháng 8 năm 1945, nhân dân toàn huyện với gậy gộc, giáo mác cùng các đội viên du kích, tự vệ rầm rộ tiến thẳng vào huyện đường, buộc tri huyện Hương Khê giao nộp đầy đủ sổ sách, con dấu, súng đạn, tài sản của huyện đường cho ủy ban khởi nghĩa. Cách mạng thàng Tám thành công, lực lượng du kích, tự vệ tiếp tục cùng Đảng bộ và chính quyền, nhân dân tích cực tham gia các phong trào "Diệt giặc đói", "Diệt giặc dốt", "Diệt giặc ngoại xâm", ra sức bảo vệ chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân.
Để tập trung xây dựng và phát triển, đồng thời tăng cường sức mạnh của lực lượng vũ trang tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến, tháng 3 năm 1947, Huyện đội Hương Khê được thành lập. Sự ra đời của cơ quan Huyện đội có ý nghĩa hết sức quan trọng với quá trình phát triển và trưởng thành của lực lượng vũ trang địa phương. Ra đời trong khói lửa chiến tranh ác liệt, lực lượng vũ trang Hương Khê dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ, chính quyền địa phương đã góp phần quan trọng, cùng với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của tỉnh, của cả nước dũng cảm, ngoan cường bảo vệ vững chắc hậu phương kháng chiến. Đồng thời tích cực tham gia xây dựng lực lượng chủ lực phục vụ tiền tuyến, góp phần cùng quân dân cả nước giành chiến thắng Lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong 9 năm trường kỳ kháng chiến, Hương Khê là huyện thuộc vùng tự do, là huyện hậu phương của cuộc kháng chiến - Do vị trí địa lý của mình, Hương Khê đã trở thành một hậu phương có tiềm lực khá về mọi mặt, là một an toàn khu vững chắc của tỉnh Hà Tĩnh và Liên khu 4, một địa bàn đứng chân quan trọng của lực lượng vũ trang và cơ quan các tỉnh bạn, của cuộc kháng chiến nước bạn Lào anh em. Đảng bộ, quân và dân Hương Khê tự hào và phấn khởi đã đóng góp phần xương máu, vật chất và tinh thần cho thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Sau ngày hòa bình lập lại (1954), nhân dân và lực lượng vũ trang Hương Khê cùng quân và dân cả nước bước vào thời kỳ mới của cách mạng, tiếp tục đấu tranh chống lại những âm mưu mới của kẻ thù, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, bảo vệ và xây dựng quê hương, tạo ra thế và lực mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc. Kể từ sau khi Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên phạm vi cả nước, Hương Khê đã trở thanh nơi đóng quân của nhiều đơn vị, cơ quan, bệnh viện, kho tàng của quân đội. Là nơi trung chuyển bộ đội, vũ khí, lương thực, thực phẩm của hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam và sang nước bạn Lào.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, huyện Hương Khê cùng với các địa phương khác thuộc Quân khu 4 vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương, đế quốc Mỹ đã nhiều lần tung gián điệp, biệt kích phá hoại nội địa, sử dụng trên 4 vạn lần chiếc máy bay ném xuống đất Hà Tĩnh gần 200.000 tấn bom đạn các loại. Nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, thấm nhuần chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, quân và dân Hương Khê vượt lên mọi khó khăn gian khổ ác liệt và hy sinh, kiên cường chiến đấu, phối hợp với các lực lượng phòng không bắn rơi 46 máy bay Mỹ tại địa bàn, trong đó lực lượng dân quân tự vệ Hương Khê độc lập bắn rơi 9 chiếc, bắt sống 11 giặc lái. Hình ảnh "O du kích nhỏ giương cao súng; thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu", mãi mãi là niềm tự hào của quân dân Hương Khê và của cả dân tộc Việt Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đảng bộ, quân và dân Hương Khê tự hào là nơi đã bắn rơi chiếc máy bay trực thăng hiện đại, bắn rơi máy bay "cánh cụp, cánh xòe" F11 của Mỹ đầu tiên trên miền Bắc, nơi chỉ bằng 2 viên đạn súng bộ binh đã hạ gục 1 máy bay Mỹ, nơi lập kỷ lục ở miền Bắc bắt sống 6 giặc lái máy bay trong một trận chiến đấu. Tiêu biểu cho cuộc chiến đấu anh dũng của Hương Khê là các tập thể anh hùng dân quân tự vệ các xã: Hương Trạch, Phúc Trạch, Lộc Yên, Gia Phố, Hương Thủy, Hương Đô, Hương Long, Hà Linh, Phú Phong, Phúc Đồng cùng các đơn vị Nông trường 20-4, Đồn biên phòng 571, tự vệ và công nhân đường goòng... Các cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Võ Hồng Tuyên, Hán Duy Long, Hồ Đức Tự, Phan Châu Mỹ, Nguyễn Văn Đường và 53 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, Hương Khê không chỉ làm tròn nhiệm vụ hậu phương, căn cứ địa của tỉnh và Quân khu 4, mà còn làm tốt nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hương Khê đã có 6.550 thanh niên lên đường nhập ngũ, 9.786 người đi thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến dài ngày, trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường; huy động gần 3 triệu công của dân công trung, hỏa tuyến. Điều động công nghĩa vụ làm được 198.000m3 đất, 756m3 đá; đóng nộp hơn 31.000 cây tre làm cọc chống lầy. Trong số con em yêu quý của Hương Khê đi bộ đội, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến, trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường, đã có 1.734 đồng chí anh dũng hy sinh, 1.060 thương binh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, độc lập thống nhất, cả nước bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn 35 năm qua, lực lượng vũ trang và nhân dân Hương Khê phát huy truyền thống Anh hùng trong kháng chiến, tập trung khắc phục mọi khó khăn, củng cố và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên chất lượng ngày càng cao, luôn sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Lực lượng vũ trang nhân dân huyện đồng thời còn chủ động làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương về công tác quân sự quốc phòng, phối hợp với toàn dân xây dựng khu vực phòng thủ huyện vững chắc, xây dựng cơ sở cụm an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, tham gia giải quyết tốt những tồn đọng sau chiến tranh.
Hương Khê là huyện có đường biên giới chung với nước bạn Lào tương đối dài (80,5km gồm các xã biên giới Hòa Hải, Phú Gia, Hương Vĩnh, Hương Lâm). Công tác quản lý và thực hiện các quy chế biên giới, trật tự an toàn tuyến biên giới đòi hỏi sự công phu, cẩn mật, phải nhiều người tham gia. Việc kết hợp giữa quân sự với kinh tế, quốc phòng với dân sinh, giúp cho đồng bào các xã biên giới ổn định cuộc sống, xây dựng môi trường văn hóa là một công việc không đơn giản, nhất là đối với đồng bào dân tộc ít người sống du cư sát đường biên... Chính vì vậy mà trong suốt 65 năm qua, nhiệm vụ an ninh quốc phòng gắn với phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội luôn luôn được chú trọng. Thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ xã, chất lượng dân quân tự vệ luôn được ổn định. Đặc biệt trong những năm gần đây, lực lượng dân quân tự vệ các xã biên giới luôn được xây dựng đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, thường xuyên bảo đảm được 525 đồng chí. Các trung đội cơ động được biên chế phù hợp với từng địa bàn, gọn, huy động nhanh... Đến năm 2010, toàn huyện có ...... đơn vị dân quân tự vệ, với ........ người, chiếm 1,7% so với dân số; tỷ lệ đảng viên đạt 21,5%. Lực lượng vũ trang huyện đã phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng cơ sở cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đội ngũ cán bộ đảng viên lực lượng vũ trang huyện ngày càng được tôi luyện và trưởng thành về mọi mặt, công tác xây dựng Đảng luôn được coi trọng đúng mức. Đảng bộ quân sự huyện liên tục đạt trong sạch vững mạnh, các tổ chức chỉ huy từ cơ quan quân sự huyện đến Ban chỉ huy quân sự các xã, thị trấn, đơn vị tự vệ thường xuyên được củng cố kiện toàn, nội bộ luôn đoàn kết thống nhất cao, luôn hoàn thành xuát sắc các nhiệm vụ được giao. Trong suốt quá trình hình thành, phát triển và trưởng thành, lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê, mà nòng cốt là cơ quan quân sự huyện dưới sự lãnh đạo của Đảng đã để lại những bài học kinh nghiệm quý sau đây:
1. Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng, mà trực tiếp là Đảng bộ huyện Hương Khê, là nhân tố quyết định quá trình phát triển và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân huyện.
Thực tế trong 30 năm kháng chiến cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ địa phương là hết sức quan trọng. Đảng bộ địa phương đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo, linh hoạt những chủ trương đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Từ đó kịp thời đề ra những chủ trương sát đúng lãnh đạo lực lượng vũ trang địa phương từng bước tiến lên, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hy sinh liên tiếp giành thắng lợi.
Từ chi bộ Đảng quân sự đầu tiên sau ngày Huyện đội ra đời phát triển thành Đảng bộ quân sự sau này, Đảng ủy quân sự huyện luôn luôn quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, nhận rõ đặc điểm tình hình của địa phương trong từng giai đoạn cách mạng, từ đó vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2. Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân huyện thực sự vững mạnh cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện bảo đảm luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Xuất phát từ thực tiễn chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của lực lượng vũ trang, từ vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi, nên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, tổ chức cơ sở Đảng trong lực lượng vũ trang huyện luôn được Đảng bộ chăm lo xây dựng vững mạnh toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của lực lượng vũ trang địa phương.
Trong những năm chiến tranh ác liệt, lực lượng vũ trang huyện Hương Khê thực sự là lực lượng nòng cốt trong phục vụ chiến đấu, chiến đấu bảo vệ địa bàn và chi viện cho tiền tuyến lớn. Đặc biệt trong chiến đấu, lực lượng vũ trang huyện đã lập nên những thành tích đặc biệt xuất sắc. Trước khi cách mạng tháng Tám thành công (ngày 15 tháng 8 năm 1945) du kích huyện đã tổ chức trận phục kích điển hình đánh đoàn tàu hỏa của địch tại khu vực Chín Khúc Hội Nai (Cửa Rào) gây cho địch nhiều thiệt hại. Cuối năm 1945, lực lượng vũ trang Hương Khê cùng lực lượng vũ trang cách mạng Lào tổ chức đánh địch trên đường hành quân từ Nhom Ma Rát đến Na Pê. Trận vây bắt biệt kích ngày 10 đến ngày 11 tháng 6 năm 1963 ở vùng núi sông Tiêm. Đặc biệt là trận vây bắt giặc lái và bắn rơi máy bay đến ứng cứu trong ngày 20 tháng 9 năm 1965. Trong chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, lực lượng dân quân tự vệ đã độc lập bắn rơi 9 máy bay giặc Mỹ... Đây là những thành tích đặc biệt điển hình rất đáng tự hào của quân và dân Hương Khê.
3. Trong xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phải luôn luôn biết dựa vào dân, tin dân, làm cho mối quan hệ đoàn kết quân dân ngày càng bền chặt.
Sự phát triển và trưởng thành của lực lượng vũ trang nói chung, của lực lượng vũ trang nhân dân Hương Khê nói riêng luôn gắn với sự giúp đỡ của nhân dân. Nhân dân đã hết lòng che chở, nuôi dưỡng lực lượng vũ trang trong kháng chiến cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trải qua 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, mỗi cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang nhân dân huyện đều nhận thức sâu sắc rằng mình từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, thường xuyên quan tâm xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, thực hiện "Quân với dân một ý chí".
Để xây dựng được mối quan hệ máu thịt với nhân dân, lực lượng vũ trang Hương Khê luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo linh hoạt quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng, cũng như quan điểm xây dựng hậu phương kháng chiến trước đây và xây dựng khu vực phòng thủ huyện hiện nay. Để từ đó thường xuyên chăm lo xây dựng đạo đức, ý chí cách mạng cho lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân, coi trọng xây dựng "thế trận lòng dân" là cơ sở để củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân huyện ngày một vững mạnh toàn diện, đủ sức hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
4. Do vị trí chiến lược của địa bàn, nên trong lịch sử dựng nước và giữ nước trước đây cũng như trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, ngoài nhiệm vụ là hậu phương, Hương Khê luôn được chọn làm căn cứ địa. Bởi vậy phải thực sự thường xuyên chăm lo xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, đặc biệt là xây dựng các công trình chiến đấu ngay từ thời bình.
Để bảo vệ vững chắc địa bàn chiến lược, căn cứ địa của tỉnh Hà Tĩnh và Quân khu 4, Đảng bộ, quân và dân Hương Khê đã và đang tiếp tục nhận rõ vị thế của mình, tập trung xây dựng và phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh. Ra sức xây dựng và bảo vệ tiềm lực mọi mặt, huy động đi đôi với bồi dưỡng sức dân. Đồng thời thường xuyên giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng, truyền thống lịch sử của quê hương cho toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ vươn lên trong lao động sản xuất, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
65 năm một chặng đường lịch sử, lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê luôn phát huy và kế thừa truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc, truyền thống vẻ vang của quê hương căn cứ địa Phan Đình Phùng. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu ngày càng lớn hơn đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trên chặng đường mới xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại. Cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang Hương Khê vừa ra sức huấn luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa tích cực lao động sản xuất tham gia xây dựng và phát triển kinh tế, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
















Phụ lục

Thành tích trong chiến đấu

  Trong  hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, lực lượng vũ trang Hương Khê đã tham gia phối hợp và độc lập đánh hàng trăm trận. Trong đó có những trận điển hình như:
  - Trận phục kích đoàn tàu hỏa của địch tại khu vực chín khúc Hội Nai (Cửa Rào) ngày 15 tháng 8 năm 1945.
  - Trận phối hợp cùng lực lượng cách mạng Lào đánh quân địch đang trên đường di chuyển từ Nhom Ma Rát đến Na Pê (tháng 12 năm 1945).
  - Trận vây bắt biệt kích nhảy dù ngày 10 đến ngày 11 tháng 6 năm 1963 ở vùng núi sông Tiêm gần Lâm trường Đội Núng.
  - Trận vây bắt giặc lái máy bay và bắn rơi máy bay đến ứng cứu giặc lái, ngày 20 tháng 9 năm 1965.
(chưa bổ sung hết)
  Chỉ tính riêng trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ (1965 - 1972), quân và dân Hương Khê vừa phối hợp chiến đấu với các lực lượng phòng không và độc lập chiến đấu bắn rơi 46 máy bay tại địa bàn, trong đó dân quân tự vệ Hương Khê độc lập bắn rơi 9 máy bay.


Tổng số thương binh, liệt sỹ

                                  Tổng: 3.777 người
 Trong đó:  - Thương binh: 1.968 người
          - Liệt sỹ: 1.809 người


Phần thưởng cao quý

  * Tập thể: (Các loại Huân, Huy chương);
  * Cá nhân: (Thống kê các loại Huân, Huy chương).
 

           
Danh sách đơn vị và cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương khê

I. Đơn vị Anh hùng.

  1. Nhân dân và lực lượng vũ trang huyện Hương Khê.
  2. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Trạch.
  3. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Thủy.
  4. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phúc Trạch.
  5. Nhân dân và lực lượng vũ trang Thị trấn Nông trường 20-4.
  6. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Gia Phố.
  7. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hà Linh.
  8. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Long.
  9. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Đô.
 10. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Lộc Yên. 
 11. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phú Phong.
 12. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phúc Đồng.
 13. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hòa Hải.
 14. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Bình.
 15. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Trà
(Khi phong tặng Anh hùng xã Hương Trà đang thuộc thị trấn Nông trường 20-4).
 16. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Vĩnh.
 17. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Hương Xuân.
(Trong tổng số 17 xã Anh hùng có xã Gia Phố là đơn vị 2 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng : Anh hùng lực lượng vũ trang và Anh hùng thời kỳ đổi mới).

II. Cá nhân Anh hùng
* Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
1. Anh hùng Võ Hồng Tuyên (tức Võ Lê)
 Anh hùng Võ Hồng Tuyên sinh năm 1941, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, dân tộc Kinh. Quê quán: xã Hương Mai, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Nhập ngũ tháng 4 năm 1959. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Chuẩn úy trinh sát thuộc Đại đội 2 công an nhân dân vũ trang Hà Tĩnh.
Thực hiện chủ trương của hai Đảng, hai Nhà nước về phối hợp với lực lượng an ninh bạn Lào cùng giữ gìn trật tự an ninh biên giới giữa hai nước Việt Nam và Lào. Năm 1964, Võ Hồng Tuyên được giao phụ trách 3 xã Na Pê, Nậm Thập, Nậm Veo thuộc huyện 90, tỉnh Khăm Muộn. Vùng này của Bạn tuy đã được giải phóng từ năm 1962 nhưng chưa có điều kiện củng cố, xây dựng nên tình hình trật tự trị an còn phức tạp, số ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động ở rải rác khắp 47 bản. Chính quyền cách mạng mới có ở 19 bản, còn phần lớn do bọn phó bản cũ trước đây nắm. Nhân dân sống rất khổ cực, thường xuyên bị Phỉ khống chế. Trước những khó khăn nguy hiểm đó, đồng chí Tuyên phải ăn ngủ ngoài rừng tìm mọi cách tiếp xúc với nhân dân để tuyên truyền, giáo dục nhân dân tin tưởng vào cách mạng, giúp đỡ cán bộ địa phương hoạt động. Đồng chí luôn xem nhân dân các dân tộc Lào như người ruột thịt của mình, từ đó luôn nhường cơm sẻ áo cho những gia đình khó khăn, nhất là các cụ già, em nhỏ và gia đình nghèo khổ. Đồng chí cùng với đội trinh sát đồn Biên phòng 93 và cán bộ của Bạn vận động nhân dân chuyển hướng canh tác, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, làm cho cán bộ và nhân dân bạn rất tin tưởng và yêu mến đồng chí.
Cùng với cán bộ bạn Lào, từ năm 1967 đến năm 1968, Võ Hồng Tuyên vận động được 8 người theo Phỉ trở về làm ăn lương thiện, thuyết phục được 25 người khác trở về với gia đình. Đồng chí tham gia xây dựng và củng cố chính quyền, các đoàn thể, tổ chức cách mạng ở 3 xã và đến năm 1969 đã có 100% số xã có chính quyền vững mạnh, nhiều xã có phong trào bảo vệ trật tự trị an khá.
Năm 1965, một tên Phỉ nguy hiểm trốn trại và âm mưu đưa đồng bọn về tập kích trại giam do Bạn phụ trách. Biết được tin, Võ Hồng Tuyên bố trí cơ sở bí mật và chỉ đạo bắt được tên Phỉ này, từ đó Bạn lại càng thêm tin tưởng đối với cán bộ Việt Nam. Tháng 2 năm 1967, ngụy quyền Sài Gòn cho một toán gián điệp, biệt kích nhảy dù xuống vùng Phôn-xa-vang. Phát hiện địch, đồng chí báo cáo lên cấp trên, đồng thời cùng với một người dân và một dân quân bạn tổ chức truy lùng. Lực lượng địch khá mạnh nhưng Võ Hồng Tuyên khôn khéo nghi binh, chỉ huy tổ bắt được 4 tên (trong đó có 1 toán phó), thu vũ khí, điện đài và tài liệu quan trọng, tạo điều kiện cho đơn vị bạn tiêu diệt toàn bộ toán biệt kích đó.
Tháng 8 năm 1967, một toán gián điệp biệt kích người Lào xâm nhập vùng Na Pê. Đồn 93 truy lùng và tiêu diệt 2 tên, số còn lại chạy toán loạn vào rừng, ta truy lùng nhiều ngày đêm nhưng chưa thấy. Đồng chí bình tĩnh phán đoán địa điểm tập trung của chúng. Được cấp trên chuẩn y kế hoạch, đồng chí triển khai lực lượng, kết hợp chặt chẽ với Bạn truy lùng, bắt 10 tên mà vẫn giữ được bí mật cho cơ sở.
Với những thành tích đạt được đồng chí đã được khen thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì, 6 năm liên tục (1964 - 1969) là Chiến sỹ Thi đua, Chiến sỹ Quyết thắng, được tặng nhiều Bằng khen và Giấy khen.
Ngày 25 tháng 8 năm 1970, đồng chí Võ Hồng Tuyên vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
2. Anh hùng Hán Duy Long
Anh hùng Hán Duy Long sinh năm 1953, dân tộc Kinh. Quê quán: xã Hương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Nhập ngũ tháng 1 năm 1971. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Thượng úy, Trung đội trưởng, Đại đội 9 bộ binh, Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương tỉnh Quảng trị, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1971 đến năm 1973, Hán Duy Long chiến đấu ở Quảng Trị, đồng chí luôn luôn hăng hái dũng cảm dẫn đầu trong các trận đánh, năm lần bị thương vẫn không rời vị trí chỉ huy. Hai lần bị thương nặng, tuy vết thương chưa lành hẳn, Hán Duy Long vẫn xin trở lại đơn vị để tiếp tục chiến đấu.
Đồng chí cùng đồng đội diệt hàng trăm tên địch. Riêng Hán Duy Long diệt 90 tên, thu 1 máy thông tin và 8 khẩu súng các loại. Trong nhiều trận tham gia chiến đấu, điển hình là trận đánh điểm cao 30 (tây thị trấn Đông Hà) ngày 27 tháng 4 năm 1972, địch bắn mạnh, đơn vị không lên được, Hán Duy Long đã lợi dụng địa hình, dùng trung liên bắn thu hút hỏa lực địch về phía mình, tạo thuận lợi cho đồng đội xông lên đánh chiếm hoàn toàn điểm cao. Trận này, đồng chí diệt 15 tên, thu 1 súng.
Từ ngày 6 tháng 7 đến ngày 25 tháng 8 năm 1972, ở Quảng Trị, Hán Duy Long đã chiến đấu liên tục, bền bỉ, mưu trí, táo bạo, lập được nhiều chiến công. Có lúc trung đội chỉ còn 5 tay súng nhưng đồng chí vẫn động viên anh em giữ vững trận địa, bảo vệ thương binh. Lợi dụng đêm tối, Hán Duy Long nhiều lần dẫn tổ bất ngờ tiến công địch ở ngoài khu vực chốt, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Có trường hợp hết đạn, đồng chí bí mật vận động ra khỏi công sự, lấy súng đạn của những tên địch chết, mang về phân phát cho anh em. Trong 49 ngày liên tục chiến đấu, Hán Duy Long đã bị thương 4 lần nhưng vẫn không rời vị trí, tiếp tục chỉ huy đơn vị diệt gần 200 tên địch. riêng đồng chí diệt 38 tên, thu 4 súng các loại. Trong suốt những năm tháng chiến tranh ác liệt, bên cạnh nhiệm vụ chiến đấu, Hán Duy Long luôn luôn chăm lo đến sự tiến bộ của đơn vị. Trung đội của đồng chí phụ trách luôn dẫn đầu mọi mặt trong tiểu đoàn.
Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 4 lần là Dũng sỹ diệt Mỹ và được tặng 4 Bằng khen.
Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Hán Duy Long vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
3. Anh hùng Hồ Đức Tự
Anh hùng Hồ Đức Tự sinh năm 1948, dân tộc Kinh. Quê quán: xã Hương Mỹ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; Nhập ngũ tháng 12 năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Thượng sỹ, Trung đội phó thông tin, Đại đội 5, Tiểu đoàn 133, Trung đoàn 596, Bộ Tư lệnh 559, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1964 đến năm 1967, Hồ Đức Tự phụ trách một trạm thông tin đường dây ở khu vực nam đường số 9. Máy bay địch thường xuyên đánh phá nơi đây ác liệt. Nhiều ngày chúng đánh từ 10 - 15 lần cả ban ngày lẫn ban đêm do đó đường dây bị đứt nhiều đoạn. Trong tình huống khó khăn, nguy hiểm Hồ Đức Tự đã quyết tâm bám tuyến, hễ dây bị đứt là đi nối ngay. Có lần bị sức ép nặng bởi bom của địch, đồng chí vẫn cố gắng đi băng bó cho những thương binh khác xong lại tiếp tục làm nhiệm vụ. Hồ Đức Tự còn đi nhặt từng đoạn dây bị địch đánh đứt chắp nối lại để dùng, bảo đảm tiết kiệm được vật tư bảo đảm chiến đấu. Trên tuyến đường này Hồ Đức Tự đã có đến một trăm lần kịp thời nối lại đường dây bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt.
Hơn 6 năm làm nhiệm vụ ở nơi có bom đạn ác liệt, Hồ Đức Tự luôn nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng chí còn động viên anh em tích cực tăng gia sản xuất, tự túc phần lớn rau, thịt bảo đảm cho trạm.
Đồng chí được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công hạng Ba, 4 lần là Chiến sỹ Quyết thắng, được tặng thưởng 9 Bằng khen và Giấy khen.
Ngày 3 tháng 6 năm 1976, đồng chí Hồ Đức Tự được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
4. Anh hùng Phan Châu Mỹ
Anh hùng Phan Châu Mỹ sinh năm 1945, dân tộc Kinh. Quê quán: xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; Nhập ngũ tháng 2 năm 1964.
Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Thượng úy, chính trị viên Tiểu đoàn 7 bộ binh, Trung đoàn 29, Đoàn 565, Bộ Tư lệnh 559, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Phan Châu Mỹ liên tục chiến đấu  ở chiến trường từ năm 1964 đến năm 1975, đồng chí đã tham gia 72 trận đánh, góp phần tích cực chỉ huy đơn vị diệt hơn 1.000 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, riêng đồng chí Phan Châu Mỹ diệt 31 tên địch, phá hủy 1 khẩu ĐKZ.
Tháng 12 năm 1968, trong trận đánh Ma-Pô-Vát do địa hình lầy lội không có nơi đặt súng đồng chí đã làm giá súng đại liên cho đồng đội diệt 2 hỏa điểm tạo điều kiện cho đơn vị xông lên diệt gọn một đại đội địch.
Trong trận đánh Bà Tông tháng 03 năm 1970, tuy địch đông gấp nhiều lần (2 tiểu đoàn) Phan Châu Mỹ vẫn kiên quyết chỉ huy đơn vị tiến công mãnh liệt vào đội hình địch diệt 116 tên, phá huy 1 khẩu ĐKZ. Trận đánh đã phá vỡ cuộc càn của địch vào vùng giải phóng của bạn Lào.
Tháng 12 năm 1968, Phan Châu Mỹ chỉ huy đơn vị tham gia chiến dịch Pô-Lô-Ven mặc dù số quân ít, lương thực, đạn dược thiếu thốn nhưng đồng chí đã động viên anh em đánh nhiều trận xuất sắc, riêng Phan Châu Mỹ đã dẫn đầu đại đội tập kích tiêu diệt gọn 1 đại đội địch trong trận đánh then chốt quyết định của chiến dịch tạo điều kiện cho toàn đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tháng 11 năm 1971, 2 tiểu đoàn địch phản kích vào Lao-Ngam hòng chiếm lại khu vực Keng Nhao, Phan Châu Mỹ trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn tiến công quyết liệt diệt gần 100 tên địch, giữ vững khu vực được giao.
Phan Châu Mỹ được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng Ba, được tặng thưởng 17 Bằng khen, Giấy khen các loại, 4 lần được bầu là Chiến sỹ Quyết thắng.
Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Phan Châu Mỹ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


































Danh sách Bà mẹ Việt Nam Anh hùng huyện hương khê
          Tính đến tháng 9 năm 2003, huyện Hương Khê có 53 Bà mẹ được Nhà nước vinh dự phong tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.

TT
Họ và Tên
Năm sinh
Quê quán
1
Trần Thị Yên
1924
Xã Hương Giang
2
Phan Thị Khay
1909
Xã Phúc Đồng
3
Nguyễn Thị Nữ
1934
Xã Hà Linh
4
Nguyễn Thị Tùy
1913
Xã Phúc Đồng
5
Dương Thị Hạnh
1906
Xã Hương Bình
6
Nguyễn Thị Oánh
1920
Xã Hương Xuân
7
Nguyễn Thị Ngân
1920
Xã Hương Giang
8
Nguyễn Thị Thành
1912
Xã Hương Liên
9
Nguyễn Thị Hương
1865
Xã Hà Linh
10
Phan Thị Đích
1867
Xã Hà Linh
11
Nguyễn Thị Quế
1902
Thị trấn Hương Khê
12
Đinh Thị Ưu
1918
Xã Lộc Yên
13
Lê Thị Viêm
1918
Xã Hương Xuân
14
Nguyễn Thị Danh
1919
Thị trấn Hương Khê
15
Đặng Thị Đường
1919
Xã Phúc Đồng
16
Phan Thị Lương

Xã Hòa Hải
17
Phạm Thị Oanh
1910
Xã Phúc Trạch
18
Nguyễn Thị Hóa
1908
Xã Phúc Đồng
19
Phan Thị Chín
1910
Xã Phúc Trạch
20
Nguyễn Thị Tùy
1913
Xã Hương Thủy
21
Đoàn Thị Dân
1913
Xã Phúc Trạch
22
Nguyễn Thị Nãi
1920
Xã Hà Linh
23
Nguyễn Thị Lan
1910
Xã Hương Trạch
24
Nguyễn Thị Thành
1920
Xã Hòa Hải
25
Hoàng Thị Thất
1925
Xã Hương Giang
26
Nguyễn Thị Cung
1912
Xã Hương Trạch
27
Nguyễn Thị Nuôi
1910
Xã Hương Bình
28
Bùi Thị Du

Xã Hương Thọ
29
Phan Thị Huệ
1906
Xã Hòa Hải
30
Lê Thị Đáng
1934
Xã Hương Xuân
31
Võ Thị Lương
1908
Xã Phúc Trạch
32
Nguyễn Thị Quế
1904
Xã Hà Linh
33
Đinh Thị Diên
1903
Xã Hương Đô
34
Đoàn Thị Lộc
1919
Xã Hương Long
35
Nguyễn Thị Mai
1914
Xã Lộc Yên
36
Lê Thị Vận
1920
Xã Hương Xuân
37
Phan Thị Ngoan

Xã Phú Gia
38
Nguyễn Thị Khôi
1906
Xã Phúc Đồng
39
Nguyễn Thị Hinh
1903
Xã Hương Thủy
40
Nguyễn Thị Dục
1920
Xã Hương Xuân
41
Đặng Thị Địu
1920
Xã Phương Điền
42
Nguyễn Thị Xuyến
1904
Xã Hương Thủy
43
Nguyễn Thị Em
1915
Xã Hà Linh
44
Ngô Thị Thịnh
1912
Xã Hương Vĩnh
45
Trần Thị Loan
1906
Xã Gia Phố
46
Hoàng Thị Dưỡng

Xã Phúc Đồng
47
Đậu Thị Tư
1905
Xã Phúc Đồng
48
Thái Thị Lương
1910
Xã Phúc Trạch
49
Trần Thị Nhuận
1907
Xã Phúc Đồng
50
Trần Thị Thích

Xã Phúc Đồng
51
Phan Thị Thuần
1918
Xã Hương Bình
52
Nguyễn Thị Điu
1875
Xã Hà Linh
53
Mai Thị Biểu
1900
Xã Hương Đô

Danh sách Chỉ huy trưởng (Huyện đội trưởng)
Ban chỉ huy quân sự huyện qua các thời kỳ
(1947 - 2012)

TT
Họ và tên
Thời gian công tác
Quê quán
1
Dương Đức Cơ
1947
Xã Phúc Trạch, Hương Khê, Hà Tĩnh
2
Trần Khuông
1948

3
Mộng Ân
1948 - 1954
Xã Hương Đô, Hương Khê, Hà Tĩnh
4
Nguyễn Văn Tư
1954 - 1956
Xã Lộc Yên, Hương Khê, Hà Tĩnh
5
Nguyễn Triêm
1956 - 1958
Xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh
6
Trần Xuân Niệm
1958 - 1960
Xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh
7
Hà Văn Kỷ
1961 - 1966
Huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh
8
Lê Văn Vỵ
1966 - 1968
Huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh
9
Hà Văn Kỷ
1968

10
Phan Toản
1968 - 1973
Xã Phú Gia, Hương Khê, Hà Tĩnh
11
Lương Đình Ước
1973 - 1981
Xã Hương Giang, Hương Khê, Hà Tĩnh
12
Trần Văn Yên
1982 - 1993
Xã Phúc Trạch, Hương Khê, Hà Tĩnh
13
Lê Hồng Mão
1993 - 1996
Xã Phúc Trạch, Hương Khê, Hà Tĩnh
14
Trần Đình Lượng
1996 - 2002
Xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh
15
Hồ Thế Thu
2002 - 2005
Huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh
16
Mai Văn Tuấn
2006 - 2010
Xã Hương Long, Hương Khê, Hà Tĩnh
17
Thái Công Anh
2010 …
Xã Sơn Giang, Hương Sơn, Hà Tĩnh

* Ghi chú: Đồng chí Vỵ hy sinh trong vây bắt giặc lái tại Hương Xuân, đồng chí Kỷ được điều lại làm Huyện đội trưởng).




Danh sách
Chính trị viên (Phó chỉ huy trưởng về chính trị)
Ban chỉ huy quân sự huyện qua các thời kỳ
(1947 - 2012)

TT
Họ và tên
Thời gian công tác
Quê quán
1
Trần Đình Hậu1
1958
Xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh
2
Bùi Đình Quang
1958 - 1966
Xã Đức Bùi, Đức Thọ, Hà Tĩnh
3
Đặng Đình Lai
1966 - 1971
Xã Phúc Đồng, Hương Khê, Hà Tĩnh
4
Phạm Huy Khang
1985 - 1992
Xã Hưng Phú, Hưng Nguyên, Nghệ An
5
Nguyễn Thanh Chắt
1992 - 1993
Xã Thạch Trung, Thạch Hà, hà Tĩnh
6
Nguyễn Huy Chương
1993 - 1998
Xã Thạch Bình, Thạch Hà, Hà Tĩnh
7
Trần Tiến Dũng
1998 - 2002
Xã Lộc Yên, Hương Khê, Hà Tĩnh
8
Thái Bá Đức
2003 - 2010
Xã Hương Vĩnh, Hương Khê, Hà Tĩnh
9
Hồ Sỹ Hà
2011 …
Xã Hương Long, Hương Khê, Hà Tĩnh

          1. Đồng chí Trần Đình Hậu - Bí thư Huyện ủy phụ trách Chính trị viên.


















Danh sách
Cấp phó Ban chỉ huy quân sự huyện qua các thời kỳ
(1947 - 2012)

          1. Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng

TT
Họ và tên
Thời gian công tác
Quê quán
1
Nguyễn Văn Cân
1965 - 1973

2
Nguyễn Thế Nghĩa
1974 - 1984

3
Trần Đình Nhung
1985 - 1988
Xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh
4
Trần Đình Tá
1989 - 1993
Xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh
5
Lê Danh Quế
1994 - 1999
Xã Phú Phong, Hương Khê, Hà Tĩnh
6
Mai Văn Tuấn
2000 - 2004
Xã Hương Long, Hương Khê, Hà Tĩnh
7
Hồ Xuân Nguyên
2005 - 2008
Huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh
8
Nguyễn Trung Thành
2009 - 2010
Huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh
9
Nguyễn Huy Hoàng
2011 …
Xã Thạch Thượng, Thạch Hà, Hà Tĩnh


          2. Phó chỉ huy Động viên

TT
Họ và tên
Thời gian công tác
Quê quán
1
Bùi Văn Thi
1984 - 1986

2
Nguyễn Trọng Thế
1987 - 1993
Xã Phúc Trạch, Hương Khê, Hà Tĩnh
3
Mai Văn Tuấn
1994 - 1999
Xã Hương Long, Hương Khê, Hà Tĩnh
4
Phan Công Hải
2000 - 2005
Xã Thạch Quý, Thạch Hà, Hà Tĩnh
5
Trần Văn Nhỏ
2006 - 2007
Xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh
6
Nguyễn Văn Minh
2008 …
Xã Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh




3. Chính trị viên phó kiêm Chủ nhiệm chính trị
         
TT
Họ và tên
Thời gian công tác
Quê quán
1
Đặng Đình Lai
1965 - 1966
Xã Phúc Đồng, Hương Khê, Hà Tĩnh
2
Nguyễn Văn Luận
2002 - 2009
Xã Đức Lập, Đức Thọ, Hà Tĩnh
3
Nguyễn Quốc Tuấn
2010 - 2012
Xã Hương Thủy, Hương Khê, Hà Tĩnh
4
Trần Quang Đạt
2012 …
Xã Hương Giang, Hương Khê, Hà Tĩnh

  Ghi chú: Do công tác lưu trữ nên danh sách các đồng chí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê qua các thời kỳ đến nay chưa sưu tầm đầy đủ. Kính mong các đồng chí và bạn đọc có điều kiện bổ sung thêm. Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê thành thật mong các đồng chí thông cảm về sự thiếu sót này. Chúng tôi đã và đang tiếp tục sưu tầm, xác minh.







[1] Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ - Tĩnh, Nxb Nghệ Tĩnh 1981, trang 144.
[2] Trích: Tổng kết chiến tranh du kích Hà Tĩnh năm 1946, lưu phòng KHCN và MT Quân khu 4.
[3] Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, tập 1, 1930 - 1954, Nxb chính trị Quốc gia, trang 236.
[4] Số liệu do ông Phan Văn Đệ, nguyên Bí thư Huyện ủy cung cấp.
[5] QK4 - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nxb QĐND, Hà Nội 1990, trang 303.
[6] Quân khu 4, Lịch sử kháng chiến chống Pháp…, Sđd, trang 332.
[7] Hà Tĩnh kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Xí nghiệp in Hà Tĩnh 1997, trang 141.
[8] Báo cáo của Phân sở Hỏa xa quốc doanh Liên khu 4 năm 1954, phòng lưu trữ Tổng cục đường sắt, Hà Nội.
[9] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê 1930 - 2000… Sđd, trang 197 - 198.
[10] Đến giữa năm 1961, Hà Tĩnh đã xây dựng được 204 đại đội và 60 trung đội dân quân 1; 13 đại đội hỗn hợp và 1.164 trung đội dân quân 2; 191 trung đội nữ dân quân; 82 trung đội và 11 tiểu đội tự vệ cơ quan, công nông trường xí nghiệp.
[11] Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Hà Tĩnh… Sđd, trang 237 - 238.
[12] Hồ sơ lưu 37 TM, phòng BTM, kho lưu trữ Quân khu 4.
[13] Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Hà Tĩnh…, sđd, trang 259.
[14] Lịch sử Đảng bộ Quân khu 4 kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb QĐND, Hà Nội 2009, trang 204.
[15] Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Hà Tĩnh, Sđd, trang 245-246.
[16] Hà Tĩnh 30 năm kháng chiến (1945-1975), xí nghiệp in Hà Tĩnh 1998, trang 243.
[17] Quân khu 4 - Lịch sử KCCM, CN (1954 - 1975), Nxb QĐND, Hà Nội 1994, trang 432.
[18] Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Hà Tĩnh… Sđd, trang 380.
[19] Trích: Nghị quyết Đảng ủy quân sự tỉnh ngày 19 tháng 4 năm 1978, lưu phòng KHCN và MT Quân khu 4.
[20] Theo tài liệu lưu trữ chỉ nói năm 1978 thành lập Đảng bộ quân sự huyện Hương Khê, còn ngày thì không rõ.
[21] Trích: Nghị quyết Đảng ủy Quân khu 4 ngày 18 tháng 2 năm 1979, lưu phòng KHCN và MT Quân khu 4.
[22] Nghị quyết Hội nghị cán bộ Đảng bộ Quân khu 4 ngày 28 tháng 1 năm 1980, lưu phòng KHCN và MT - Quân khu 4.
[23] Báo cáo tổng kết công tác diễn tập, huấn luyện động viên năm 1985 của Bộ chỉ huy quân sự Nghệ - Tĩnh, ngày 15 tháng 11 năm 1985.
[24] Trích Nghị quyết 20/NQ-ĐU của Đảng ủy Quân khu 4 ngày 14 tháng 1 năm 1986, lưu phòng KHCN và MT Quân khu 4.
[25] Công tác Đảng, công tác chính trị trong công tác quân sự địa phương, Nxb QĐND, Hà Nội 2003, trang 77.
[26] Hồ sơ 568, phong Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh, kho lưu trữ Quân khu 4.
[27] Hồ sơ 566, phong Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh, kho lưu trữ Quân khu 4.
[28] Hồ sơ 587, phong Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh, kho lưu trữ Quân khu 4.
[29] Hồ sơ 604, phong Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh, kho lưu trữ Quân khu 4.
[30] Trích: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ quân sự huyện Hương Khê trình Đại hội nhiệm kỳ 2005 - 2008, lưu tại Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê.
[31] Trích: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ quân sự huyện tại Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2010 - 2015, lưu Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê.
* Chỉ đạo nội dung:

- Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Hương Khê
- Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Khê

* Chỉ đạo biên soạn:

- Đồng chí Hà Văn Hùng - Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Bí thư Đảng ủy Quân sự huyện;
- Đồng chí Nguyễn Xuân Vinh - Phó Bí thư thường trực Huyện ủy;                                           
- Đồng chí Hoàng Công Lý, Phó Chủ tịch UBND huyện;
- Đồng chí Thái Công Anh, Chỉ huy trưởng, Ban chỉ huy quân sự huyện;
- Đồng chí Trần quốc bảo, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy;
- Đồng chí Hồ Sỹ Hà, Chính trị viên, Ban chỉ huy quân sự, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự huyện;
- Đồng chí Trần quốc bảo, Trưởng ban tuyên giáo;
- Đồng chí nguyễn văn hiệp, Trưởng ban Tổ chức huyện;
- Đồng chí Nguyễn Quang Cảnh, Trưởng ban Tài chính - Kế hoạch huyện;
- Đồng chí Võ Văn Trình, Trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện;
- Đồng chí Lê Hữu Đồng, Chánh văn phòng HĐND, UBND huyện;

* Biên Soạn:

- Thượng tá Nguyễn Hữu Bộ (Chủ biên)
- Trung tá Hồ Sỹ Hà
-  Trung tá Nguyễn Anh Tuấn
- Thiếu tá Trần Quang Đạt

* Sưu tầm ảnh và tư liệu:

          - Ban chính trị - Ban chỉ huy quân sự
                    huyện Hương Khê