PGS.TS HOÀNG ANH
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thuyết
trình là một hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong cuộc sống. Xã hội càng phát triển, vai trò của thuyết trình
càng được đề cao thì vấn đề làm thế nào
để thuyết trình đạt hiệu quả như mong đợi luôn được mọi người, nhất là các nhà
nghiên cứu đặc biệt quan tâm.
Chỉ
tính khoảng thời gian hơn mười năm trở lại đây, đã có hàng trăm cuốn sách viết
về thuyết trình. Trong đó, có thể kể đến: Phương
pháp hùng biện [9], nghệ thuật nói trước công chúng [3,6], phương pháp luyện kỹ
năng nói chuyện có hiệu quả trước công chúng [2], nghệ thuật nói chuyện trước
công chúng [5], nghệ thuật phát biểu miệng [4], bài giảng kỹ năng thuyết trình
[7], v.v. Các công trình nói trên đã đề cập một cách toàn diện và hệ thống
các vấn đề liên quan tới hoạt động thuyết trình, từ các thao tác chuẩn bị bài
thuyết trình cho tới việc thực hiện bài thuyết trình và xử lý các tình huống
phát sinh.
Tuy
nhiên, do cuộc sống vận động liên tục và nhanh chóng; mặt khác, mỗi lĩnh vực của
đời sống xã hội có những đặc điểm riêng, cho nên trong những hoàn cảnh cụ thể,
xung quanh vấn đề thuyết trình thường xuyên xuất hiện những khía cạnh mới cần
được cập nhật, bổ sung hoặc xem xét làm
rõ cả về chiều sâu lẫn chiều rộng để sự vận dụng trong thực tiễn đạt kết quả tốt
nhất.
Với
tinh thần đó, bài viết của chúng tôi không có kỳ vọng đưa ra sự khảo sát thấu
đáo các vấn đề liên quan đến thuyết trình, mà chỉ bước đầu bàn về những yêu cầu
đặt ra đối với bài thuyết trình của người làm công tác tuyên truyền trong điều
kiện hiện nay từ góc nhìn của một người giảng dạy, nghiên cứu và trực tiếp tác
nghiệp trong lĩnh vực truyền thông.
Theo
chúng tôi, một bài thuyết trình nên đáp ứng các yêu cầu dưới đây:
1. Về nội dung
1.1. Mới mẻ
Nội
dung bài thuyết trình phải chứa đựng những thông tin nóng hổi, sốt dẻo. Đó là
những điều công chúng chưa biết hoặc biết một cách sơ lược, chưa đầy đủ. Nếu
thông tin đã được phổ biến rộng rãi, người thuyết trình phải đưa ra góc nhìn mới,
cách tiếp cận mới, cách luận giải mới hoặc những dữ liệu mới nhằm tạo lập và
duy trì sự quan tâm của công chúng.
Ví dụ: Nhiều người
cho rằng, muốn tạo dựng niềm tin, cần phải nói đúng. Nhưng thực tế, có người
nói những điều không đúng nhưng công chúng vẫn tin; ngược lại, có người nói điều
đúng công chúng lại cảm thấy không đủ tin cậy. Như vậy, vấn đề không chỉ ở chỗ
là nói đúng, mà còn ở cách nói, ở cách thể hiện niềm tin của người nói đối với
vấn đề được nói tới sao cho nó tạo ra hiệu ứng lan tỏa, chế ngự người nghe. Điều
này có nghĩa là ngoài việc nói đúng, chúng ta cần phải chú trọng rèn luyện
phương pháp nói mới có thể thuyết phục được công chúng.
1.2. Gần gũi
Các
dữ kiện của bài thuyết trnhf phải tạo cho công chúng cảm giác gần gũi theo ý
nghĩa trực tiếp của từ này. Sự gần gũi này có thể bao hàm các khía cạnh:
+
Gần gũi về không gian (gần địa bàn sinh sống, công tác). Người sinh sống, công
tác tại Hà Nội sẽ quan tâm tới những gì xảy ra ở Hà Nội và các tỉnh lân cận (Bắc
Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, v.v.) hơn các nơi khác. Người Việt Nam quann tâm tới những
gì xảy ra tại Việt nam và các nước láng giềng hơn các nước khác.
+
Gần gũi về thời gian (gần hiện tại). Công chúng quan tâm hơn cả tới những gì xảy
ra ở thời điểm hiện tại hoặc quá khứ và tương lai gần. Người thuyết trình luôn
cố gắng nhấn mạnh rằng: khoảng cách từ thời điểm phát thông tin (thời điểm anh
ta nói trước công chúng) đến thời điểm xảy ra sự kiện là ngắn nhất, hoặc không
có. Điều này được thể hiện rõ ràng thông qua việc sử dụng từ ngữ:
- Quá khứ: vừa,
vừa mới, mới, hôm qua, hôm nay, lúc 14 giờ chiều nay, cách đây 2 tiếng, cách
đây chưa đầy 1 tuần, chỉ cách đây chừng nửa tháng, khi tôi trên đường tới đây,
v.v.
- Hiện tại: đang,
hiện đang, khi chúng ta gặp gỡ tại đây, đang dự lớp học này, lúc này, thời điểm
này, v.v.
- Tương lai: sắp,
ngày mai, sắp tới, chỉ ít ngày nữa, chỉ một thời gian ngắn nữa, không đầy một
tuần nữa, v.v.
+
Gần gũi với môi trường chuyên môn, đời sống hàng ngày của công chúng. Như một lẽ
tự nhiên, công chúng bao giờ cũng quan tâm tới những gì xảy ra trong lĩnh vực
hoạt động nghề nghiệp, môi trường sống của họ. Giáo viên quan tâm hơn tới những
vấn đề học đường; nông dân quan tâm hơn tới những vấn đề trồng trọt, chăn nuôi;
tríc thức quan tâm hơn tới các vấn đề khoa học; người khá giả quan tâm tới du lịch
hơn người nghèo, v.v.
+
Gần gũi với lợi ích của công chúng. Trong bài thuyết trình cần có những thông
tin liên quan trực tiếp tới lợi ích của công chúng. Thực tế cho thấy, thông tin
lợi ích luôn thu hút được sự chú ý to lớn và đạt hiệu quả giao tiếp cao.
Ví
dụ, về cùng một sự kiện có hai cách nói như sau:
Việc tiến hành xây dựng
công trình này sẽ làm hủy hoại toàn bộ môi trường sinh thái của dòng sông.
(1)
Việc tiến hành xây dựng
công trình này sẽ làm cho toàn bộ ngư dân sống hai bên bờ sông thất nghiệp.
(2)
Cách
nói (2) đã chạm vào lợi ích trực tiếp của người nhận tin nên đã có tác động to
lớn: Toàn bộ cư dân sống hai bên bờ sông xuống đường biểu tình để phản đối việc
xây dựng công trình. Cách nói (1) gây được ấn tượng về mức độ tàn phá của công trình nhưng lại khá mơ hồ
về mặt trách nhiệm cũng như lợi ích cho nên không gây được hiệu ứng như mong đợi.
Trong
thưc tế đời sống, việc tăng, giảm giá các mặt hàng tiêu dùng (xăng, điện, nước,
v.v.); các vấn đề liên quan tới an toàn giao thông; các vấn đề ô nhiễm môi trường;
những thay đổi trong chính sách giáo dục, y tế; việc điều chỉnh thuế thu nhập
cá nhân, v.v. luôn gắn chặt với lợi ích của công chúng nên thường giành được sự
quan tâm đặc biệt.
2. Về hình thức
2.1. Về sử dụng ngôn
ngữ
Ngôn
ngữ của bải thuyết trình cần thể hiện được các tính chất sau đây: chính xác; rõ ràng, dễ hiểu; ngắn gọn; hay;
phù hợp.
- Chính xác: ngôn ngữ trong thuyết trình phải đạt tới sự
chính xác cao cả về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp lẫn phong cách. Các sai sót về
phương diện này có thể khiến công chúng khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin; trong
nhiều trường hợp có thể gây hậu quả nghiêm trọng.
Ví
dụ:
- Sắp tới,
sẽ còn nhiều quan chức cao cấp hơn nữa
phải ra hầu tòa. (1)
- Sắp tới, sẽ còn nhiều hơn nữa các quan chức cao cấp
phải ra hầu tòa. (2)
Cách
nói (1) nhấn mạnh yếu tố chất lượng (sẽ có những quan chức cao cấp hơn so với
các quan chức đã bị bắt, phải ra hầu tòa).
Cách
nói (2) nhấn mạnh yếu tố số lượng (ngoài các quan chức đã bị bắt, còn nhiều
quan chức cao cấp khác cũng sẽ bị ra hầu tòa). Như vậy, hai cách nói này không
thể thay thế cho nhau.
Ví
dụ:
-
Nhiều người bị phá sản vì thói tư duy
bầy đàn của mình. Cách nói này làm người nghe bị tổn thương sâu sắc.
Theo chúng tôi, cần sửa thành “Nhiều người
bị phá sản vì kiểu kinh doanh theo
đám đông của mình”.
- Rõ ràng, dễ hiểu: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Tục
ngữ nói “gẩy đàn tai trâu” là có ý chế
người nghe không hiểu. Song những người tuyên truyền mà viết và nói khó hiểu,
thì chính người đó là “trâu” [5, t, tr.340].
Để
ngôn ngữ của bài thuyết trình rõ ràng, dễ hiểu, cần chú ý:
+
Sử dụng từ ngữ phổ cập toàn dân;
+
Dùng câu đơn giản, có trật tự thuận: chủ ngữ trước, vị ngữ sau; câu có cấu trúc
chủ động (đây là những cách nói quen thuộc, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ người
Việt).
+
Sử dụng số liệu một cách khoa học: đúng liều lượng; làm tròn với con số lớn,
không đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối; dùng chữ thay cho con số (một phần tư thay cho 25%, nửa triệu thay cho 500.000, v.v.), đưa căn cứ để so sánh
khi con số nằm ngoài khả năng nhận thức của công chúng (rất ít người hiểu rõ giá trị của năm trăm nghìn tỷ, vì thế phải chỉ rõ
thêm số tiền đó tương đương lương của bao nhiêu người trong bao nhiêu năm hoặc
có thể dùng để xây dựng bao nhiêu mét vuông nhà ở, cho bao nhiêu người đến sống);
thay cho con số bằng hình ảnh để dễ cảm nhận (lỗ thủng tầng ô zôn bằng diện tích cả châu Á và châu Âu cộng lại.
- Ngắn gọn: Ngắn gọn giúp tiết
kiệm thời gian và công sức cho người nói và người nghe. Trong bối cảnh bùng nổ
thông tin như hiện nay, trong cùng một đơn vị thời gian người ta muốn nhận được
càng nhiều thông tin càng tốt. Khi nghe, công chúng phải tập trung tư tưởng cao
độ. Sự tập trung như vậy kéo dài sẽ dẫn tới sự mệt mỏi, căng thẳng, làm suy giảm
hứng thú của người nghe. Nói dài có thể làm loãng thông tin hoặc mắc các dạng lỗi
khác nhau, cả về nội dung cả hình thức.
Theo
các chuyên gia, một bài thuyết trình không nên kéo dài quá 2 giờ đồng hồ.
- Hay: Đây là đặc điểm quan trọng giúp bài thuyết
trình chinh phụ công chúng cả về lý trí lẫn cảm xúc. Bài thuyết trình phải đạt
tới tiêu chuẩn hay không chỉ về nội dung mà còn về cách thức thể hiện của diễn
giả.
Người
thuyết trình nên:
-
Nói một cách truyền cảm, thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới điều đang trình bày;
-
Thay đổi ngữ điệu linh hoạt tùy theo hoàn cảnh;
-
Nhấn mạnh tính mới mẻ, gần gủi của thông tin;
-
Khai thác chất liệu văn học; thành ngữ, tục ngữ cùng các biện pháp tu từ khác (ẩn
dụ, so sánh, v.v.).
-
Sử dụng việc chơi chữ, nói dựa, trích dẫn.
- Phù hơp: Đây là một tính chất không thể thiếu của
ngôn ngữ thuyết trình. Ngôn ngữ của bài thuyết trình cần phải:
+
Phù hợp với đối tượng: Với các đối tượng người khác nhau, người thuyết trình phải
sử dụng ngôn ngữ theo các dạng thức khác nhau (với người cao tuổi: ngôn ngữ
trang trọng, đúng mực, thể hiện sự tôn kính, lễ phép; với thiếu nhi: ngôn ngữ
giản dị, thân mật, thể hiện sự ân cần, thân thiện; với trí thức: ngôn ngữ mang
chiều sâu trí tuệ, kích thích tư duy, v.v.).
+
Phù hợp với nội dung: Nội dung cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc sử dụng
ngôn ngữ. Nói về các vấn đề khoa học, ngôn ngữ phải đơn nghĩa, chặt chẽ, chính
xác, khách quan; nói về các vấn đề của đời sống sinh hoạt hàng ngày, ngôn ngữ
phải đại chúng, giàu tính biểu cảm, tính bình giá; kêu gọi công chúng thực hiện
hành động nào đó, (dưới dạng bài diễn văn), ngôn ngữ phải sống động, giàu hình ảnh,
tha thiết, giàu âm hưởng, v.v.
+
Phù hợp với môi trường văn hóa – xã hội: Ngôn ngữ của bài thuyết trình cần mang
hơi thở ấm nóng của cuộc sống hiện nay, bám sát sự vận động và phát triển của
ngôn ngữ dân tộc. Trong bài thuyết trình, nếu có thể, nên chú ý nên sử dụng các
yếu tố ngôn ngữ mới xuất hiện nhưng được xã hội thừa nhận và có tính phổ biến rộng
rãi. Đó trước hết là lớp từ mới của thời kỳ hội nhập như: toàn cầu hóa, Internet, con chíp, ổ cứng, đĩa mềm, thư điện tử trực
tuyến, thẻ nhớ, cư dân mạng, điện thoại di động, kinh tế tri thức, nhà đầu tư,
lên sàn, giao dịch chứng khoán, niêm yết, giải ngân, thẻ tín dụng, tỷ gí, .v.v.
2.2. Về sử dụng các yếu tố bổ trợ khác
Các
yếu tố bổ trợ khác có thể chia thành 2 loại: 1, những gì luôn gắn liền với chủ
thể thuyết trình như: nét mặt, ánh mắt, dáng vẻ, cử chỉ, tư thế, nụ cười, trang
phục; 2, các phương tiện bên ngoài gắn liền với các thiết bị kỹ thuật như hình ảnh
(tĩnh và động), âm thanh, các đồ vật minh họa, v.v.
Các
yếu tố bổ trợ mang lại nhiều lợi ích như: hỗ trợ đắc lực cho việc chuyển tải
thông tin, làm cho bài thuyết trình trở nên sống động, đa dạng về hình thức thể
hiện, giúp người nghe lĩnh hội được dễ dàng và đầy đủ các thông điệp gửi tới họ,
v.v.
Tuy
nhiên, cần lưu ý là: Sử dụng các yếu tố trên một mặt phỉa phù hợ với nội dung
và bối cảnh giao tiếp, mặt khác, cần tránh lạm dụng chúng để không cản trở người
nghe tiếp nhận thông tin nằm trong ý nghĩa của ngôn từ. Đối với các phương tiện
kỹ thuật cần có sự chuẩn bị trước kỹ lưỡng.
3. Về lập luận
Lập
luận là “Sắp xếp lí lẽ một cách có hệ thống
để trình bày, nhằm chứng minh cho một kết luận về một vấn đề” [11,
tr.176]. Như vậy, bản chất của lập luận là chứng minh, và việc chứng minh này
chỉ được xem là thành công khi nó làm cho người khác chia sẻ, đồng cảm hoặc chấp
nhận một ý kiến, một nhận định (thường được gọi là luận đề) nào đó.
Muốn
vậy, khi chứng minh một luận đề, người thuyết trình phải sử dụng những lý lẽ, dẫn
chứng xác đáng, cụ thể, tiêu biểu, ấn tượng, nằm trong mối quan hệ chặt chẽ, lô
gic, có khả năng thể hiện một cách thuyết phục và nhất quán tư tưởng, khiến cho
người nghe thấy luận đề đó là đúng đắn hoặc không có căn cứ để phản bác nó.
Có
nhiều cách lập luận nhưng thường gặp hơn cả là
diễn dịch, quy nạp và tổng-phân-hợp.
Dưới
đây là một số ví dụ:
“... Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng
tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng chỉ thi hành những
pháp luật dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản
việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù
nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi
của ta. Chúng tắm các cuộc khỏi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận,
thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện,
rượu, cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc
lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta
xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng
đất, rừng, mỏ, nguyên liệu.
Chúng đặt ra hàng
trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các
nhà tư sản ta được giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn” [5, t.4, tr.1-3].
Đây
là lập luận theo kiểu diễn dịch. Việc lặp lại từ “chúng” 14 lần liên tiếp, với
những mô hình caauc ó khả năng tạo âm hưởng, cùng những lý lẽ xác thực, tiêu biểu
và đa diện đã làm cho đoạn văn có sức tố cáo hết sức mạnh mẽ, đanh thép.
“Nhân dân ta tốt thật.
Nhưng ta nên ghi nhớ câu chuyện anh Tăng. Địch tuyên truyền xảo quyệt và bền bỉ,
ngày này đến ngày khác, năm này đến năm khác. “Giọt nước rỏ lâu đá cũng mòn”.
Cho nên không khỏi có một số đồng bào bị địch tuyên truyền mãi mà hoang mang” [5, t.8, tr.491].
Đây
là lập luận theo kiểu quy nạp. Câu đầu tiên có lẽ là sự kết nối đoạn văn này với
đoạn văn phía trước. Lý lẽ chứng minh cho luận đề bắt đầu được đưa ra từ câu thứ
hai “Nhưng ta nên ghi nhớ câu chuyện anh
Tăng”. Đó là ví dụ kinh điển đã được lưu giữ trong sách vở từ nhiều đời
nay, về việc một thông tin, cho dù không đúng sự thật nhưng được các chủ thể
khác nhau lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể tác động mạnh mẽ như thế đến nhận thức
và hành vi của người nhận. Từ đây, Bác dẫn tiếp lỹ lẽ về bối cảnh thực tại, và
trên cơ sở liên hệ, so sánh, chúng ta dễ dàng nhận thấy kết luận của Bác là
hoàn toàn thỏa đáng: Nếu trong câu chuyện về anh Tăng, chỉ cần ba người nhắc lại
một cách tự phát cùng một thông tin đã khiến cho mẹ anh Tăng hoàn toàn bị lung
lạc lòng tin, thì hiện tại, khi kẻ địch mở cả chiến dịch tuyên truyền liên tục,
kéo dài và rộng khắp, với những phương cách tinh vi, xảo quyệt, việc một số
đòng bào ta bị dao động là lẽ thường.
Như
vậy, thông qua cách lập luận đi từ xa đến gần, từ sách vở đến thực tiễn, từ mức
độ thấp đến mức độ cao, tư tưởng của Bác dễ dàng ngâm sâu vào lòng người và lắng
đọng ở đó một cách vững chắc.
Tiếng Việt của chúng
ta rất đẹp; đẹp như thế nào, đó là điều rất khó nói. Chúng ta không thể nói tiếng
ta đẹp như thế nào, cũng như không thể nào phân tích cái đẹp của ánh sáng, của
thiên nhiên. Nhưng đối với chúng ta là người Việt Nam, chúng ta cảm thấy và thưởng
thức một cách tự nhiên cái đẹp của tiếng nước ta, tiếng nói của quần chúng nhân
dân trong ca dao và dân ca, lời văn của các nhà văn lớn. Có lẽ tiếng Việt của
chúng ta đẹp, bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc
đấu tranh của nhân dân ta tư trước tới nay là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất
đẹp.
Đây
là lập luận theo kiểu tổng – phân – hợp. Sau
khi đi ra luận đề, tác giả khẳng định đây là luận đề rất khó, thậm chí
không thể chứng minh vì cái đẹp của tiếng Việt cũng giống như vẻ đẹp của ánh
sáng thiên nhiên, có thực, phổ biến, thậm chí mang tính tất yếu nhưng chỉ cảm
nhận được chứ không diễn đạt được thành lời. Song, tự thân sự so sánh này đã là
một luận cứ tinh tế, sâu sắc, đạt tới đỉnh cao của sự thuyết phục.
Kế
đó, vẫn theo dòng chảy của tư tưởng khó chứng
minh cái đẹp của tiếng Việt, tác giả đưa tiếp lý lẽ dưới dạng phỏng
đoán: “Có là tiếng Việt của chúng ta đẹp,
bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của
nhân dân ta từ trước tới nay là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp”. Từ
“có lẽ” làm cho câu văn có giọng điệu thật mềm mại, nhẹ nhàng, khiến người đọc
có cảm giác đây mới chỉ mới là suy nghĩ
ban đầu chưa có gì chắc chắn của tác giả. Thế nhưng toàn bộ nội dung phía sau lại
hoàn toàn xác đáng, mọi người đều thừa nhận tính đúng đắn của những nội dung đó
một cách vô điều kiện, nghĩa là đây là những luận cứ đầy sức nặng, không thể phản
bác. Và chính sự tương phản giữa cái nhẹ nhàng, mềm mại của hình thức câu chữ
và cái mạnh mẽ, chắc chắn của nội dung bên trong đã giúp câu văn vừa gây được ấn
tượng lại vừa giàu sức thuyết phục.
Từ
các ví dụ trên, một trong những bài học quan trọng có thể rút ra là: khi lập luận,
những lý lẽ, dẫn chứng cần được lựa chọn, sắp xếp sao cho chúng đều góp phần
làm rõ, bổ sung và nâng cao giá trị của
nhau, qua đó, tăng cường khả năng tác động tổng thể của cả sản phẩm lập luận.
Trên
đây là một số điều trao đổi giúp nâng cao tính thuyết phục của bài thuyết
trình. Có thể các ý kiến mới được trình bày ở mức độ sơ lược hoặc mang nặng dấu
ấn chủ quan, song tác giả vẫn hy vọng chúng sẽ hữu ích, dù ở mức độ nhỏ nhất,
cho tất cả những ai quan tâm.
(1)
Xem
thêm bài viết: “Một số thủ pháp về ngôn ngữ nhằm nâng cao tính hiệu quả của bài
phát biểu trước công chúng” của tác giả Hoàng Anh trong cuốn: “Những kỹ năng về
sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng”, Nxb Đại học Quốc gia, HN, 2008,
tr.7-22.
(2) Dẫn theo: Bùi Minh Toán – Lê A – Đỗ Việt
Hùng, Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục,
1997, tr.43.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh, Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng, Nxb
Đại học Quốc gia, HN, 2008.
2. Dale Carnegie, Phương pháp luyện kỹ năng nói chuyện có hiệu quả trước công chúng (Tuyết
Minh dịch), Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2004.
3. Barry Clough, Nghệ thuật nói trước công chúng (Biên dịch: Việt Văn Books), Nxb Hồng
Đức, HN, 2008.
4. Lương Khắc Hiếu (chủ biên), Nghệ thuật phát biểu miệng, Nxb CTQG,
HN, 2005.
5. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2011,
t.4, 5, 8.
6. Raymond De Saint Laurent, Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng, Nxb
Văn hóa – Thông tin, 2004.
7. Nguyễn Hiến Lê, Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng, Nxb Văn hóa – Thông tin,
2003.
8. Dương Thị Liễu (chủ biên), Bài giảng kỹ năng thuyết trình, Nxb Đại
học Kinh tế quốc dân, 2009.
9. Bùi Minh Toán – Lê A – Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục,
1997.
10. Liêu Chí Trung: Phương pháp hùng biện, Nxb Thanh niên, HN, 2000.
11. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, 2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét