PHẦN THỨ HAI
LỊCH SỬ
Chương 1. HƯƠNG KHÊ TRƯỚC NĂM 1867
I. TỪ THỜI KỲ ĐÁ CŨ
ĐẾN VĂN HÓA ĐÔNG SƠN
Bước vào Kỷ Đệ Tứ
(hay còn gọi là Kỷ Nhân Sinh), biển lùi ra khá xa hàng trăm cây số, khu vực
phía Tây Hà Tĩnh trở thành lục địa. Diện mạo địa hình có hai dạng, phía Tây là
núi, dãy Trường Sơn, Trà Sơn, Thiên Nhẫn, Hoành Sơn. Phía Đông là đồng bằng.
Biển tiến thời Đệ Tứ, dãy Hồng Lĩnh, núi Nam Giới trở thành quần đảo và tạo ra
các vùng vịnh. Sau đó biển lùi dần, quang cảnh khu vực này gần giống như hiện
nay.
Sang nền “Văn hóa Sơn Vi” ở khu vực Hà Tĩnh và
Nghệ An cơ bản có những đặc trưng giống nhau nhưng đến khoảng một vạn năm trước
đã hé mở những yếu tố kỹ thuật mang tính địa phương. Những công cụ ở Làng Vạc -
Nghĩa Đàn làm bằng đá Thạch Anh, còn những công cụ ở Sơn Kim - Hương Sơn làm
bằng đá Quartzite. Đáng chú ý là có một công cụ Chopping - Tool, ghè tạo lưỡi
hai mặt. Vết ghè thô, khá sâu tạo ra lưỡi hình dích dắc. Đây là những công cụ
khá hiếm trong Văn hóa Sơn Vi, là đặc trưng riêng ở vùng Hương Sơn.
Cư dân văn hóa Sơn
Vi, một số ở hang động, một số ở ngoài trời. Làng Vạc, Sơn Kim ở trên các thềm
bậc 2 của các sông Ngàn Phố và sông Hiếu. Họ làm nghề săn bắt và hái lượm.
Những xương cốt động vật hóa thạch ở hang Thẩm Ồm cho thấy kết quả nghề săn bắt
động vật hoang dã của họ từ những loài nhỏ như: nhím, rùa, dúi đến các loại
hoang thú to như voi, bò rừng; những loài chạy nhanh như sơn dương. Điều này
cũng chứng tỏ nghề săn bắt đòi hỏi những bộ lạc đông người, các hình thức săn
bắt đa dạng và hiệu quả cao.
Từ văn hóa Quỳnh Văn
khu vực Hà Tĩnh, Nghệ An đến tận Quảng Bình, tiến lên một trình độ cao hơn là
Văn hóa Bàu Tró. Người Bàu Tró Hương Sơn trước đây cũng như các cư dân thuộc
văn hóa này đã làm nông bằng cuốc, thuổng. Điều này đã làm xuất hiện một nền
nông nghiệp dùng cuốc. Cối đá cũng là bằng chứng chế biến thức ăn mang đậm tính
chất nông nghiệp. Gọi là nền nông nghiệp dùng cuốc nhưng không phải nông nghiệp
độc canh mà là đa canh. Săn bắt và hái lượm vẫn song song tồn tại. Người Hương
Khê ngày nay vẫn lên suối bắt cá, hái hoa chuối rừng, mò cua, bắt dam, bắt
ếch,… Mọi thứ lấy được từ thiên nhiên ngày nay đã trở thành những món ăn đặc
sản. Đó là dấu vết còn sót lại của nghề săn bắt và hái lượm của ngày xưa.
Sách Nghệ An ký của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch
chép về núi Khai Trướng, có đoạn: “… Trong núi có một giống người Lạo không có
nhà cửa, ở các bãi cỏ nằm sương, không biết cày cấy trồng trọt, ban ngày đi lấy
củ nâu, bắt cá khe và săn bắn thú rừng đem về làm thức ăn. Họ có vợ con, mạnh
khỏe, sống lâu và giỏi nghề bắn nỏ bằng tên tẩm thuốc độc. Thường thường, họ
đem sừng tê, ngà voi đổi cho người kinh lấy các đồ dùng. Ước hẹn với họ điều gì
thì phải làm đúng lời, nếu bội ước thì họ ngấm ngầm đón đường dùng tên thuốc
độc bắn chết. Giống người này sách Thủy
kinh chú gọi là dân Văn Lang”. Đại
Nam nhất thống chí dẫn sách An Nam
chí viết về núi Khai Môn (Khai Trướng) ở huyện Cổ Đỗ và núi Khoáng Sơn ở
(Chu Lễ) huyện Thổ Hoàng: “Tương truyền
trước kia người man Đạo Lận cùng người các man Cá Lăng, Kiều Năng lấn cướp lẫn
nhau, bên nào cũng giữ chỗ hiểm, không phân được thắng thua, sau đều lấy núi
Trúc Bài làm ranh giới…”
Hiện nay, ở Hương
Khê còn có các nhóm người Chứt ở bản Giàng 1 (xã Hương Lâm) và bản Giàng 2 (xã
Hương Vịnh) và nhóm người Mã Liềng (M’liềng, cũng gọi là A Rem, Rem, Cọi, Mày)
- một chi của người Chứt, ở bản Rào Tre (xã Hương Liên). Ở xã Sơn Kim (Hương
Sơn) cũng có một nhóm người Cọi, gọi là “Cọi
nác ngang”. Theo các nhà dân tộc học thì mấy nhóm người này có gốc gác từ
người Việt Mường, sống cách ly lâu đời trở thành người thiểu số.
Từ xa xưa, người
Kinh vùng xuôi chắc đã giao lưu, trao đổi sản vật với các tộc người thiểu số
vùng núi Giăng Màn. Dần dà, họ men theo sông, suối đưa thuyền, mảng lên đánh
cá, bẩy thú, khai thác gỗ, nứa, rồi ở lại, lập nên các vạn, các trại, vỡ đất
trồng trọt, làm ăn sinh sống lâu dài… Tuy nhiên đến đầu thời tự chủ (thế kỷ X),
đây vẫn là rừng rậm, núi hoang, người ở thưa thớt, chia thành nhiều nhóm nhỏ.
Sử sách chỉ nhắc đến hai điểm tụ cư quan trọng là vạn - trại Đỗ Gia ở vùng cửa
sông Ngàn Phố và vạn - trại Thổ Hoàng ở thượng nguồn sông Ngàn Sâu.
Đời lý, vùng này đã
có địa danh hành chính là hương Đỗ Gia (có tài liệu chép đời Trần nâng lên
thành huyện Cổ Đỗ). Nhưng dân còn ít ỏi, xóm mạc ở phân tán, núi non hiểm trở
nên châu, lộ chưa thể quản lý đến cơ sở được.
II. DẤU TÍCH LỊCH SỬ CỦA TRIỀU
ĐẠI NHÀ LÝ TRÊN ĐẤT HƯƠNG KHÊ THẾ KỶ XI
Vùng đất Thổ Hoàng - Hương Khê
xưa là địa đầu biên ải phía Tây Nam của Đại Việt thời Lý. Nơi đây có vị trí
trọng yếu về quốc phòng. Vì vậy, khi vào trấn nhậm Hoan Châu, Hoàng tử Lý Nhật
Quang đã cho lập các đồn binh, ải đạo nhằm xây dựng nơi đây thành phòng tuyến
vững chắc để kiểm soát và ngăn chặn sự xâm nhập của quân Chăm-pa và Ai Lao sang
cướp phá. Tương truyền, Đông Chính Vương (cũng là con Lý Thái Tổ, sau vụ án
"Loạn Tam Vương" được Lý Thái Tông tha tội và giao cho Lý Nhật Quang
quản lý) được cử vào đóng quân ở vùng Lộc Yên. Lũy Khe Táy được quân lính của
ông cùng nhân dân địa phương tham gia đắp trong một đêm là hoàn thành, mặt lũy
rộng 6 - 7m. Gần đó có vực sâu có thể dùng luyện tập thủy quân. Ngày nay, vết
tích một đoạn lũy bằng đất dài khoảng 200m vẫn còn tồn tại và được cho là có từ
thời Lý. Đây cũng là ải cực Nam chạy dài đến Tân Đức (Quảng Bình). Sách An Tĩnh
cổ lục viết về vùng đất này dưới thời Lý như sau: “Các biên niên sử của nhà Hậu
Lý (1009 - 1225) có chép lại rằng xưa kia người Chăm-pa thỉnh thoảng có dùng
đường Thượng Đạo để đánh chiếm An - Tĩnh. Họ đi qua chỗ có nhiều đèo. Các đèo
này mở đường đi giữa thung lũng Ngàn Sâu. Chính vào thời kỳ này người An Nam đã
đắp các thành lũy tại các vùng Quy Hợp và Tuyên Hóa để kiểm soát 12 động đá
vôi. Các lũy nhỏ này dựa vào thành lũy của núi Vũ Thấp và Phúc Nhật”[1]. Bên cạnh đó, dưới thời Lý Nhật Quang trị
nhậm Hoan Châu ông còn chủ trương khai phá ruộng đất, phát triển sản xuất nông
nghiệp, tích trữ lương thảo, khai thác lâm thổ sản, chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân. Vì vậy, sau khi Uy Minh Vương qua đời, nhân dân nơi
đây đã lập đền thờ nhằm tri ân công đức của ông. Đền Tam Tòa xã Lộc Yên tôn thờ
Lý Nhật Quang làm thần chủ là minh chứng cho vùng đất Hương Khê thế kỷ XI đã là
vùng trọng yếu trong công tác quốc phòng.
III. DẤU TÍCH LỊCH SỬ CỦA CUỘC
KHỞI NGHĨA LAM SƠN THẾ KỶ XV TRÊN ĐẤT HƯƠNG KHÊ
Cuối thế kỷ XIV, nhà Trần suy
vong, nhà Hồ tiếm quyền. Nhà
Minh sang xâm lược nước ta. Lê Lợi - một hào trưởng vùng Lam Sơn (Thanh Hóa) tự
xưng là Bình Định Vương nổi dậy chống nhà Minh. Vào những năm 1425 - 1426, ông
đã cho đánh chiếm huyện Đỗ Gia, lập căn cứ chống nhà Minh. Đến nay, một số địa
danh, con người Hương Khê có liên quan đến khởi nghĩa Lam Sơn được xác định:
1. Vùng đất Thổ Hoàng
Trong thời kỳ Hậu
Trần (1408 – 1414) vùng đất Thổ Hoàng là một trong những căn cứ của quân nhà
Trần do vua Giản Định (Trần Ngỗi) và vua Trần Trùng Quang (Trần Quý Khoáng) chỉ
đạo. Các tên gọi như Đồng Dinh, Bãi Phố, Bến Thần, đồng Mục Voi, Lỗ Tiền, Chõ
Vua, Cồn Đèn, Đồng Đội… được hình thành trong giai đoạn này. Ngoài ra một dấu
vết của thời kỳ này còn sót lại đến ngày
nay đó là di tích đền Tam Công. Chuyện kể rằng, vào năm 1414 khi quân nhà Minh
tấn công quân của vua Trần Trùng Quang ở Ngàn Sâu, quân nhà Trần hi sinh rất
nhiều trong đó có ba vị Quận Công. Sau cuộc chiến, Nhân dân đã chôn cất các
bình sĩ tử trận ngay tại chỗ còn ba vị quận công được đưa lên chôn ở đồi Khe
Nậy và lập đền thờ tại đây. Đền được gọi là đền Tam Công[2].
2. Núi Phù Lê (thuộc
xã Hương Trạch): tương truyền ngọn núi này được
xây dựng thành một kho lương thực lớn do nhân dân Hương Khê đóng góp
nuôi nghĩa quân Lê Lợi. Sách Nghệ An ký liệt núi Phù Lê vào vị trí quan trọng
thứ hai sau núi Khai Trướng ở Hương Khê và Hương Sơn như sau: “Tương truyền khi
vua Thái tổ Cao Hoàng đế nhà Lê đóng quân ở huyện Đỗ Gia, dân địa phương giúp
việc quân vận chuyển lương thực, binh khí, vua ban cho tên gọi ấy”.
3. Về dòng họ Trần xã Tri Bản (nay là xã Hòa Hải): Trong Lời tựa bản dịch Gia phả dòng họ Trần ở
Tri Bản, ông Trần Văn Quý, chuyên viên Viện nghiên cứu Hán Nôm đã viết: “Họ
Trần là một họ rất lâu đời ở xã Tri Bản, đời Lê gọi là xã Bằng Bản, huyện Hương
Sơn, nay là xã Hòa Hải, huyện Hương Khê… Thủy tổ của họ Trần Nam Định vào đây
để quản lý và khai phá một điền trang của triều đình nhà Trần. Về sau, họ Trần
này có nhiều người có công với nước, với dân. Hoàng hậu Bạch Ngọc - Trần Thị
Ngọc Hào, vợ vua Trần Duệ Tông (1373 - 1377) là người họ Trần này… Ông Trần Bá
Tước - một bộ tướng của vua Lê Thái Tổ, hy sinh trong khi đánh giặc Minh tại
thành Nghệ An cũng là người họ này. Về sau, dân làng lập đền thờ, gọi là đền
Cột Voi…”[3].
Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, dòng họ Trần
ở Tri Bản có nhiều người học hành đỗ đạt, thành danh trên con đường làm quan,
đóng góp vào việc xây dựng quê hương, đất nước, được ghi nhận như: Tri huyện
Vĩnh Khang Trần Sĩ Giáo, Tri huyện huyện Thanh Vị Trần Sỹ Hạnh, Thập Lý hầu
Trần Sỹ Bổng, Trần Sỹ Cử.
4. Về
Danh tướng Trần Bá Tước
Căn cứ vào một số tư
liệu như “Khởi nghĩa Lam Sơn”, do Giáo sư Phan Huy Lê, Giáo sư Phan Đại Doãn
biên soạn (xuất bản năm 1977), "Thần tích đền Cột Voi" ở thôn Đa Bản,
xã Hòa Hải, huyện Hương Khê do ông Trần Văn Quý sưu tầm được tại nhà ông Phan
Hứng ở thôn Đa Bản, xã Hòa Hải năm 1980 (bố ông Phan Hứng là Phan Trọng Tố
trước năm 1945 là Thủ từ đền Cột Voi - nơi thờ Trần Bá Tước), và theo câu
chuyện truyền ngôn tại địa phương cho biết:
Trần Bá Tước, không
rõ năm sinh, năm mất, quê ở thôn Đa Bản, xã Bào Lăng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh. Ông đã từng theo Bình Định vương Lê Lợi đánh giặc Minh ở thành Nghệ An,
lập được nhiều công lớn. Trong một cuộc giao tranh giữa nghĩa quân Lê Lợi với
Trương Phụ - tướng giặc Minh tại thành Nghệ An, Trần Bá Tước đã bị phục binh
quân giặc bắn bị thương nặng vào chân phải, rồi mất. Quan quân đã đưa ông về
quê an táng tại rú Cột Voi, thôn Tri Bản, xã Bào Lăng theo nghi thức của cấp
tướng.
Cũng theo Thần tích đền Cột Voi: “Sự tích thần bản thổ
là quan Bá Tước, được gia tặng Trung liệt hùng uy, Trung đẳng linh thần.
Ngài sinh ra kiêu dũng khác thường. Nghe tin Lê Lợi khởi
nghĩa, Ngài nối chí đi theo, nhiều lần theo vua đánh giặc lập được công lớn.
Khi binh đồn vua Lê đóng ở xã Nam Ngạn, huyện Thanh Chương, đồn Trương Phụ
(giặc Minh) đóng ở xã Nghĩa Liệt, huyện Hưng Nguyên, chiến lũy hai bên đối
nhau. Tới My Động thì giao chiến, Ngài bị phục binh của Trương Phụ bắn trúng,
gãy chân phải. Quân lính dìu ngài về đồn, vết thương rất nặng. Ngài mất tại
quân doanh. Quan quân đưa Ngài về quê, táng tại rú Cột Voi. Lễ tang lúc đó làm
theo nghi lễ (dành cho) tướng quân”[4].
Sau tuần trăm ngày, nhân dân qua lại cầu đảo, không điều
gì không hiển ứng, dân trong thôn được nhờ nhiều. Do đó mà lập đền thờ. Như
vậy, có thể khẳng định rằng, Trần Bá Tước là một vị tướng của vua Lê Lợi, đã
từng tham gia đánh nhau với tướng Trương Phụ giặc Minh, bị thương và hy sinh
tại chiến trường. Sau đó, được nghĩa quân Lam Sơn đưa về an táng tại quê nhà và
lập đền thờ, gọi là đền Cột Voi, rất tiếc đền đã bị hư hại hoàn toàn. Đền cũng
được phong sắc nhiều lần, đến năm 1947, các đạo sắc được hợp tự vào đền Phú
Gia, huyện Hương Khê, các đạo sắc đã bị thất lạc không còn. Hiện nay, việc thờ
tự Danh tướng Trần Bá Tước, được hậu duệ họ Trần - Tri Bản tổ chức tại nhà thờ
họ Trần một cách trang nghiêm, thành kính.
5. Bạch Ngọc
Hoàng hậu qua sự tích chùa Am[5]
Về cuối đời nhà Trần, vua Duệ Tông (1372 - 1377) lấy một
người con gái tài sắc đoan trang (ở làng Tri Bản, huyện Hương Khê, tỉnh Hà
Tĩnh) tên là Trần Thị Ngọc Hào (con gái ông Trần Công Thiệu). Vua phong làm
Bạch Ngọc Hoàng hậu, sau sinh hạ được bà công chúa Huy Chân tên là Trần Thị
Ngọc Hiên. Đương thủa ấy, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh bên Tàu muốn
nhân cơ hội ấy để lấy nước Nam, bèn mượn tiếng giúp nhà Trần đánh nhà Hồ mà kéo
quân sang chiếm lấy nước ta. Lúc ấy bà Hoàng hậu cùng cung nhân và tôi tớ 573
người, giả cách ăn mặc theo lối thầy tu, bỏ Kinh chạy về quê hương, đi mất 50
ngày, mới về tới địa phận phủ Đức Thọ, huyện Hương Sơn, Hương Khê bây giờ. Cung
nhân và tôi tớ chạy tản đi các hướng, chỉ còn lại 172 người. Thấy đất xứ ấy
phần nhiều còn là rừng rậm cỏ hoang, chưa có dân cư, chưa thành làng xóm, vậy
nên bà đã cùng cung nhân tôi tớ ở ẩn lại dọc dãy núi Cốc và núi Trà (về địa
phận Đức Thọ), chiêu mộ nhân dân được hơn 3000 người sáng lập trang trại được
nhiều làng xóm (trên từ Lâm Thao, Hòa Duyệt, thuộc huyện Hương Khê, Thượng - Hạ
- Bồng thuộc huyện Hương Sơn giữa đến Lạng Quang, Du Đồng và Đồng Công, thuộc
phủ Đức Thọ, dưới đến Thường Nga, Lai Thạch thuộc huyện Can Lộc bây giờ) và
khai khẩn ruộng đất được 3.965 mẫu. Thời ấy, tuy quân nhà Minh lập đồn ải khắp
cả mọi nơi để canh giữ, nhưng vì chỗ bà ở cách trở rừng núi, nên quân Minh
không biết tới. Đến lúc có quan đại tướng tên là Bùi Bị phụng mệnh ông Lê Lợi (tức
vua Thái Tổ nhà Hậu Lê, trốn tránh ở Ai-Lao để mưu khởi nghĩa) về đánh giặc
Minh ở vùng Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ. Khi đánh dẹp được giặc Minh ở vùng
ấy rồi, ông Bùi Bị mới tiến vào rừng núi tình cờ tìm thấy bà Hoàng hậu, Công
chúa và dinh cơ trang trại của bà. Ông Bùi Bị tới, bà kể tình trạng đầu đuôi
cho ông biết. Lúc ông Bị trở về Ai-lao rước vua Lê về tâu chuyện bà ấy cho vua
nghe[6].
6. Công chúa Huy Chân
Khi quân Minh kéo
sang dày xéo nước ta, Vua Duệ Tông tử trận tại thành Đồ Bàn. Gặp buổi loạn ly,
Bà Trần Thị Ngọc Hào (tức Bạch Ngọc Hoàng hậu) cùng con gái là công chúa Huy
Chân trốn về quê cha đất tổ sinh sống. Thời gian ở ẩn, Bà nén đau thương, lo
lắng khai dân, lập ấp. Bà được hai viên tướng thân tín của Nhà Trần là Trần
Quốc Trung và Nguyễn Thời Kính ra tay giúp đỡ. Nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa, hai
tướng này đều xin gia nhập nghĩa quân. Lê Lợi gặp hai mẹ con bà Bạch Ngọc, thấy
Huy Chân xinh đẹp, lại thuỳ mị, Vua bèn lựa làm Cung phi. Từ đó, uy tín của Lê
Lợi càng cao, ông thu nạp được thêm nhiều con cháu, bề tôi nhà Trần vào tụ
nghĩa. Công chúa Huy Chân, sau khi lấy Lê Lợi, sinh được một con gái, đặt tên
là Ngọc Châu, tức Trang Từ Công chúa. Về sau, Trang Từ kết duyên với Minh
Quận công Bùi Ban, con ông Bùi Bị. Lấy nhau chưa có con, Bùi Ban bị thương rồi
mất tại làng Thổ Hoàng, huyện Hương Khê. Hết tang chồng, Trang Từ lại tái giá
cùng Khôi Quận công Trần Hồng, người làng Đồng Lạc, phủ Đức Thọ. Năm 1428, đuổi
xong giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Vua Lê Thái Tổ lên ngôi chí tôn. Để lánh xa trần
tục, bà Trần thị xin lập chùa Diên Quang tự (chùa Am) để sớm hôm
vui cùng kinh kệ, trong cảnh gió núi trăng ngàn. Huy Chân cũng về tu cùng mẹ
tại chùa này. Năm năm sau, Công chúa Trang Từ bỏ Trần Hồng, cùng về tu tại chùa
Am cùng mẹ và bà.
III. MỘT SỐ NHÂN VẬT HƯƠNG KHÊ THỜI LÊ TRUNG HƯNG (1533
- 1789)
1. Trần Phúc Hoàn[7]
Theo những đoạn văn bia còn đọc được
khắc vào năm 1708 lưu giữ tại chùa Bảo Lâm thì Trần Phúc Hoàn (1650 - 1725) có
binh nghiệp to lớn và quan trọng. Từ Chánh đội trưởng, ông được phong chức Đề
đốc, tước Vinh Cường hầu, sau phong chức Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân,
Tham đốc thần Võ, Tứ vệ quân vu sự, tước Vinh Quận công. Ông làm Phụ đạo châu
Quy Hợp liên tục nhiều năm có nhiều cống hiến to lớn với triều Lê tại một vùng
biên ải Tây- Nam Đại Việt.
Trước hết, Trần Phúc Hoàn là người có
công quản lý một địa bàn hành chính rộng lớn vùng Tây- Nam với nhiều bộ tộc quy
phục quốc gia Đại Việt thời Lê - Trịnh. Châu Quy Hợp lúc này gồm có 12 sách
người Việt và 4 động người Lào. Nhiệm vu chính của cai quản Trần Phúc Hoàn là
quán triệt các chính sách của triều đình, cai quản, phủ dụ dân chúng, đảm bảo
chế độ cống nạp đều đặn theo quy định 3 năm một lần. Tuy nhiên, đây là một vùng
rộng lớn địa hình hiểm trở, nhiều bộ tộc lớn nhỏ phân bố rải rác, cuộc sống hết
sức khó khăn. Mặt khác, do tính chất tự trị nên những bộ tộc lớn và giàu thường
ức hiếp, cướp bóc lẫn nhau. Nhưng dưới thời cai quản của Trần Phúc Hoàn, các bộ
tộc ở các động - sách đều tuân thủ quy phục quan Phụ đạo, uy tín của họ Trần
được đề cao, không có hiện tượng phản nghịch hay nổi dậy chống triều đình.
Công lao to lớn nhất của Trần Phúc
Hoàn phải kể đến là việc khai thông và mở rộng con đường Trìm Trẹo nối liền Đồn
Quy Hợp với nước Lào ở vùng Cuộn- pa- văng (cách Thà Khẹc 15km). Trước đây, con
đường này chỉ là con đường mòn nhỏ, qua nhiều dốc cao, suối sâu, đi lại hết sức
khó khăn dài gần 150km. Đây là tuyến giao thông quân sự, kinh tế cực kỳ quan
trọng giữa Lào và Đại Việt trong nhiều thế kỷ. Đường Trìm Trẹo được ghi vào
sách địa lý quân sự “Nhất thống dư địa chí” soạn năm 1808 dưới triều Gia Long
(Nguyễn). Nhờ có con đường này nên việc buôn bán hai chiều giữa hai quốc gia
ngày càng phát triển và vùng đồn Quy Hợp nhanh chóng trở thành thương điếm sầm
uất với đủ các loại hàng Việt Nam, Trung Quốc và Lào như đồ sứ, đồ kim loại,
vải lụa, muối ăn, lâm thổ sản quý, súc vật - kể cả voi, ngựa. Tư liệu Quy Hợp
còn cho biết, đời Tây Sơn, Bộ hộ Triều đình Phú Xuân đã cử một quan cao cấp về
Quy Hợp để chỉ đạo việc thu thuế xuất nhập khẩu. Trìm Trẹo còn là con đường
hành quân của voi trận và quân lính triều đình từ Trấn Nghệ An nhiều lần tiến
đánh bọn phản loạn Lào- Xiêm uy hiếp châu Quy Hợp, hoặc giúp Lào đánh Xiêm xâm
lược. Như năm 1792, Đại Tư khấu Định Quận công, tổng chỉ huy quân đội ở Nghệ An
đã điều 3 vạn quân tình nguyện Việt Nam đi đường Trìm Trẹo qua giúp Lào
đánh đuổi giặc Xiêm giải phóng bản mường.
Giá trị và ý nghĩa của con đường Trìm
Trẹo còn là con đường giao hiếu về ngoại giao và chính trị giữa hai quốc gia trong suốt ba bốn thế kỷ
liên tục. Các đoàn sứ bộ công án, điều đình, cống nạp của Lào đều đã đi theo
con đường này qua đồn Quy Hợp để đến kinh đô Đại Việt - Thăng Long.
Quận công Trần Phúc Hoàn còn là người
có công xây dựng và hưng công lập chùa Bảo Lâm làm nơi tu hành cho các đạo hữu
tín đồ đạo Phật, giúp con người hướng thiện diệt ác. Cả gia đình ông đều quy y
đạo Phật. Trần Phúc Hoàn có đạo hiệu Pháp Chưởng, vợ ông là Phan Thi Sau lấy
đạo hiệu Từ Hòa. Ông bà cùng các con trai, con gái cúng nhiều ruộng vườn, tiền
bạc để xây dựng chùa Bảo Lâm, làm cho nhiều người khác cũng tự nguyện đóng góp
công của xây dựng chùa.
Theo văn bia chữ Hán khắc trên bia
dựng ở Chùa Bảo Lâm cho biết, Chùa được khởi dựng từ năm 1695, năm 1708 thì
hoàn thành và dựng bia ghi công xây dựng chùa.
Quy mô xây dựng chùa khá lớn, gồm hai
tòa đặt trong khu rộng khoảng 1ha. Tòa thượng là nơi đặt hệ thống tượng Phật và
bàn thờ, tòa hạ là nơi hành lễ. Nhiều văn bản trong hòm Tư kiệu Quy Hợp cho
biết, Chùa có nhiều ruộng vườn, nhiều sư sãi, tiểu tăng hành đạo.Con cháu họ
Trần được giao bảo thủ chùa, hư hỏng phải sửa chữa tu bổ và được trừ suất sưu
và đi lính. Chùa Bảo Lâm trở thành như một trung tâm Phật giáo, thu hút đông
đảo đạo hữu trong vùng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của dân chúng nên được bảo vệ
khá nguyên vẹn đến ngày nay. Riêng hai ông bà Trần Phúc Hoàn, sau khi mất được
nhân dân và con cháu tôn vinh đã được tạc tượng đặt trong khảm gỗ để thờ ở chùa
Bảo Lâm đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
Công lao đóng góp của Trần Phúc Hoàn
là hết sức to lớn. Ông là một cai quan, một chỉ huy tài giỏi vừa là Phụ đạo
châu Quy Hợp, kiêm Tổng binh đồn Quy Hợp và kiêm chức Thống sự với Lào, trấn
giữ một vùng biên ải rộng lớn phía Tây- Nam Đại Việt, xây dựng châu Quy Hợp
thành một vùng phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội, quân sự và ngoại giao.
Khi đương nhiệm ông giữ những chức vụ cao nhất, được phong thưởng hậu hĩnh với
rất nhiều đất đai, của cải, chức tước cao sang, quyền quý to lớn. Sau khi mất,
được phong làm phúc thần tước hiệu Đại vương và lập đền thờ phụng tại quê
hương, nhân dân quen gọi là đền cụ Quận. Nhân dân Lào yêu kính và ghi ơn ông
cũng lập đền thờ ông tại bản Tơng (thuộc sách Trú - cẩm châu Quy Hợp xưa).
2. Dương Đô
Dương Đô (? - 1676), tước hiệu là Ngọc Kê công, quê quán
làng Thiên Mộ, xã Bàu Lăng, phủ Đức Quang, đạo Nghệ An (nay là xã Phúc Đồng,
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). Mất ngày 16 tháng 02 năm Bính Thìn (1676), mang
thần hiệu là thần tổ Đức Bẩm Đại vương.
Khi còn nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, có chí học hành
và sức khỏe, tài kiêm văn võ hiếm ai sánh kịp. Lớn lên, được cử làm Tổng quản
tổng Thổ Hoàng, kiêm Kiểm sát tổng Thổ Lợi, Chu Lễ và Quy Hợp (bấy giờ, Hương
Khê gồm các tổng Phương Điền, Thổ Hoàng, Thổ Lỗi, Chu Lễ và Quy Hợp).
Lúc bấy giờ vào khoảng đầu thế kỷ XVII, nước nhà có loạn
giặc núi ở vùng biên viễn phía tây của tổ quốc gồm 12 động, sách từ xã Phú Gia
giáp Trường Sơn sang Lào làm cho nhân dân điêu đứng. Nhà vua biết ông có tài
nên triệu ông vào cung giao cho chức quản cơ, cấp bằng “Vệ quốc đốc linh”,
phong làm tướng quân chỉ huy một đội quân tuyển từ ba tổng, ngày đêm luyện tập
và đóng đồn ở xã Trúc Lâm (chợ Trúc ngày nay). Khi quân lính thành thạo võ
nghệ, kỷ luật, chiến thuật nhà binh, ông dẫn đến vùng biên ải dẹp trừ giặc cỏ ở
sông Nại Hà nhằm bảo toàn lãnh thổ thiêng liêng nơi biên cương tổ quốc. Với tài
trí vốn có của mình, cộng thêm kinh nghiệm và am hiểu địa phương, khi còn làm
tổng quản, ông chỉ huy đội quân đánh tan quân giặc và tiếp tục nhiệm vụ ngày
đêm tuần tra biên giới quét sạch tàn dư quân giặc, bảo vệ nhân dân yên ổn làm
ăn, sinh sống. Nhờ lập nhiều chiến công, ông được phong tước. Từ tước hầu ông
được phong lên tước công, một tước vị cao nhất dưới thời Hậu Lê.
Đội quân đang trên đà chiến thắng thì chẳng may trong
lúc đưa quân tuần tra biên giới, đêm đến nghỉ tại trận tuyến cũ ở núi Nhạc Sơn,
thôn Phú Lâm, xã Phú Gia, ông mắc võng nằm ngủ dưới sự canh gác của quân lính.
Đột nhiên, một con hổ lớn xông tới chồm cắn ông chết. Được tin ông mất, nhà vua
lấy làm thương tiếc và ban sắc phong tặng chức tước và cho phép nhân dân thôn
Phú Lâm, xã Phú Gia lập đền thờ ông. Đền Ngàn Trụ hiện còn lưu giữ lại 03 đạo
sắc trong đó có 01 đạo thời Lê, 02 đạo thời Nguyễn.
3. Ngô Đăng Minh
Ngô Đăng Minh quê ở làng Trúc Lâm xã Hà Linh là cháu nội
Thái bảo Thế Quận công Ngô Cảnh Hựu (Trảo Nha, Can Lộc). Sinh ra và lớn lên
trong gia đình dòng dõi vọng tộc, được sự dạy dỗ trực tiếp của cha là hiệu sinh
Ngô Phúc Ngôn (Ngô Đăng Khản, Ngô Đăng Quang) nên Ngô Đăng Minh học rộng, tài
cao. Mùa xuân năm Chính Hòa thứ 15 (1694), đời vua Lê Hy Tôn, Ngô Đăng Minh đã
đậu trong kỳ thi Đình ở Thăng Long.
Năm Chính Hòa thứ 26, Bồn Man xâm chiếm bờ cõi, Ngô Đăng
Minh vâng chỉ ra biên cương dẹp giặc. Thắng lợi trở về ông được sắc phong “Đặc
Tiến Kim Tứ, vinh lộc đại phu, tư lễ Giám, Tả đề điểm, án trung hầu, trụ quốc
thượng liên”. Sau khi bờ cõi biên cương đã yên giặc ngoại xâm, cha con Ngô Đăng
Khản, Ngô Đăng Minh đã góp công sức tiền của của mình vào việc phát triển kinh
tế, mở mang dân trí, chăm lo cứu giúp đời sống dân nghèo. Cả vùng phía Tây
huyện Hương Khê như vùng Thượng Bình (Hương Bình, Hương Phú, Hương Long, Phúc
Đồng với hơn 200 mẫu ruộng đã được khai phá đưa vào canh tác. Ông mất ở Thăng
Long được nhà vua cho quan quân tùy tùng đưa thuyền chở quan tài về an tang ở
quê nhà Trúc Lâm. Mộ và đền thờ Đức Hầu Ngô Đăng Minh được vua ban sắc hiệu là
Bản thuộc thành hoàng, Dực bảo Trung hưng quang ý Trung đẳng thần, tôn thần.
Đền thờ và mộ đức hầu Ngô Đăng Minh là một kiến trúc cổ, những đồ tế khi, đại
tự, câu đối có giá trị nghệ thuật cao. Hạ điện được xây dựng trên một sườn đồi,
trên cùng gian giữa có treo bức đại tự sơn son chữ đen “quang tiền dư hậu”,
phía dưới có bức đại tự “Vĩnh ngôn hiếu tự” và hai bên có câu đối “Đức thao
thiên bồi Hồng Lĩnh tú”, “Phúc ngôn địa dẫn Trúc Giang thanh”. Ngôi đền đã được
xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia năm 1993[8].
Căn cứ vào Gia phả dòng họ Võ (bản chữ Hán) lập vào năm
Đinh Dậu, Thành Thái thứ 9 (1897), được lập lại vào năm Giáp Tý, Khải Định thứ
9 (1924), cùng một tài liệu gốc về chỉ, thị và sắc của thời Lê Cảnh Hưng phong
cho ông Võ Đình Cận từ những năm 1741-1759 (hiện được lưu giữ tại Nhà thờ họ
Võ), qua khảo sát thực tế các di tích lịch sử tại địa phương xã Hương Giang như
Đập họ Võ (do Võ Đình Cận xây dựng), nhà thờ họ Võ, cho chúng ta biết Võ Đình
Cận sinh vào khoảng năm Ất Dậu - 1705 tại làng Hà Đông, xã Phúc Lộc, huyện
Hương Sơn (nay là xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh).
Võ Đình Cận sinh ra trong một gia đình nông dân ở một
vùng quê hẻo lánh, điều kiện học hành rất khó khăn, lớn lên đã sớm gia nhập
quân đội của nhà Lê - Trịnh. Trải qua thời gian phục vụ trong đội quân của vua
Lê chúa Trịnh, ông đã lập được nhiều chiến công, được chúa Trịnh ghi nhận, cất
nhắc lên chức Phó đội trưởng, Chánh đội trưởng, Tả đội, chỉ dụ ghi rõ (đã dịch
nghĩa): “Đại Nguyên soái Tổng quốc chính Thượng súy Minh Đô vương (Trịnh Doanh)
chỉ: Do quan Tổng binh Nguyễn Gia Ngộ trình: “Chỉ huy bản xứ đồn Hương Phúc,
Đồng tri Trương thọ Hầu Phạm Bình xin phong cho ông quan tên là Võ Đình Cận quê
ở xã Phúc Lộc, huyện Hương Sơn sung chức Chánh phó Đội trưởng thuộc bản đồn,
đặt dưới quyền Phủ chúa vào việc đánh giặc. Nếu lười hay nghịch trái đã có phép
quân, nay lĩnh”.
(Ngày 2 tháng Tám, Cảnh Hưng năm thứ 2 - 1741).
Tiếp đó, có sắc phong (đã dịch nghĩa): “Sau cuộc họp
bình xét của ông Trương Thọ hầu, vâng sai giữ đồn Hương Phúc báo: “Ông Đậu
chính Võ Đình Cận, quán xã Phúc Lộc, huyện Hương Sơn, đã dài ngày liêm cần điều
khiển việc quân và đã từng giữ chức Chánh đội trưởng đồn Hương Phúc, nay được
thăng chức Tả đội xướng suất binh lính trong đội để đánh giặc. Nếu không siêng
năng hay gây trở ngại đã có phép quân”.
(Ngày 11 tháng 2 năm Cảnh Hưng thứ mười ba - 1752).
Đặc biệt trong năm 1759, Cảnh Hưng năm thứ 20, Võ Đình
Cận đã tham gia phối hợp đánh nhiều trận lớn, lập được nhiều chiến công, phá
tan sào huyệt của giặc, được phong sắc chức Trung úy tước Bá (nguyên văn chữ
Hán), như sau:
Dịch nghĩa: Sắc ông Cán trung Võ Đình Cận Phó Chánh đội
trưởng quán xã Phúc Lộc, huyện Hương Sơn, làm Tùy thiêm sai năm phủ, Phủ đô
đốc, Tả đô đốc, quan quân hội chánh đánh được tướng giặc và phá được sào huyệt
kín của giặc ở các đạo Thanh Hoa, Sơn Tây, Tuyên Hưng, các con em có công dự
đánh đã có chỉ chuẩn, nay đặc thưởng cách: thăng chức Trung úy, tước Bá, Tráng
tiết tướng quân thiết kỵ úy thiên định trung sở, Trung úy trung liệt.
(Ngày 13 tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 20 - 1759).
Hương Khê quê hương ông nói chung và xã Phúc Lộc nói
riêng lúc bấy giờ vẫn còn là một vùng đất rộng lớn, đồi núi hoang vu rậm rạp,
dân cư thưa thớt, nghèo nàn và lạc hậu. Hiểu thấu tình cảnh ấy, với lòng thương
cảm sâu sắc, Võ Đình Cận đã chiêu tập nhân dân khai hoang đất đai, mở rộng
ruộng đồng, lập làng phát triển kinh tế. Qua nghiên cứu khảo sát thực tế tại
địa phương quê hương, ông Võ Đình Cận đã quyết định xây dựng đập nước để lấy nước
tưới tại Khe Ba Mũi, nơi núi rừng âm u, đầy thú dữ, rừng thiêng nước độc. Sau
gần 4 năm lao động miệt mài, với sự hỗ trợ và giúp đỡ của nhân dân địa phương,
một con đập nước được xây dựng mang tên đập họ Võ hay đập Võ Đình Cận, cùng với
hệ thống mương máng dẫn thủy nhập điền hoàn chỉnh, tưới tiêu cho hàng trăm ha
ruộng lúa, nhờ vậy năng suất lúa tăng cao, cuộc sống của nhân dân ngày càng no
ấm và ổn định. Ngày nay, đập nước Võ Đình Cận đang còn phát huy tác dụng tưới
tiêu cho đồng ruộng toàn vùng và được nâng cấp lên thành một đập nước vào loại
tương đối lớn, cùng với những quy hoạch kênh mương bằng bê tông trên cơ sở hệ
thống kênh mương ngày xưa do ông Võ Đình Cận hoạch định. Để nhớ ơn ông đã đưa
lại ấm no hạnh phúc, sau khi ông mất nhân dân địa phương đã lập đền thờ ông
ngay tại nơi mà hàng ngày khi còn sống ông đã tận tâm tận lực xây dựng con đập,
làng xã đã trích 9 sào làm ruộng hương hỏa để dùng vào việc thờ cúng cho ông.
Mai Xuân Lâm sinh năm Tân Hợi (1731). Sinh thời, ông nổi
tiếng là người thông minh, có chí hướng, giỏi văn chương thơ phú, tướng mạo
tráng kiện, võ nghệ cao cường, năm Canh Ngọ (1750) trúng khoa thi Tam trường.
Lớn lên trong thời loạn lạc, đất nước có nhiều biến động, dân tình đói khổ lầm
than, triều đình rối ren bất lực, ông không tiến thân bằng khoa cử quan trường
mà tham gia binh nghiệp bảo vệ giang sơn đất nước. Sau khi gia nhập quân đội,
với tư chất và tài thao lược bẩm sinh, triều đình đã tin cậy giao cho ông chỉ
huy nhiều trận đánh ngăn chặn thổ phỉ từ Quảng Tây sang cướp phá biên cương và
đánh dẹp phản loạn cát cứ chống lại triều đình ở Hưng Hóa, Sơn Tây và Nghệ An,
góp phần giữ vững cương thổ quốc gia và ổn định xã hội.
Với những đóng góp đó, ông đã được vua Lê Cảnh Hưng ban
nhiều đạo sắc, bằng ghi nhận công lao trong sự nghiệp bảo vệ và chấn hưng đất
nước. Đáng tiếc, trải qua thời gian biến thiên của lịch sử, các sắc phong đã bị
hư hỏng, mất mát, hiện nay, tại di tích chỉ còn một đạo sắc phong do vua Cảnh
Hưng phong tặng.
Qua các tư liệu lịch sử, có thể khẳng định rằng Mai Xuân
Lâm là một trung thần trung quân ái quốc. Những đóng góp của ông trong việc
giúp chính quyền đương thời dẹp tan phản loạn, giữ ổn định tình hình đất nước
trong bối cảnh lúc bấy giờ rất xứng đáng được tôn vinh, ghi nhận.
IV. DẤU TÍCH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA TÂY SƠN (THẾ KỶ
XVIII) TRÊN ĐẤT HƯƠNG KHÊ
Các nhà sử học cho rằng, khi tiến quân ra Bắc, tiêu diệt quân Thanh
(1789), Quang Trung hành quân qua Thượng Đạo - con đường qua Hương Khê. Vì thế,
nhân dân Hương Khê đã có điều kiện tham gia nghĩa quân đánh giặc. Sau thắng
lợi, Hương Khê còn là bàn đạp cho đội quân của Quang Trung khi tiến sang đất
Lào tiêu diệt quân Xiêm-la xâm lược. Bến sông chợ Trúc, chợ Sòng là những nơi
đón tiếp chiến thuyền quân Quang Trung từ Đức Thọ lên. Đồn Quy Hợp (Hương Vĩnh)
là nơi thực hiện sự bang giao giữa quốc gia Đại Việt với Ai Lao và Xiêm thời kỳ
này (chính sách của nhà Tây Sơn được thể hiện trong thư của "Hòm tư liệu
Quy Hợp"). Làng Vạn Gia (thuộc xã Gia Phố ngày nay) là trạm đón tiếp đội
quân của Quang Trung. Xã Gia Phố ngày nay vẫn còn đền thờ Quang Trung: đền được
xây dựng trên mảnh đất mà vua Quang Trung đã đóng quân. Trong đền hiện còn có
tượng các tướng lĩnh và voi ngựa của vua Quang Trung được tạc bằng gỗ mít còn
lưu giữ được. Ngày nay, nhân dân trong vùng quen gọi là đền Voi Ngựa. Ở đền còn
lưu hai câu đối[11]
nói lên cảm nhận về cảnh sắc thiên nhiên, sông núi, con người mà tương truyền
của vua Quang Trung khi tới nơi đây.
V. HÒM TƯ LIỆU QUY HỢP[12]
– NHỮNG PHÁT HIỆN CÓ Ý NGHĨA LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KINH TẾ, NGOẠI GIAO
1. Đôi nét về đồn
Quy Hợp
Quy Hợp là tên cũ một đồn binh hay một cửa ải biên thùy
giữa Đại Việt và Ai Lao, là tên của một tuyến giao thông lịch sử nổi tiếng,
cũng là tên một châu rộng lớn, rồi đến một tổng quan trọng ở vùng biên giới
Việt Nam - Lào tại huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là vùng tiếp giáp với
tỉnh Khăm-muộn nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ngày nay.
Đồn Quy Hợp cũ đóng bên hữu ngạn sông Tiêm, đối diện bên
kia sông là chợ Gia (thuộc xã Phú Gia), ngày nay thuộc xã Hương Vĩnh. Châu Quy
Hợp ngày trước bao gồm một phần đất huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình), một phần đất
huyện Hương Khê và một số bản làng cũ (trên giấy tờ xưa gọi là động và sách). Theo
sử cũ, đồn Quy Hợp có từ thế kỷ XI, triều Lý của Đại Việt. Từ thế kỷ XV về sau,
đến khoảng năm 1850, đồn này do một viên Tổng binh đứng đầu. Quân lính thực
hiện theo chế độ thổ binh: lấy người địa phương, cha về con ra thay, sống nhờ
vào tự sản xuất trên số ruộng do làng xã cấp, nhất là dựa vào việc buôn bán với
Lào.
Chức Tổng binh kiêm cả chức cai trị toàn châu Quy Hợp
gọi là chức Phụ đạo châu Quy Hợp đồng thời còn kiêm cả chức Thông sự với Lào,
tức là chức quan có nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh của chính quyền phong kiến
Đại Việt tới các vùng thân thuộc trên đất Lào, tên cũ các vùng này gọi chung là
xứ Lạc Hoàn.
2. Hòm tư liệu
Quy Hợp là gì?
"Hòm tư liệu Quy Hợp" là một tráp công văn của
nhiều đời Tổng binh (Phụ đạo) châu Quy Hợp, cũng tức là của nhiều đời Thông sự
Lạc Hoàn được ông Trần Văn Quý phát hiện tháng 8 năm 1974 tại nhà thờ cụ Trần Phúc
Hoàn (cụ mất vào giữa thế kỷ XVII), nguyên là một vị quan có võ nghiệp lớn với
thành tích đáng kể là mở mang đường mòn Trìm - Trẹo thành đường giao thông quân
sự - kinh tế với nước Lào, được phong đến chức Quận công. Hiện nay, cạnh đồn
Quy Hợp cũ còn có cả đền thờ cụ và nhà thờ họ Trần Phúc.
Từ năm 1981, phát hiện quan trọng này đã được ông Trần
Văn Quý công bố trong nhiều bài viết và công trình nghiên cứu. Một số bài viết
đã được đăng trên báo chí đối nội và đối ngoại của Việt Nam.[13]
3. Tóm tắt giá
trị độc đáo của hòm tư liệu Quy Hợp
Thứ nhất, hầu hết các văn bản đều là công văn, nghĩa là
giấy tờ nói việc công của đồn Quy Hợp, của châu Quy Hợp, của quan hệ bang giao
Việt - Lào thông qua chức Tổng binh Quy Hợp kiêm thông sự với Lào. Ở đây có các
loại trát, lệnh, tờ truyền của cấp huyện, cấp tỉnh (xưa gọi là trấn Nghệ - An),
cấp chính phủ thời Lê - Trịnh bên Việt Nam, của Thượng thư bộ Hộ. Có cả tờ
chiếu của vua Cảnh Thịnh đời Tây Sơn, có tờ chiếu của vua Thiệu Trị triều
Nguyễn. Có nhiều loại sổ đinh, sổ thuế, tờ khai, đơn từ từ dưới lên. Có nhiều
thư từ qua lại giữa chính quyền Việt Nam và chính quyền Lào đương thời.
Thứ hai, khối lượng khá đồ sộ: có tất cả 300 văn bản lớn
nhỏ, gồm 685 tờ giấy bản cũ, hầu hết bằng chữ Hán, chữ Nôm, có khả nhiều văn
bản chữ Lào. Tất cả đều viết bằng bút lông, mực tàu, trên giấy bản (loại giấy
đặc sản của Việt Nam làm bằng vỏ cây gió - Aquilaria crassna - cũng là cây trầm
hương - bois d’ aigle).
Thứ ba, niên đại các văn bản tương đối liên tục từ 1619
đến 1880. Trong khoảng 250 năm ấy có niên đại nhiều triều vua Việt Nam: Vĩnh
Tộ, Bảo Khánh, Vĩnh Hựu, Cảnh Hưng (triều Lê), Thái Đức, Quang Trung, Cảnh
Thịnh, Bảo Hưng (triều Tây Sơn), Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (triều Nguyễn).
Văn bản liên tục nhất là từ năm 1770 (triều Lê) về sau. Văn bản nhiều nhất là
đời Nguyễn (1802 - 1880).
Thứ tư, tất cả các văn bản đều là loại bản gốc. Rất
nhiều văn bản có nguyên ấn son đỏ chói, còn nguyên cả loại giấy “quan dụng”
đương thời, rất trang trọng và đẹp. Nếu là bản sao thì cũng là bản sao đầu tay
nghĩa là không qua sao chép nhiều lần, làm mất dạng bản gốc. Cho nên giá trị về
mặt văn bản học không có gì đáng nghi vấn.
Thứ năm, về nội dung các giấy tờ, phần lớn là ngắn, phản
ánh những sự việc lớn nhỏ thuộc rất nhiều lĩnh vực: quân sự, bang giao, kinh
tế, tài chính, hành chính, dân sự, lệ tục… (chiến sự cụ thể, tổ chức và thể chế thổ binh,
tiến cống voi và sản vật địa phương, lệ tục, hương ước, lệ làng, khiếu nại,
kiện tụng, bán đợ con… có thể hình dung bộ sưu tập như bộ sưu tập bách khoa của
một tổ chức xã hội thuộc loại hình đặc biệt, ở vùng rừng núi, tồn tại trên một
địa bàn xác định đã qua đi mà ngày nay không còn thấy dấu vết đâu nữa.
Có thể nói rằng, vì nhiều lý
do khác nhau, chưa thấy nơi nào giữ được một khối lượng tư liệu phong phú, tập
trung, liên tục nhiều đời như thế trên một địa điểm lịch sử đã có tiếng từ rất
xưa.
Về quan hệ lịch sử Việt - Lào
trong các triều đại phong kiến thì kho tư liệu này có một không hai ở Việt Nam.
Trong đó có ba văn kiện nhất quán về chính sách của nhà Tây Sơn khi phát triển
thương mại với Lào.
Văn kiện một: là một cái lệnh
nói về việc khai thông buôn bán qua Quy Hợp. Tờ lệnh bằng chữ Hán của quan
huyện Hương Sơn tên hiệu là Hổ Tướng gửi quan chức đồn Quy Hợp ngày 01.9.1787.
Tờ lệnh còn nguyên dấu ấn son. Nội dung (dịch phần chính): “Bước đầu, việc cai
trị vỗ về dân chúng cốt yếu là nới rộng để thông thương nghề buôn bán. Bởi vậy,
từ nay cho phép người buôn kẻ bán qua Quy Hợp được thông thương với nhau. Các
ông không được tự tiện bắt người ta nộp tiền trình và sản vật”.
Văn kiện hai: Đề ngày 17 tháng
10 năm Quang Trung thứ 5 (30.11.1792)1:
quan đầu tỉnh Nghệ An là Dụ Lộc Hầu gửi quan chức đồn Quy Hợp: “Miền thượng đạo
của đồn (tức xứ Lào) thường đưa lợn về bán đi qua đồn. Tôi nhờ hai ông mua hộ,
mỗi ông ba con, hai ông sáu con, gửi về bản doanh. Số tiền hết bao nhiêu sẽ trả
lại đủ”.
Văn kiện ba: Là một công văn
giảm thuế trâu. Đây là tờ truyền của Khâm sai Đại đô đốc chức hiệu là Định Quận
công gửi quan viên chức của bộ Hộ thường trực ở đồn Quy Hợp, chức hiệu là Sâm
Thanh Hầu.
Công văn bằng chữ Hán, đề ngày
01 tháng 3 năm Cảnh Thịnh thứ 3 (19.4.1795), còn nguyên dấu ấn son. Nội dung
(dịch): “Trước đây đánh thuế trâu nhất loạt mỗi con giá 15 quan, thu thuế 1
quan 5 tiền. Nay định lại, trâu chia hai hạng: trâu lớn giá mỗi con 10 quan,
trâu choai giá 8 hoặc 7 quan. Mức thuế 10 phần lấy 1, còn trâu nghé đang theo
mẹ thì miễn để nới rộng nghề buôn”.
Theo Việt sử thông giám cương
mục (bản dịch, quyển 19, tr.55), năm 1777, Nghệ An bị đói to, quan tỉnh Nghệ An
là Nguyễn Khản đề nghị chúa Trịnh “Mở đường châu Quy Hợp cho phép dân được
thông hành buôn bán”. Nhưng thực tế là việc buôn bán qua Quy Hợp vẫn bế tắc.
Cái lệ tệ hại nhất được thi hành ở đồn này từ lâu là lệ thu “tiền trình” và
hàng hóa của người buôn “như một khoản thuế nộp quan để mua đường đi lại”. Nộp
thuế thì dù có nặng cũng chỉ nộp một lần và một nơi nhất định. Nộp tiền lấy
biên lai rồi là xong. Còn thu “tiền trình” và hàng hóa thì không có mức độ nào
cả. Đồn Quy Hợp ngoài đồn chính ở cạnh chợ Tiêm ngày nay còn có một hệ thống
đồn nhỏ gọi là phân thủ nằm trong rừng sâu. Ví dụ: cách đồn chính 5km là phân
thủ Động Ngang, cách 10km là phân thủ Động Tuần. Trên đường sang Lào qua núi
Trìm Trẹo còn một số phân thủ nữa.
Có cái lệ thu "tiền
trình" thì cả quan và lính đồn chính, phụ đều có nhiều cơ hội để cướp bóc
tiền của người Lào về hay người Việt Nam đi, làm cho họ không còn buôn bán được
nữa. Trước đó, nhà quý tộc Nguyễn Khản chỉ thấy yêu cầu “Mở đường Quy Hợp” mà
không thấy đề xuất được cái gì cụ thể để mở đường. Người anh hùng áo vải Nguyễn
Huệ lúc này còn là Bắc Bình vương, mới chiếm Nghệ An chưa lên ngôi Hoàng đế đã
kịp thời ra lệnh cho cấp dưới thi hành biện pháp then chốt nhất để khai thông
bế tắc.
Văn kiện thứ nhất cho thấy rõ
tầm nhìn của Nguyễn Huệ đối với yêu cầu thu phục dân Nghệ An, đối với yêu cầu
phát triển thương nghiệp với Việt Nam và cả đối với vấn đề đặt cơ sở kinh tế để
liên minh chính trị với Lào, đã cao hơn hẳn tầm nhìn của các thức giả thời đại
ông.
Văn kiện thứ hai là bằng chứng
cho thấy rõ cửa ải Quy Hợp đã khai thông, việc buôn bán với Lào đã phát triển
tốt. Lợn của Lào đưa về Quy Hợp nhiều và rẻ thì ông quan tỉnh này mới gửi công
văn nhờ cấp dưới mua hộ một lúc 6 con. Đắt quá chắc ngài không mua bởi lợn chở
thuyền từ Quy Hợp về đến cơ quan tỉnh (ở thành phố Vinh ngày nay) phải mất hai
ngày đêm.
Văn kiện thứ ba mách cho chúng
ta rằng ở đồn Quy Hợp đã có hẳn một viên chức cao cấp của triều đình về thường
trú để chỉ đạo thu thuế. Vậy Quy Hợp đã trở thành một trung tâm trao đổi, buôn
bán hàng hóa Việt - Lào. Điều quan trọng hơn, việc buôn bán với Lào quả là quốc
sách do vua Quang Trung khởi xướng, và được triều đình Tây Sơn sau vua Quang
Trung tiếp tục thực hiện nhất quán và mở rộng (giảm thuế nhập khẩu năm 1795).
Chắc chắn rằng có lợi cho nền kinh tế cả đôi bên. Nhìn về phía Lào, ta dễ dàng
nhận thấy chính sách này rất được lòng dân Lào. Bởi vì cửa ải Quy Hợp có khai
thông thì dân Lào cả vùng rộng lớn này của vương quốc Viêng Chăn mới bán được
các thứ hàng vốn là truyền thống xuất khẩu của họ: lợn, ngựa, trâu, ngà voi, tê
giác, xương hổ, xương khỉ, sáp ong, nhựa thông, trầm hương, tốc hương, sa nhân,
sợi móc làm nón, gấm địa phương, gạo, ngô và để mua của Việt Nam những thứ rất
cần: muối, vải, dao rựa, đồ sắt, lưỡi cuốc, nồi đồng, mâm thau, lụa, giấy, mực
viết, thuốc men và nhiều hàng cao cấp phục vụ tầng lớp trên.
4. Ảnh hưởng của đồn Quy Hợp trong giao thương Việt Nam - Lào thế kỷ XVIII
Ngược dòng lịch sử, chúng ta
thấy vị trí của Quy Hợp trên thị trường liên tỉnh, liên quốc gia và quốc tế
nữa. Về phía Đông, Quy Hợp thông dễ dàng bằng đường thủy với hải cảng Hội
Thống, tức Bến Thủy thành phố Vinh ngày nay. Khách buôn các nước, nhất là Trung
Quốc, đặc biệt là Hoa Kiều đã định cư lâu đời ở những trung tâm lớn của Việt
Nam. Từ Hội Thống có thể lên đến Quy Hợp để “mua tận gốc” trầm hương, ngà voi,
sừng tê và nhiều dược liệu quý khác. Điều đó có nghĩa là cách đây 200 năm,
nhiều đặc sản của vương quốc Vạn Tượng (Viêng Chăn) đã xuất khẩu ra thị trường
quốc tế phía biển Đông qua cửa khẩu Quy Hợp.
Hòm tư liệu Quy Hợp có một mẫu
biên lai ngắn cho thấy rõ điều này: Tổng binh Quy Hợp đã quá cố là Trần Hữu
Toại, trước có nhận của quan trên 150 chiếc bát sứ Trung Quốc để bán sang Lào,
giá 1 hốt bạc. Sau khi ông chết, con trai ông đã đưa bạc nộp (văn bản E23/6
tháng 6 Cảnh Thịnh tức 5.1797). Chúng ta nhớ lại rằng, trong hoàn cảnh lịch sử
của hai nước Việt - Lào nhiều thế kỷ trước, con đường núi Quy Hợp - Trìm Trẹo
(đến Thà Khẹc) là con đường giao thông thuận lợi nhất, đông khách qua lại nhất
trong số 3 - 4 con đường từ Việt Nam sang Lào. Nó là một khúc hành lang tối ưu
mà người Việt Nam và người Lào xa xưa đã phát hiện ra để nối liền biển Đông với
sông Mê Kông. Bởi mấy lẽ dễ hiểu. Nó nối liền những tỉnh trù phú nhất của hai
nước. Đường núi ở đây lại ngắn, tương đối thấp (đỉnh Trìm - 800 m, đỉnh Trẹo Mạ
- 760m, đỉnh Trẹo Con - 700m. Trong khi đó, đỉnh Trụt lại cao 1.148m và có dốc
dựng đứng (phải bắc thang mới trèo qua được) nên ít hiểm trở, dễ đi và đặc biệt
có nhiều đồi cỏ men theo các khe suối. Chi tiết này rất quan trọng, đó chính là
nguồn thức ăn, nước uống cho những đàn lợn, trâu bò, voi ngựa mà người ta đưa
đi trao đổi buôn bán. Các đường khác không có đầy đủ điều kiện tự nhiên thuận
lợi này, kể cả đường Keo Nưa sang Na Pê cũng thế. Chính vì vậy, sử cũ Việt Nam
ghi các sứ bộ Lào sang Việt Nam, các đoàn tiến cống voi phần lớn đi đường Trìm
Trẹo - Quy Hợp.
Đầu thế kỷ XX, nhiều học giả
Việt Nam và nước ngoài (Đào Duy Anh và hai người Pháp Maspéro, Pelliot, hai
người Đức Adolf, Erich Seidebfaden, một người Trung Quốc Hoàng Thinh Chương) đã
tìm cách xác định vị trí con đường nổi tiếng ấy[14]. Tuy nhiên, có lẽ chỉ có quan điểm của
Đào Duy Anh là gần đúng. Tác giả đã đoán định con đường này ở vùng rừng núi Quy
Hợp, chứ không phải theo hình đồ đường ô tô số 8 hiện nay đi sang Lào qua Keo
Nưa. Điểm xuất phát của con đường này là từ Quy Hợp chứ không phải Vụ Quang
(hai điểm này ở khác nẻo nhau và cách nhau một ngày đường - Xem bản đồ). Đây là
thượng nguồn sông Ngàn Sâu (Rào Xăn) chứ không phải sông Ngàn Trươi.
Hơn nữa, con đường lịch sử này
đã được Lê Quang Định, Thượng thư bộ Binh đời Gia Long miêu tả rất kỹ trong
sách địa lý quân sự nhan đề Nhất thống Dư địa chí, bản chữ Hán, in năm 1806, ký
hiệu Vhv. 176, Thư viện Hán Nôm, tờ 30. Thì ra, binh lính đồn Quy Hợp đã đặt
chân đến mọi đường cùng suối hẻm ở đây và hơn thế nữa đã đo đạc con đường hiểm
trở này bằng sào (sào: đơn vị độ dài gọi là tầm, tương đương 3m20). Sau đây là
vài con số về công trình thô sơ mà kỳ công của họ: Đường từ đồn Quy Hợp đến xứ
Cuộn Pa Văng tổng cộng dài 44.900 sào (tầm), phải lội qua 64 đoạn suối dài tất
cả 487 sào.
Chính vì hàng “hai chiều” qua
Quy Hợp rất nhiều nên Bộ Hộ của Triều đình Phú Xuân mới cử hẳn một viên quan
cao cấp về đóng tại đây để thu thuế. Điều này cũng giải thích tại sao một địa
điểm gần rừng núi, hẻo lánh, cách trở mà trước đây có đến hai cái chợ sát nhau.
Một là chợ Tiêm, ở ngay cửa đồn Quy Hợp, họp mỗi tháng 9 phiên. Hai là chợ Gia,
cách đồn Quy Hợp một khúc sông hẹp, lội qua dễ dàng, đường chim bay chỉ 300 -
400m, họp mỗi tháng 6 phiên.
5. Tư liệu Quy Hợp có nhiều văn kiện tập hợp thành một bộ hồ sơ về mối liên
minh chiến đấu Việt - Lào chống Xiêm (1787 - 1802)
a) Trước hết phải kể đến bức
thư của Đô đốc Định, Tỉnh trưởng Nghệ An kiêm phụ trách quan hệ với Lào, đề
ngày 3 tháng 10 năm Quang Trung thứ 5 (16/11/1792) gửi Chậu Na, Chậu Luân, Chậu
Chiểm, Chậu Luông, Pha Mật ở Viêng Chăn. Bức thư bằng chữ Nôm do Tổng binh Quy
Hợp sao lại sau khi dịch ra tiếng Lào để gửi đi. Nguyên văn đoạn chính:
“Kỳ trước các Chậu cho chánh
sứ, phó sứ đưa thư nói bị Xiêm đưa quân sang chiếm thành Viêng Chăn. Lại cho
rằng quan Nghệ An không cho họ đi kinh đô Phú Xuân để xin triều đình cất quân
sang đánh giúp. Thật ra trước tôi cho 7 người lên Lạc Hoàn và Trình Cao để xét,
nhưng vì các Chậu dẫn đường không tốt nên chẳng dò được tình hình giặc Xiêm.
Một lần xuất quân là một lần mường nước tổn phí. Nay tôi cho 4 tên quân lên.
Các Chậu hãy cho hai tên đến thành Viêng Chăn dò xem tình hình Xiêm có không,
rồi lại dẫn hai tên nữa đi do thám tình hình cho rõ. Để 4 tên ấy về trình, tôi
sẽ suy lý rồi cho thư lên trước để các Chậu sắm sửa lương hướng cho đại binh ăn
đầy đủ…”.
b) Bức thư của em vua Viêng
Chăn là Chậu Chiếm gửi Đô đốc Định, tháng 10 năm 1792. Bức thư khá dài, lời lẽ
rất chân thành, do đồn Quy Hợp dịch từ chữ Lào ra chữ Nôm, hiện còn bản lưu chữ
Nôm. Lược trích nội dung:
- Kỳ trước, tôi có sai Phìa
Chăn Thi Phả, Phìa Man Kha Thi đi với Phoọc na khi xuống trình việc mường nước
này, hiện nay nước thành Viêng Chăn bị Xiêm chiếm hết. Vua mới sai tôi xuống lo
việc mường nước (ý nói lo việc kháng chiến tại vùng núi Phoọc bản).
- Ông lớn sai 8 người đội Quy
Hợp đưa trát lên với 4 áo rồng, 4 cái khăn, 4 cái xống, 4 cái hòm ban cho. Ba
anh em chúng tôi là Xâm Kha Mật Dã vâng biết mọi việc trong trát. Ba anh em
chúng tôi rất bằng lòng, truyền cho tôi về chầu. Song tôi lo việc mường nước mà
về chầu thì sợ Xiêm nó biết, chém cả cha mẹ, anh em, dân chúng đi mất. Để giữ
lòng tin, tôi truyền cho những người đi sứ lần này ăn thề thay tôi. Nếu nước
Nam còn thương lấy chúng tôi như nước anh em ngày trước thì xin làm sao cho anh
em dân sự tôi ở bên Xiêm được trở về với mường nước.
- Xin đại quân đi đánh nước
Xiêm. Đại quân đi đường Châu Ba Vạn thì có tôi ở Phoọc bản đi rước. Đi đường
Lạc Hoàn qua Ba Na Vạn thì có Chậu Lạc Hoàn và Xâm Pha Mật rước. Đi đường Mường
Châu Ba Vạn thì có… (mất chữ) rước, đem sang sông Khoỏng trước. Còn đường Trấn
Ninh thì khoan đánh xuống, vì Xiêm còn đóng ở Thành Chăn (Viêng Chăn), nó sẽ
sai vua Thành Chăn đi đánh, sợ lỗi với Triều đình (Việt Nam).
- Đại quân lên thì xin lên cho
chóng, độ tháng Chạp… Đại quân lên tháng nào, ngày thì xin đưa trát lên tôi sắm
sửa rước.
- Lào với Xiêm lại hay lẫn
nhau khi ra trận, đại quân lên thì ban dấu tích thế nào cho khác quân Xiêm để
chúng tôi dễ phân biệt.
c) Lại có nguyên bản một công
văn lưu (tờ trình) của đồn Quy Hợp đề ngày 10 tháng 11 năm Quang Trung thứ 5
(23/12/1792), ghi rõ có 3 đoàn sứ bộ Lào sang đưa tin khẩn cấp (chữ Hán viết:
Hỏa tín, tức là tin hỏa tốc) về tình hình giặc Xiêm.
- Sứ bộ… (không rõ chữ) gồm
Chậu Ma Phủ, Chậu Ma Liệt cùng một số phìa và 19 tùy tùng, quan quân cộng tất
cả 26 người).
- Sứ bộ… (không rõ chữ) gồm
hai người.
- Sứ bộ Trình Cao gồm Đồng Tri
Cát văn bút cùng chỉ huy, phìa thông ngôn, quan quân cộng 13 người. Đồn Quy Hợp
đã cấp áo gấm (chữ Hán: cẩm giáp) cho Đồng Tri Cát văn bút và chỉ huy, phụ đạo,
còn những người khác cấp mỗi người vải 5 thước (thước cũ xấp xỉ 40 cm), tiền 10
quan.
d) Và dưới đây là bức thư cuối
cùng của Đô đốc Định Nhất Hầu gửi Chậu Chiếm và các sách trưởng nước Thành
Chăn. Thư đề ngày 9 tháng 11 năm Quang Trung thứ 5 (22/12/1792). Thư chữ Nôm do
đồn Quy Hợp sao lại ngày 24.12.1792. Trích nguyên văn đoạn chính:
“Nay xin chỉ huy Lạng Nhất Hầu
đồn Quy Hợp đưa 30 quân sĩ tiên phong lên xem tình hình giặc Xiêm mạnh yếu,
nhiều ít để liệu phương cản ngự, sau đó sẽ đưa đại binh hậu tiếp. Quyết một
phen tiễu trừ giặc ngoại xâm để các ngài được mường yên nước như cũ. Đám quân
tiên phong lên, anh em các ngài hãy lo lương hướng cho họ ăn no đủ, lại lo sắm
sửa lương thực và tiền để đại binh lên dùng cho sung túc. Rồi lại sai người
xuống cùng Lạng Nhất Hầu thăm đường cất quân mặt hậu ấy (phía Viêng Chăn - Trấn Ninh?). Phải lo gấp cho bằng được đánh
giặc để bếp nhà rạng, thôn sách bền vững như cha ông thủa trước. Tín thay”.
e) Năm bức thư đề ngày đầu
tháng 7 năm Cảnh Thịnh thứ nhất (8/1793) của chức trách 5 địa phương Lào báo về
Đô đốc Định Nhất Hầu, nói đến hậu quả tốt đẹp của chiến dịch. Cả 5 bức thư đều
ngắn do cai sách Trú Cẩm (một trong các sách động của châu Quy Hợp dịch từ chữ
Lào ra chữ Nôm (hiện còn một bản chữ Lào).
Nguyên văn bức thư của Phụ đạo
Đồng tri châu Trịnh Cao Phủ Ngọc Ma: “Ngày trước chúng tôi sai người nhà đi do
thám vùng Lũng Khuông: chẳng có việc chi. Kỳ này đức Tôn sai Thông Nhĩ đi do
thám các mường, chẳng có giặc giã chi mới trở lại đến chỗ anh em chúng tôi ngày
5 tháng 7. Xin có tờ mọn về trình lạy”. Bức thư của Chậu ấp La Xa Mường Mỗi
nói: “Không có giặc giã chi, mường nước cũng bình yên, nhờ hồng phúc của Đức
Tôn Ông. Nếu như có giặc tôi sẽ về nói với cai sách”. Một bức thư nữa không rõ
tên người gửi đề ngày 3 tháng 7 năm Cảnh Thịnh thứ nhất (9/8/1793) cũng nói rõ:
“Cai sách cho liên lạc đưa 2 người (phái viên của Đô đốc Định) đến hỏi Châu Bút
cũng chẳng có việc chi. Mường nước bình yên. Từ nay về sau, có giặc giã tôi sẽ
có tờ trình”.
Cả mấy bức thư trong tập hồ sơ
thấy rõ chiến dịch đã mở đầu năm 1793 (lúc này vua Quang Trung đã mất). Chiến
dịch do Đô đốc Định Nhất Hầu chỉ huy và đã thắng lợi lớn: đuổi hết quân Xiêm ra
khỏi nước Lào. Một trong những thắng lợi lớn của chiến dịch là rất được lòng
dân, đúng với mục tiêu chính trị mà Đô đốc Định Nhất Hầu nêu ra trong bức thư
ngày 22/12/1792: “Tiễu trừ giặc ngoại xâm để nhân dân Lào được yên mường, yên
nước như cũ, lại động viên nhau đưa hết sức mình đánh cho hết giặc để bếp lửa
nhà nào cũng trở nên sáng rạng, thôn sách nào cũng trở lại vững bền như cha ông
thủa trước!”.
Chương 2.
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN HƯƠNG KHÊ (1867 - 1945)
I. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA
NHÂN DÂN HƯƠNG KHÊ GIAI ĐOẠN 1867 - 1930
1. Hương Khê là nơi vua Hàm Nghi chọn làm căn cứ của phong trào Cần Vương
chống Pháp
Ngày 1/7/1885, khi tới Huế, âm
mưu của Cuốc xi là thủ tiêu phái chủ chiến. Biết được âm mưu đó Tôn Thất Thuyết
đã ra tay trước. Đêm mồng 4 rạng sáng mồng 5/7/1885 (Tức ngày 22 tháng 5 năm Ất
Dậu) trong khi bọn Pháp đang say sưa yến tiệc tại tòa khâm sứ bên phải sông
Hương thì cuộc nổi dậy ở kinh thành bắt đầu. Sau cuộc chính biến thất bại, thực
dân Pháp ra sức truy lùng, thấy vậy vua Hàm Nghi - Tôn Thất Thuyết quyết định
tiến ra Bắc, đến vùng Nghệ Tĩnh, khi nói với toàn quyền Pháp vua Đồng Khánh
cũng đã phải thừa nhận rằng: “…Trẫm không trông cậy vào sự quy thuận của mấy
tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình vì hai tỉnh này rất nhiều văn thân”[15].
Từ khi thất thủ thành Huế đoàn
xa giá vua đã phải vất vả lênh đênh trèo đèo lội suối hơn hai tháng trời mới
tới được Sơn Phòng Hương Khê. Sơn Phòng là một thành nhỏ tục gọi là Ấu Sơn
thuộc làng Phú Gia, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Thành này cũng mới xây từ
khi lập đường Hà Trại - Quy Hợp do Chánh sứ Nguyễn Chánh trông giữ. Ấu Sơn là
nơi núi non hiểm trở, dân cư lại ít, quân tinh nhuệ cũng không có được là bao.
Do đó, khi vua tới Nguyễn Chánh liền thông báo với các nơi, lãnh binh vùng Hà
Tĩnh là Phan Mỹ được tin vội mang 500 quân lên Sơn Phòng góp phần với Nguyễn
Chánh để hộ giá và đối phó với quân địch. Còn vua Hàm Nghi khi tới Sơn Phòng đã
lấy Ấu Sơn làm đại bản doanh và ngoài việc thôi thúc các võ quan thao luyện
quân sĩ tu bổ thành trì, nhà vua cũng ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân, sỹ
phu khắp nơi đứng lên chống Pháp.
Một số nội dung trong Long chiếu như sau:
Nước Nam
ta ký Hiệp ước với Pháp kể đã có mấy chục năm. Thoạt tiên ta nhường cho Pháp ba
tỉnh Nam Kỳ. Hai năm sau còn ba tỉnh nữa họ lại lấy nốt. Nhưng họ vẫn chưa được
thỏa mãn, họ cho món đất ấy là nhỏ mọn, không thấm vào đâu. Dùng mưu mẹo, họ
lập lãnh sự ở Huế và Bắc Kỳ, bắt buộc ta phải ký hiệp ước mới, rồi thêm bớt,
xóa bỏ không biết bao nhiêu lần. Họ quả quyết xâm lược xứ Bắc Kỳ để thu lấy
những mối lợi mà ông cha ta để lại. Nhân lúc nước ta đang có tang Dực Tôn Anh
Hoàng đế (Tự Đức), quân Pháp kéo vào cướp cửa Thuận An và đốt cháy ấn tín của
nước Tàu phong cho vua ta. Họ ép uổng ta phải cho họ đóng quân trong Hoàng
thành và nhường chỗ cho họ dàn bày súng ống. Sự ức hiếp đó dù kiên nhẫn đến thế
nào ta cũng không thể chịu được.
Tháng 5 năm nay, quân Pháp ước hơn vạn người ép ta phải
nhường lại Hoàng thành. Họ bắt vua trị dân theo như pháp luật riêng của họ. Vì
những lý do ấy, Hội đồng Cơ mật quyết khởi một trận tấn công ở Huế. Nếu quân ta
thắng thì Nguyễn Văn Tường đón Trẫm ra ngự tạm tại Nghệ An, Hà Tĩnh để Tôn Thất
Thuyết ở lại Huế, lập thế trận.
Cuộc tập công ngày 23 tháng 5 khởi từ lúc nửa đêm, giữ
mãi được đến nửa buổi sáng. Quân Pháp chết vô hạn. Bách tính đông quá không sao
cứu kịp cũng chết rất nhiều. Nhưng đó là mệnh trời, ta tránh sao được. Ngay lúc
ấy, Nguyễn Văn Tường đổi bụng, lẻn trốn vào nhà giáo Kim Long, còn Tôn Thất
Thuyết thì vẫn theo Trẫm, chống nhau với quân Pháp.
Núi non cách trở, Trẫm đi lại hai tháng mới tới miền
này. Sự chậm trễ đó đã giúp cho quân địch có đủ thời giờ bịa ra những chuyện
làm cho lòng dân chán nản.
Hiện nay Trẫm cùng với Tôn Thất Thuyết đã tới Ấu Sơn
thuộc huyện Hương Khê. Các quan trong ngoài đều tề tựu cả ở miền này.
Văn thân, dân chúng và binh sĩ cũng lần lượt ra dự việc
Cần Vương. Thế nước gặp lúc loạn ly, ta khoanh tay mà nhìn sao được…[16]
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, một làn sóng yêu nước chống
thực dân Pháp lan rộng khắp cả nước. Nhân dân ta từ Bắc chí Nam đâu đâu cũng có
người ứng nghĩa, nhất là nhân dân Hương Khê. Người lãnh đạo phong trào kháng
chiến chống Pháp ở Nghệ Tĩnh trong vòng 10 năm (1885 - 1896) là Đình nguyên
Phan Đình Phùng. Các anh hùng hào kiệt khắp 4 tỉnh Bắc Trung kỳ là Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã tự nguyện liên kết lực lượng dưới quyền chỉ
huy tối cao của cụ Phan. Nghĩa quân đã xây dựng căn cứ tại vùng rừng núi Hương
Sơn, Hương Khê (Ngày nay là huyện Vũ Quang) hiểm trở nhằm tiến hành cuộc kháng
chiến lâu dài. Từ
đại bản doanh Vụ Quang đến Hói Trùng, Hói Trí dài đến
gần một trăm dặm, nghĩa quân đều có đồn trại liên tiếp dựng lên. Đồn trại được
dựng bằng những cây gỗ chắc chắn lấy ngay ở trong rừng, dựa theo thế núi, hình
sông mà đóng quân để tiện cho việc chống giữ, việc ăn uống cũng như việc chuyên
chở binh lương, tiếp ứng… Đồn
lớn thì có một đề đốc chỉ huy, còn đồn nhỏ thì có một Lãnh binh chỉ huy. Nghĩa
quân được tổ chức thành những quân thứ. Mỗi quân thứ đóng một tỉnh, một huyện,
hoặc một tổng, một làng, tùy theo chỗ đóng binh có quan hệ đến việc vận chuyển
lương hay là việc quân như thế nào. Phan Đình Phùng đã chia thành 15 quân thứ:
+ Khê thứ (huyện Hương Khê) do
Nguyễn Thoại và Trần Hữu Châu chỉ huy
+ Can thứ (huyện Can Lộc) do Nguyễn Trạch, Nguyễn Dật
chỉ huy
+ Lại thứ (huyện Lại Thạch) do Phan Đình Nghinh chỉ huy
+ Bình thứ (tỉnh Quảng Bình) do Nguyễn Thụ chỉ huy
+ Hương thứ (huyện Hương Sơn) do Nguyễn Huy Giao chỉ huy
+ Diễn thứ (huyện Diễn Châu) do Trần Vinh chỉ huy
+ Anh thứ (huyện Anh Sơn) do Nguyễn Mậu chỉ huy
+ Nghi thứ (huyện Nghi Xuân) do Ngô Quảng chỉ huy
+ Lễ thứ (làng Trung Lễ - huyện Đức Thọ) do Nguyễn Cấp
chỉ huy
+ Cẩm thứ (huyện Cẩm Xuyên) do Huỳnh Bá Xuyên chỉ huy
+ Kỳ thứ (huyện Kỳ Anh) do Vũ Phát chỉ huy
+ Thạch thứ (huyện Thạch Hà) do Nguyễn Thuận chỉ huy
+ Lệ thứ (huyện Lệ Thủy - Quảng Bình) do Nguyễn Bí chỉ
huy
+ Thanh thứ (tỉnh Thanh Hóa) do Cầm Bá Thước chỉ huy
+ Diệm thứ (làng Tình Diệm - huyện Hương Sơn) do Cao Đạm
chỉ huy.
Trong 15 quân thứ của Phan Đình Phùng có nhiều “hổ”
tướng là người Hương Khê trực tiếp cầm binh đánh giặc[17].
2. Một số địa
danh ở Hương Khê gắn với các trận đánh trong phong trào Cần Vương
Hương Khê là nơi được vua Hàm Nghi chọn làm căn cứ của
phong trào Cần Vương chống Pháp. Lũy Voi Dựa ở Đá Đen (La Khê) và thành Sơn
Phòng (Phú Gia) là những chứng tích lịch sử ghi nhận nơi vua Hàm Nghi dựng cờ
chống Pháp (1884 - 1885). Đền Trầm Lâm, Thành Sơn Phòng là chứng tích một thời
quan trọng trong khởi nghĩa Hương Khê. Vua Hàm Nghi đã ban tặng báu vật là 2
con voi bằng vàng và ra chiếu phong thần cho đất Phú Gia để tạ ơn vùng đất đã
phò vua (cần vương) cứu nước: “Công phù đại địa trung hưng thánh; Danh trấn Nam
thiên thượng đẳng thần”[18].
Những năm 1885 - 1897, suốt 12 năm liền, vùng Vũ Quang
là căn cứ địa của nghĩa quân Phan Đình Phùng chống Pháp. Vùng Hói Trùng, Hói
Trí (Hương Minh, Hương Thọ) là nơi đã có lúc đặt đại bản doanh của Phan Đình
Phùng - Cao Thắng. Vùng Lều Cỏ, Lục Ngừ sang Bọng Nhỏng (gần bãi Ngàn Trươi,
giữa Hương Đại và Hương Điền) là nơi đặt các cơ sở thợ rèn, thợ mộc, đúc đồng của
nghĩa quân. Nhân dân Hương Khê đã có đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm nuôi
nghĩa quân, đóng góp mâm thau nồi đồng cho nghĩa quân đúc vũ khí. Nhiều địa
phương đã tổ chức nông dân vào rừng làm nương rẫy sản xuất lương thực cung cấp
cho nghĩa quân. Nhiều người vùng Tri Bản, Phúc Đồng, Thanh Luyện, Trúc Lâm,
Phương Điền,… đã đi xây dựng thành lũy, doanh trại ở căn cứ Vũ Quang hoặc tham
gia lực lượng vũ trang của nghĩa quân, có nhiều người được làm cai, đội, thư ký
cho cụ Phan Đình Phùng.
Tháng 8/1892, khi địch mở trận càn lớn lên căn cứ Hói
Trùng và Ngàn Sâu, quân dân Hương Khê dưới sự chỉ huy của Cao Thắng đã đánh
nhiều trận oanh liệt, như trận quyết tử ở Bãi Ma (Hương Thanh); trận đồn Tri
Bản, chợ Nổ (xã Hòa Hải ngày nay). Trận Hói Trùng ngày 13/8/1892, nghĩa quân đã
chặn đánh cánh quân do tên Roobe (Rober) chỉ huy, diệt 16 tên, bắn trọng thương
15 tên, một số lính giặc dẫm phải chông bị thương, Roobe phải bỏ chạy. Các cánh
quân khác của địch thấy tình hình bất lợi, lại bị nghĩa quân bám sát đánh mạnh,
nên cuối cùng, đến ngày 30/8, tất cả phải lục tục rút về[19].
Trong các trận đánh Pháp của nghĩa quân Phan Đình Phùng,
nổi tiếng nhất là trận Vụ Quang, được bố trí theo kế “Sa nang úng thủy” của Hàn
Tín đánh Sở xưa để giết giặc. Phan Đình Phùng biết được sớm muộn giặc Pháp sẽ
tấn công tiêu diệt nghĩa quân nên bày mưu tính kế đối phó chúng trước. Ông cùng
các tướng lĩnh cho quân chặt nhiều cây gỗ lớn chặn ở đầu nguồn, chặn nước sông
Vụ Quang, lại dùng nhiều khúc gỗ thả sẵn trên nguồn.
Ngày 17/10/1894, giặc Pháp được tay sai dẫn đường kéo
lên tìm nghĩa quân. Chúng cho một đội hình tập đi đầu, lính tây kéo theo sau
một tốp nhỏ được sai đi trước dẫn đường. Gặp một lối mòn ra một bến cũ bỏ
hoang, chúng lần theo tới bờ sông. Thấy mực nước khá thấp, chúng xuống dò thử
và kéo nhau lội qua dễ dàng. Mấy tên sĩ quan mừng cuống vì đã luồn rừng vượt
suối bao ngày trời nay mới thấy bóng nghĩa quân, lại có chỗ thuận tiện lội qua
truy lùng.
Khi cả đội quân đã ào xuống giữa lòng sông, một phát
súng lệnh vang lên thì bốn phía nghe ầm ầm như giông bão, nước lũ trên nguồn đổ
ập xuống. Những thân gỗ lớn theo dòng thác lao thẳng vào dòng người đang nối
nhau qua sông. Quân địch một phần bị nước cuốn bất ngờ, phần thì bị gỗ lao vào,
lại bị nghĩa quân bắn quyết liệt nên chết rất nhiều. Ba chỉ huy Pháp cùng hơn
100 lính bị tiêu diệt. Nghĩa quân thu 50 súng và rất nhiều quân trang, quân
dụng.
Chiến thắng Vụ Quang là một trận đánh nổi tiếng trong
khởi nghĩa Hương Khê, thể hiện tài năng, trí tuệ và ý chí tiêu diệt quân thù.
Nó cũng tạo điều kiện cho nghĩa quân duy trì cuộc khởi nghĩa trong những năm
tiếp theo. Tuy nhiên, sau thất bại này, Pháp và tay sai trả thù bằng các cuộc
càn quét và tấn công liên tục lên khu căn cứ.
3. Một số nhân
vật người Hương Khê trong phong trào Cần vương chống Pháp
3.1. Quan hầu Năm (xã Hương Bình)
Hầu Năm, tên thật là Lê Võ (theo Danh nhân Nghệ Tĩnh),
ông là em ruột Lê Ninh, một lãnh tụ Cần Vương nổi tiếng, đã khởi nghĩa đánh
thành Hà Tĩnh, giết 3 tên quan tỉnh mùa thu năm 1885, trước cả Phan Đình Phùng[20].
Sau khi Lê Ninh chết (1886), lực lượng của nghĩa quân anh em Ông đi với Phan
Đình Phùng. Riêng Lê Võ đã có thời kỳ dạy học tại một nhà họ Dương ở làng Nam
Trạch (xã Hương Bình). Lúc bấy giờ ông còn rất trẻ. Người ta gọi ông là cậu ấm
Năm. Ông rất giỏi võ nghệ. Nhân dân còn nhớ chuyện ông tập cho nghĩa quân cầm
một gánh lúa bông nặng xoay quanh người như chong chóng. Ông có thể búng dao
lên ngọn cau cắt mấy quả tùy ý. Ông có thể nhảy qua nhà như diều, cho nên nhân
dân Nam Trạch còn đặt cho ông biệt Hiệu “Cậu Năm Diều”. Nhờ tài này, mười năm
sau, lúc thoái trào, Ông thoát được vòng vây bủa bắt khi quân địch phát hiện
được Ông trong một gia đình ở Trại Trá. Cả thời gian trước khi ông mất, người
ta chỉ gọi Ông là “Ông Hầu Năm” hoặc “Quan Hầu Năm”. Trong bộ máy kháng chiến
của Phan Đình Phùng, chức “hầu” là chức quan văn phụ trách công việc hành chính
quản trị một vùng. Địa bàn hoạt động của Ông là vùng Trại Trá, Trại Cột, Trại
Cuồi[21],
tức là ba xóm dân cư nằm ven một khúc sông dài trên 10 km tiếp giáp đại đồn Vụ
Quang. Vùng này hồi đó la liệt đồn trại, kho tàng, công xưởng, đò máng của
nghĩa quân. Hiện nay nhiều di tích vẫn còn. Sau khi Phan Đình Phùng mất, phong
trào kháng chiến tan rã. Giặc Pháp truy lùng ráo riết, nhưng Hầu Năm vẫn hoạt
động bí mật ở vùng này chứ không đầu hàng giặc, cũng không chuyển đi nơi khác.
Cuối cùng, thế tàn lực kiệt, giữa năm 1896, ông vào rừng chọn một gò đất đẹp
rồi rút gươm tự sát”. Trong tín ngưỡng dân gian, Hầu Năm thuộc lớp người ta nói
“sống khôn chết thiêng”. Lúc sống, ông bảo quốc hộ dân thì lúc chết ông cũng
thế.
Sau khi chết, ông được vua Khải Định sắc phong đạo sắc
rồng như sau (đã dịch nghĩa): “Sắc, xã Tri Bản, huyện Hương Khê, tỉnh Nghệ Tĩnh
thờ Bản thổ Thành hoàng là Đệ ngũ Ngọc hầu từ lâu tỏ ra linh ứng. Nay (ta) nối
nghiệp sáng, nghĩ tới công lao của Thần, vậy phong cho làm Dực bảo Trung hưng
Linh phù Thần, cho phép xã thờ phụng, để Thần ra sức phù hộ dân đen cho ta”.
Kính thay! Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định: (8/5/1917).
3.2. Trần Hữu Châu (xã Phương Điền)
Trong 15 quân thứ của Phan Đình Phùng có Khê Thứ (cánh
quân Hương Khê) do Trần Hữu Châu (ở Thanh Luyện) và Nguyễn Thoại chỉ huy là một
trong những quân thứ (đơn vị) mạnh của Phan Đình Phùng.
Trần Hữu Châu là người Phương Điền được Phan Đình Phùng
phong là đề đốc lãnh binh, gọi tắt là cụ Đề Châu. Đầu tháng 8 năm 1893, trong
một trận chống càn tại làng Vân Cù (tức Hương Minh, Vũ Quang ngày nay), Đề Châu
không may bị Pháp bắt và tra tấn dã man. Sau bảy ngày giam giữ mà không khuất
phục được, bọn giặc đã giải cụ về quê để hành hình. Trần Hữu Châu bị thực dân
Pháp chém đầu vào ngày 10/8 âm lịch năm 1893 tại cồn Nuốm Chiêng, cách nhà ở
của cụ khoảng 1.500m. Sau khi hành hình, bọn pháp lấy đầu của cụ cắm vào cọc
tre vót nhọn, bêu lên tại Đồn Nổ, xã Tri Bản (xã Hòa Hải ngày nay) suốt mấy
ngày, hòng khủng bố tinh thần của dân địa phương.
Khu đất hành hình Trần Hữu Châu đã được nhân dân xã
Phương Điền bảo vệ, gìn giữ hàng trăm năm nay. Tại vị trí Trần Hữu Châu bị chặt
đầu, nơi dòng máu của người anh hùng chảy xuống bãi cỏ, người dân địa phương đã
đắp một hình nấm nho nhỏ bằng vôi hàu, ghi nhớ tội ác của giặc Pháp và hình ảnh
một người con quê hương đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Cùng với Trần Hữu Châu, còn có nhiều người nghĩa quân và
chỉ huy khác bị hành hình, chẳng hạn như Trần Công Toàn (Chánh tổng Chu Lễ, chỉ
huy trực tiếp việc xây dựng thành Sơn Phòng) cũng bị kết án tử hình, trên đường
giải đi chém, ông đã tự vẫn…[22]
3.3. Phạm Đình Ban, Phạm Đình Chân (xã Hòa Hải)
Căn cứ vào một số tài liệu lịch sử như sách “Phan Đình Phùng
nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1886 - 1895) ở Nghệ Tĩnh” của Đào Trinh Nhất;
“Phan Đình Phùng cuộc đời và sự nghiệp” của Đinh Xuân Lâm, Chương Thâu, “Hương
Khê 135 năm (1867 - 2002)” của Nguyễn Bá Thành, gia phả dòng họ Phạm xã Hòa Hải
huyện Hương Khê - Phạm Đình Ban, Phạm Đình Chân là những nhân vật tiêu biểu
trong Khê thứ.
Trong đội quân Khê thứ (huyện Hương Khê) có hai anh em
ruột được nghĩa quân Phan Đình Phùng giao trọng trách chỉ huy nghĩa quân, gọi
là Lãnh binh đó là Phạm Đình Ban và Phạm Đình Chân, dưới sự chỉ huy của Nguyễn
Thoại và Trần Hữu Châu.
Phạm Đình Ban, Phạm Đình Chân không rõ năm sinh, hy sinh
vào những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Sau
khi chiếu Cần Vương được loan truyền đến quê nhà và đặc biệt khi vua Hàm Nghi
ra đến Sơn Phòng, Phú Gia, Hương Khê phát hịch Cần Vương lần thứ hai, hai ông
đã gia nhập đội quân Cần Vương, tham gia đắp thành Sơn phòng, xây dựng nhà
trại, đường sá, góp của cải hưởng ứng phong trào Cần Vương. Khi thực dân Pháp
đặt chân lên quê hương Nghệ Tĩnh, hai ông tích cực tập hợp lực lượng, tích trữ
lương thảo, luyện tập quân sĩ chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài. Sau đó, dưới
sự chỉ huy của thủ lĩnh Khê thứ, Phạm Đình Ban và Phạm Đình Chân đã tổ chức
chiến đấu nhiều trận tại vùng chợ Nổ, Cồn Nậy, Rôộc Miệu, Trại Trá, Trại Cuồi…
Nhiều địa danh tại địa phương xã Hòa Hải đã gắn liền với cuộc chiến đấu chống
bọn thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai trong thời kỳ này như: Động Trín,
Trại Căng, Chồng Côộc, Ma Ca, Cồn Nậy, Vạt Quan, Rôộc đá, Hốc Chết…
Trong một trận chiến đấu không cân sức, Phạm Đình Ban và
Phạm Đình Chân đã anh dũng hy sinh tại chiến trận. Thi hài của hai ông đã bị
thất lạc. Về sau dòng họ đã làm mộ tượng trưng để tế lễ.
II. HƯƠNG KHÊ TRONG PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1930 - 1945)
1. Phong trào yêu
nước trước khi thành lập Đảng
Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng - Cao Thắng
lãnh đạo là đỉnh cao của phong trào Cần Vương đến cuối năm 1896 bị thất bại
đồng thời kết thúc phong trào Cần Vương trong cả nước[23].
Ở Hương Khê, cụ Tú Phương (tức Nguyễn Duy Phương, đậu tú
tài năm 1899), từng tham gia phong trào Đông du với các cụ Phan Bội Châu, Đặng
Thái Thân, đã lập trại sản xuất và quán nước ở Truông Bát để làm nơi liên lạc
cho các nhà yêu nước của Thái Lan sang hoạt động. Bản thân cụ Phan Bội Châu, cụ
Đặng Thái Thân cũng đã lui tới Truông Bát, Hà Linh và một số nơi khác ở Hương
Khê để cùng cụ Tú Phương bàn việc cứu nước. Năm 1908, cụ Tú Phương đã lãnh đạo
hàng trăm người kéo xuống thị xã Hà Tĩnh đòi giảm sưu thuế.
Đầu thế kỷ XX, cụ Tú Phương đã lập
trại cày ở Truông Bát (Hà Linh, Hương Khê) để sản xuất lương thực và lập một cơ
sở liên lạc với các nhà yêu nước trên đường sang Lào, Thái Lan rồi tìm cách
sang Nhật theo tiếng gọi của cụ Phan Bội Châu. Nhân dân Hương Khê đã quyên góp
cho phong trào Đông Du 150 đồng (tiền Đông Dương) để hoạt động[24].
Năm 1919, đồng chí Lê Viết Lượng, người Can Lộc, làm
giáo viên ở Trường Tiểu học Gia Phổ tìm gặp cụ Tú Phương để bàn mưu chống Pháp.
Năm 1920, họ quyết định lập ra tổ chức Hội Bài Pháp. Tuy hoạt động của Hội Bài
Pháp được nhân dân hưởng ứng, song về cơ bản và lâu dài, hội vẫn bế tắc về
đường lối và phương hướng hoạt động. Năm 1921, Hội bài Pháp do đồng chí Nguyễn
Hậu phụ trách giải tán. Năm 1922, đồng chí Nguyễn Hậu cùng với một số người
trong phong trào Đông Du, Duy Tân tổ chức ra nhóm cách mạng mới lấy tên là
“Việt Nam độc lập hội” (hay là nhóm Xuân Thu). Hoạt động một thời gian, đồng
chí Nguyễn Hậu bị đổi đi dạy học ở Nghi Xuân nên Việt Nam độc lập hội cũng
ngừng hoạt động.
Năm 1925, đồng chí Nguyễn Hậu trong khi đang dạy học ở
Nghi Xuân đã được đồng chí Lê Duy Điếm (người Nghi Xuân, đã sang Quảng Châu,
Trung Quốc tham gia lớp tập huấn của Nguyễn Ái Quốc) cung cấp tài liệu của Hội
Việt Nam cách mạng Thanh niên và chủ trương cứu nước cứu dân theo con đường
cách mạng vô sản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Có tài liệu và phương hướng hoạt
động mới, đồng chí Nguyễn Hậu xin về huyện Hương Khê dạy học và tổ chức Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Khê.
Người Hương Khê tiếp nhận được chủ trương cách mạng của
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại huyện
nhà là một sự kiện chính trị quan trọng đánh dấu cho sự hình thành Đảng bộ
Hương Khê về sau.
2. Đảng bộ huyện Hương
Khê ra đời và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ở Hương Khê (1930 - 1931)
Tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập, đã
nhanh chóng tuyên truyền ảnh hưởng vào Hương Khê, thu hút sự chú ý của các hội
viên Tân Việt và thanh niên, trí thức yêu nước khác.
Tháng 1/1930, đồng chí Trần Hữu Thiều cán bộ của Xứ ủy Đông Dương Cộng sản
Đảng Trung kỳ đã lên Hương Khê gây dựng tổ chức, thành lập Chi bộ Đông Dương
Cộng sản đảng đầu tiên ở Hà Linh, gồm 5 đảng viên. Sự ra đời của Chi bộ Hà Linh
có ý nghĩa hết sức quan trọng, là mốc mở đầu, đánh dấu sự ra đời của tổ chức
Đảng Cộng sản ở Hương Khê.
Đến giữa năm 1930, Đảng bộ Hương Khê đã được hình thành
với trên một chục chi bộ và khoảng 100 đảng viên. Hoạt động của các chi bộ lấy
chi bộ Hà Linh, Trúc Lâm làm đầu mối liên lạc và do đồng chí Mai Kính, Tỉnh ủy
viên phụ trách Hương Khê trực tiếp lãnh đạo.
Đảng bộ Hương Khê ra đời là bước ngoặt trọng đại trong
lịch sử huyện Hương Khê, đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của phong trào
cách mạng trong huyện, thời kỳ có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh
sáng lập, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Hưởng ứng phong trào chung, sau khi đã có các chi bộ làm
hạt nhân lãnh đạo, nhân dân Hương Khê đã tham gia một cuộc mít tinh kỷ niệm
ngày Cách mạng tháng Mười Nga 7/11/1930.
Vào đúng ngày 7/11/1930, các chi bộ đã vận động quần
chúng tiến hành mít tinh ở ba địa điểm trong huyện là Bãi Nậy (Phúc Ấm - Hương
Long) cho vùng thượng huyện; Bãi Bố Xá (Trúc Lâm - Hương Thanh) cho vùng trung
huyện và ga Hòa Duyệt cho vùng hạ huyện. Tổng số quần chúng tham dự mít tinh
trong toàn huyện lên tới hàng nghìn người.
Ở Bãi Nậy, nông dân các xã Phúc Ấm, Phúc Trạch, Đô Khê,
Gia Phổ, Xuân Lũng (Hương Xuân), Phú Phong, Trừng Thanh (Hương Vĩnh), Phú Gia,
Thượng Bình (Hương Long), Trung Hà (Hương Bình), Thượng Thạch (Hương Thủy), đã
kéo về dự mít tinh kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Mười. Sau khi dự mít tinh, nghe
diễn thuyết về cách mạng, về tình hình thế giới và trong nước, quần chúng đã đi
thị uy các nơi, đốt các điếm canh do bọn địch dựng lên ở dọc đường, trừng trị
một số cường hào gian ác.
Ở bãi Bố Xá (Lâm Bù, Trúc Lâm), quần chúng các xã Hà
Linh, Trúc Lâm, Đông Ấp, Nam Trạch, Tri Bản, Phúc Hội, Văn Đồng, Tế Lễ, Trung
Định, Phương Mỹ, Phương Điền… đã kéo về dự mít tinh và thị uy lực lượng. Tại ga
xe lửa Hòa Duyệt, nông dân các xã Đan Trai, Khê Thượng, Vân Cù, Hương Khê,
Hương Thọ… đã cùng nhân dân một số xã Đức Thọ bao vây nhà ga, bắt trưởng ga
phải ra hiệu dừng tàu tuyến Hà Nội - Sài Gòn để cán bộ Cộng sản rải truyền đơn,
tuyên truyền Cách mạng với hành khách đi tàu.
Cuộc mít tinh kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga ngày
7/11/1930 ở Hương Khê, trên thực tế đã trở thành cuộc tập dượt của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để chống lại chế độ thuộc địa. Điều quan
trọng là từ phong trào cách mạng sâu rộng của quần chúng, cuối tháng 11/1930,
Đảng bộ Hương Khê đã mở được Đại hội đại biểu lần thứ nhất để thành lập Ban
Chấp hành Đảng bộ chính thức của huyện. Đại hội đã họp tại xóm Chùa, xã Trúc
Lâm với sự có mặt của đại biểu các chi bộ trong toàn huyện và đại diện của Tỉnh
ủy Hà Tĩnh. Ban Chấp hành Đảng bộ khóa đầu tiên được bầu có 5 đồng chí do đồng
chí Mai Phì làm Bí thư.
Đến cuối năm 1930, đầu năm 1931, phong trào cách mạng
của nhân dân vẫn phát triển mạnh. Từ các xã, các đoàn thể quần chúng đã ra đời
như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên. Các Nông hội Đỏ đã thành lập được
các Ban Chấp hành cấp xã, thôn, gọi là Xã bộ nông, Thôn bộ nông. Bí thư Nông
hội là người đại diện cho quần chúng nông dân trong các cuộc đấu tranh ở thôn
xã[25].
Từ các hoạt động có tổ chức đó, quần chúng tiến lên đòi
giảm sưu, miễn thuế, xóa nợ. Có nơi như Hà Linh, Thôn bộ nông đã tuyên bố buộc
nhà giàu xóa bỏ nợ lâu đời cho dân. Quần chúng còn tổ chức tập luyện tự vệ, sắm
sửa vũ khí bảo vệ trật tự trị an thôn xóm, bảo vệ cán bộ. Bộ máy thực dân phong
kiến bị tê liệt, nhiều nơi tan rã. Trong hoàn cảnh đó, ở một số nơi, các Thôn
bộ nông, Xã bộ nông, dưới sự lãnh đạo của các đảng viên, các chi bộ, đã đứng ra
giải quyết các công việc của dân, mặc nhiên đảm nhiệm chức năng chính quyền
cách mạng. Chính quyền này đã hoạt động mô phỏng theo tinh thần, cách thức của
chính quyền Xô viết ở Liên Xô lúc bấy giờ nên được gọi là chính quyền Xô Viết
Nghệ Tĩnh.
Đầu năm 1931, toàn Đảng bộ Hương Khê đã có 19 chi bộ
nông thôn, 2 chi bộ công nhân, số đảng viên lên tới 322 người. Ngoài hai chi bộ
công nhân trực thuộc Huyện ủy, các chi bộ nông thôn được chỉ đạo hoạt động theo
phạm vi Tổng, do các Tổng ủy trực tiếp lãnh đạo. Nông hội có 2.210 hội viên,
Hội Phụ nữ có 1.655 hội viên, Đoàn Thanh niên Cộng sản có 731 đoàn viên.
Mặc dù bị đàn áp nặng nề, khủng bố gắt gao, nhưng tinh
thần đấu tranh của nhân dân Hương Khê ngày càng lên mạnh. Ở vùng Trại La, Tổng
ủy đã huy động tới hơn 800 quần chúng đi bao vây đồn điền Bao-li (Paoli), chống
khủng bố trắng. Tên đồn trưởng kiêm chủ đất này đã phải bỏ chạy về Linh Cảm xin
cứu viện. Địch huy động quân bắn chết 30 trâu bò, đốt cháy 32 nóc nhà, phá hoại
hàng chục mẫu hoa màu để lập đồn binh ở Rạng Quang. Ít lâu sau, đồn binh bị
quần chúng bao vây, đốt phá, địch phải tháo chạy.
Tháng 4/1931, Huyện ủy mở Hội nghị mở rộng để kiểm điểm
tình hình, rút kinh nghiệm tổ chức đấu tranh. Ở những nơi có chính quyền Xô
Viết, nhân dân phấn khởi xây dựng chính quyền, đắp đập, khai hoang, mở lớp học
quốc ngữ v.v. Địch lập thêm các đồn binh mới. Cũng vào tháng 4/1931, ở Phú
Phong, chi bộ Đảng tổ chức mít tinh để công bố việc chia ruộng đất công và vận
động quyên góp ủng hộ đồng bào Trại La bị địch khủng bố giết hại trâu bò, đốt
phá nhà cửa. Tên đồn trưởng Chu Lễ đã cho lính về đàn áp, bắt một số đảng viên.
Huyện ủy đã chỉ đạo vận động quần chúng các xã Phúc Ấm, Phú Gia, Trừng Thanh,
Xuân Lũng, Gia Phổ, Thượng Bình, có lực lượng tự vệ dẫn đầu đến bao vây bọn
lính, giải thoát cho những người bị bắt. Địch hoảng sợ bắn chết đồng chí Bí thư
Chi bộ Phúc Ấm, người dẫn đầu đoàn biểu tình. Chúng nổ súng bừa bãi để đẩy lùi
tự vệ và nhân dân, gây ra vụ xung đột ở Rộôc Cồn (Phú Phong) làm 11 người chết,
bị thương 6 người. Ngay trong đêm đó, Huyện ủy đã chỉ đạo tổ chức truy điệu cho
những người hy sinh và cứu chữa những người bị thương, phát động quần chúng
tiếp tục xiết chặt đội ngũ, chống khủng bố, bắt bớ.
Những nơi hình thành rõ rệt và duy trì được khá lâu
chính quyền Xô Viết ở Hương Khê là Hà Linh, Trúc Lâm, Đông Ấp, Phúc Hội, Vân Đồng,
Xuân Lũng, Phú Phong, Phúc Ấm, Phú Gia, Đô Khê, Tế Lễ, Hương Khê (xã), Vân Cù,
Hương Thọ, Đan Trai, Khê Thượng[26].
Từ giữa năm 1931, địch tăng cường gấp bội lực lượng
khủng bố với hơn 100 tên. Hàng loạt cán bộ, đảng viên bị bắt, hầu hết những
người tham gia đều bị truy bức, bị đốt phá nhà cửa. Nhiều người bị tình nghi,
bị bắt về đồn, bị theo dõi gắt gao buộc phải nằm ở điếm canh để quản thúc. Bọn
địch cho lính từ đồn Phương Trạch, Trúc Lâm, Hà Linh vào rừng lùng sục tìm bắt
cán bộ, đảng viên. Cơ quan ấn loát của Huyện ủy và Tỉnh ủy ở Trúc Lâm bị địch
phát hiện (khu vực nhà thờ họ Ngô, nay là di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà
nước xếp hạng).
Đến tháng 10/1931, các đồng chí Bí thư Huyện ủy, Bí thư
Huyện Đoàn TNCS, Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ và hầu hết cán bộ đảng viên, cùng
nhiều quần chúng có liên quan đều lần lượt sa lưới địch. Chỉ có một số ít thoát
được sang Lào và Thái Lan tránh địch để hoạt động sau này. Các nhà lao huyện,
tỉnh chật ních tù nhân, chúng phải đưa bớt đi giam ở Lao Bảo, Công Tum, Buôn Mê
Thuột…
Tháng 6/1932, các đảng viên Cộng sản trước đây thoát
sang Lào, Thái Lan đã tìm cách trở về, liên lạc lại với một số đảng viên ở Hà
Linh, Trúc Lâm, tìm cách phục hồi Đảng bộ. Các chi bộ Trúc Lâm, Phúc Hội được
lập lại. Đến năm 1934, trong huyện đã có 30 đảng viên, sinh hoạt trong nhiều
chi bộ, trực thuộc Ban Chấp hành Tỉnh ủy liên tỉnh Nghệ Tĩnh. Tuy nhiên, do
không lập lại được cơ quan Huyện ủy nên các cuộc đấu tranh dân chủ giai đoạn
1936 - 1939 thường chậm hơn so với một số nơi khác, đôi khi thiếu phương hướng,
thiếu phối hợp nhịp nhàng như thời kỳ 1930 - 1931.
Những năm 1936 - 1939, một số đảng viên liên lạc với
nhau đã chủ động tuyên truyền bằng báo chí công khai để đấu tranh đòi dân chủ
và hòa bình, ủng hộ cuộc đấu tranh chống phát xít. Đến cuối năm 1939, khi chiến
tranh Thế giới lần thứ hai nổ ra, thực dân Pháp thực hiện chính sách thống trị
thời chiến, cấm chỉ các hoạt động dân chủ, các cơ sở Đảng ở Hương Khê lại bị
địch phá vỡ. Hầu hết đảng viên, kể cả số mới được tha về trong thời kỳ dân chủ
(1936 - 1939) bị địch bắt lại, bị lưu đày, an trí ở những nơi xa xôi như Ly Hy,
Buôn Mê Thuột, Đắc Min… Năm 1940, một số đồng chí mãn hạn tù hoặc vượt ngục trở
về đã mang theo chủ trương mới của Đảng. Quan điểm của Đảng trong các Hội nghị
Trung ương lần thứ VI (11/1939), lần thứ VII (11/1940) và lần thứ VIII (5/1941)
đã được truyền về Hương Khê. Mục tiêu chú trọng là giải phóng dân tộc, là tham
gia Mặt trận Việt Minh, là gia nhập các Hội Cứu quốc.
Đầu năm 1943, một số đồng chí từ Buôn Mê Thuột vượt ngục
hoặc được tha về, ở Hà Linh đã khôi phục được chi bộ Đảng, trở thành nơi chắp
nối liên lạc cho các đồng chí đảng viên rải rác trong huyện. Tuy vậy, đến năm
1944, phong trào lại gặp khó khăn do các đảng viên ở hai chi bộ mới tái thành
lập (Hà Linh, Trúc Lâm) bị bắt lại.
3. Cách mạng
Tháng Tám ở Hương Khê
Ở Hương Khê, đầu năm 1945, một nạn đói khủng khiếp đã
xảy ra trong toàn huyện. Số người chết đói trong toàn huyện là hơn 4.500 người[27].
Nhiều xóm làng xơ xác, tiêu điều, dân bỏ làng đi vào rừng đào củ mài, củ nâu,
nhiều người sang Lào, Thái Lan, ra Bắc, vào Nam tha phương cầu thực. Người chết
đói rất nhiều. Sáng ngày 10/3/1945, một toán quân Nhật đánh chiếm đồn Chu Lễ và
Sở Kiểm lâm Hương Khê. Tên đồn trưởng người Pháp bị Nhật bắt, binh lính người
Việt chạy tán loạn về các làng lẩn trốn, bọn quan lại Pháp và tay sai hoang
mang lo sợ. Lợi dụng tình hình đó, các đảng viên một số xã lân cận thị trấn đã
vận động nhân dân đi phá kho gạo Chu Lễ, lấy gạo cứu đói cho dân.
Do bị sức ép đấu tranh của Mặt trận Việt Minh và tình
thế Nhật - Pháp bắn nhau, nhiều nhà tù phải mở cửa, nhiều chính trị phạm được
thả về. Riêng ở nhà tù Buôn Mê Thuột, hơn 300 tù chính trị bị thực dân Pháp bắt
giam được ra khỏi tù, được đồng bào địa phương giúp đỡ trở về quê hương. Các
cán bộ, đảng viên quê ở Hương Khê, có người quê ở Hương Sơn bị lưu đày ở Buôn
Mê Thuột và các nhà tù khác đã về tiếp tục tham gia hoạt động.
Tháng 4/1945, đồng chí Nguyễn Tuy (người xã Hương Khê)
cùng một số đồng chí khác vượt ngục từ Buôn Mê Thuột về đến Hương Khê. Do nắm
được chủ trương của Đảng lúc còn ở trong tù, họ đã phổ biến chương trình, điều
lệ Việt Minh cho đảng viên và quần chúng vùng Trúc Lâm, Hà Linh và các nơi
khác, làm cho phong trào cách mạng Hương Khê tiến kịp thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Cuối tháng 4/1945, chi bộ Trúc Lâm được lập lại gồm một
số đảng viên của Trúc Lâm và Hà Linh. Chi bộ đã phân công các đảng viên về tận
các xã tuyên truyền chủ trương của Việt Minh, vận động quần chúng tham gia
phong trào Việt Minh chống Nhật cứu nước, tham gia các đoàn thể cứu quốc. Tin
Hồng quân Liên Xô cùng phe Đồng minh tiêu diệt hoàn toàn bọn Phát xít Đức vào
cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 đã có tác động mạnh đến tinh thần cách mạng những
người cộng sản và quần chúng ở Hương Khê.
Ngày 19/5/1945, Hội nghị thành lập Ban vận động thống
nhất Việt Minh Nghệ Tĩnh được triệu tập, chủ trương xuất bản báo Kháng địch, ấn
hành các tài liệu của Mặt trận Việt Minh để truyền bá rộng rãi trong hai tỉnh.
Một số đồng chí ở Trại La bắt được liên lạc với các đồng chí Đức Thọ, nắm được
chủ trương của Mặt trận Việt Minh đã lập căn cứ địa ở Vụ Quang, đưa thanh niên
đến tập luyện quân sự, chờ vũ khí của quân Đồng Minh tiếp tế.
Ở Trúc Lâm, nhân dân đã dùng nhiều chăn, chiếu quét đất
sét màu, kết lại thành cờ đỏ sao vàng và cờ Hoa Kỳ trải trên núi Bãi Khoai (chợ
Trúc), làm tín hiệu liên lạc với máy bay Mỹ để nhận tiếp tế của Đồng minh.
Nhiều lượt máy bay Mỹ đã lượn vòng, song ta không có biện pháp để liên lạc, nên
phi công chỉ rải truyền đơn kêu gọi phối hợp chống Nhật mà không thả vũ khí như
ta mong muốn[28].
Sau khi dự Hội nghị thành lập Việt Minh liên tỉnh đồng
chí Nguyễn Tuy về đã nhanh chóng phổ biến chủ trương của Hội nghị cho chi bộ
Trúc Lâm thực hiện. Chi bộ Trúc Lâm đề ra các chủ trương: Liên lạc với các đồng
chí vừa ở tù về và những người yêu nước trong huyện để xúc tiến việc thành lập
Mặt trận Việt Minh huyện và các xã. Vạch trần sự xuyên tạc, mị dân của bọn tay
sai Nhật, đưa một số cán bộ đảng viên vào làm thủ lĩnh tổ chức Thanh niên Phan
Anh, giác ngộ, lôi cuốn phòng trào này đi theo Việt Minh. Trên cơ sở phong trào
chung mà động viên nhân dân giúp nhau cứu đói.
Ngày 25/7/1945, chi bộ Trúc Lâm đã tổ chức được cuộc Hội
nghị cán bộ mở rộng, có 32 người tham dự, đại diện cho các cơ sở Đảng trong
huyện. Đồng chí Nguyễn Tuy đã truyền đạt tinh thần của Trung ương Đảng, của
Tổng bộ Việt Minh và Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh. Hội nghị bầu Ban Chấp hành
Việt Minh huyện, do đồng chí Phan Dỵ phụ trách. Các đảng viên dự Hội nghị cũng
nhất trí thành lập Huyện ủy mới do đồng chí Nguyễn Tuy làm Bí thư.
Đến đầu tháng 8/1945, hầu hết các xã trong huyện đã có
tổ chức Mặt trận Việt Minh. Đêm 10/8/1945, Huyện ủy đã chỉ đạo tiến hành một
cuộc đại náo trong toàn huyện để tập dượt khởi nghĩa. Hình thức là tiến hành
tuyên truyền, diễn thuyết công khai, treo cờ đỏ sao vàng, chăng biểu ngữ, khẩu
hiệu ở khắp các thôn xã. Khí thế cách mạng của quần chúng và sự lớn mạnh của
phong trào Việt Minh đã phân hóa hàng ngũ địch, nhiều hào lý ngỏ ý xin được gia
nhập Việt Minh.
Đại hội quốc dân tại Tân Trào từ 14-15/8/1945 đã thông
qua kế hoạch lãnh đạo tổng khởi nghĩa và những chính sách đối nội, đối ngoại
sau khi giành được chính quyền. Ở Hà Tĩnh, ngày 18/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa
các huyện phía Nam của tỉnh đã tổ chức thắng lợi cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở tỉnh lỵ. Các huyện trong tỉnh cũng lần lượt giành chính quyền về tay
nhân dân.
Theo quy định của Hội nghị Việt Minh Nghệ Tĩnh, Hương
Khê thuộc sự chỉ đạo khởi nghĩa của phân khu La Hương Hương (gồm Đức Thọ, Hương
Sơn, Hương Khê). Song do điều kiện thông tin liên lạc không kịp thời nên Hương
Khê tiếp nhận sự chỉ đạo của cấp trên có chậm hơn các huyện khác. Đến ngày
18/8/1945, Ban Chấp hành Huyện bộ Việt Minh đã nhanh chóng triệu tập Hội nghị
để bàn kế hoạch khởi nghĩa, cử ra Ủy ban khởi nghĩa huyện. Ngày 21/8/1945, Ủy
ban khởi nghĩa đã huy động nhân dân địa phương, có sự hỗ trợ của một đơn vị vũ
trang do Ủy ban khởi nghĩa Nam Hà (nam Hà Tĩnh) phái lên, kéo đến bao vây trụ
sở huyện lỵ và đồn Chu Lễ. Trước không khí sôi sục cách mạng của toàn huyện,
Huyện trưởng Nguyễn Xuân Lâm đã mặc áo dài ra tận cổng mời đại diện của Ủy ban
khởi nghĩa vào để nộp sổ sách, con dấu, súng đạn, tài sản. Cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền của nhân dân Hương Khê đã giành thắng lợi mau chóng, không đổ
máu. Cuộc khởi nghĩa ở Hương Khê đã kết thúc trọn vẹn thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Tám ở Hà Tĩnh.
Ngày 21/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa Hương Khê, theo chỉ
thị của tỉnh, đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Chu Lễ, có hàng
vạn quần chúng trong toàn hyện tham dự. Tại buổi mít tinh, Ủy ban nhân dân cách
mạng Hương Khê đã ra mắt nhân dân, do đồng chí Nguyễn Tuy làm Chủ tịch. Sau
cuộc mít tinh ở Chu Lễ, theo sự lãnh đạo của các chi bộ, các đoàn thể Việt
Minh, quần chúng kéo trở về địa phương tịch thu sổ sách, con dấu của các chánh
tổng, lý trưởng, thành lập chính quyền nhân dân ở các làng xã. Nhân dân Hương
Khê từ đây bước vào một thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng.
Chương 3. HƯƠNG KHÊ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 2015
I. HƯƠNG KHÊ TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)
1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến (8/1945 - 12/1946)
Ngay sau cách mạng tháng Tám, nhiệm vụ của Hương Khê là tập trung xây dựng hệ thống chính
quyền mới. Ủy ban nhân dân huyện được củng cố để nắm các lĩnh vực hành chính,
quân sự, bưu điện, tư pháp, kinh tế, giáo dục, y tế và các đoàn thể quần
chúng. Các hoạt động cứu đói được đẩy mạnh, các thứ ruộng đất công được trưng
thu để chia lại cho nông dân sản xuất. Phong trào xóa nạn mù chữ, vệ sinh phòng
bệnh, xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh được nêu cao.
Đến cuối tháng 12/1945, Đảng
bộ Hương Khê đã tổ chức Đại hội thành lập Huyện ủy chính thức. Đại hội đã bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ do đồng chí Nguyễn Tuy làm Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, đồng chí Phan Dỵ làm Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn Sáng làm Ủy viên Thường
vụ kiêm Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện...
Ngày 6/1/1946, lần đầu tiên,
nhân dân trong toàn huyện được tham gia bầu cử Quốc hội. Sau đó, ngày 27/2/1946
nhân dân tiếp tục tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã. Các hội quần
chúng cấp huyện như Phụ nữ, Thanh niên, Nông dân, Công nhân, Hội mẹ chiến sĩ,
Hội cứu trợ binh sĩ bị nạn đã được thành lập. Hàng chục trường tiểu học được
xây dựng, phong trào bình dân học vụ được toàn dân hưởng ứng. Tiểu đoàn tự vệ
tập trung Hương Khê được thành lập để bảo vệ khu vực biên giới Tây Nam tỉnh.
Đến giữa tháng 12/1946, quân
Pháp gây hấn, khiêu khích ở Hà Nội, Hải Phòng, đòi tước vũ khí của tự vệ Hà
Nội. Đêm 19/12/1946, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến tỉnh, Hương
Khê được coi là một trọng điểm phòng thủ, đồng thời tăng cường chuẩn bị để xây
dựng thành khu căn cứ quan trọng của tỉnh, của khu IV[29].
Hương Khê đã triển khai các phương án bố phòng, tập luyện, chuẩn bị sơ tán,
thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến.
Đầu năm 1947, quân Pháp đánh
mạnh từ phía Nam ra Thừa Thiên, từ Lào sang Quảng Trị, phá vỡ mặt trận Thuận
Hóa (Huế), đánh nhanh ra Quảng Bình. Trong Khi đó, các tỉnh phía Bắc khu IV vẫn
được bảo vệ vững chắc, trở thành vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Để bảo toàn
lực lượng kháng chiến lâu dài, một cuộc sơ tán nhân dân, di chuyển các đơn vị
từ Bình - Trị - Thiên ra các tỉnh phía Bắc khu IV, trước hết là Hà Tĩnh, được
tiến hành khẩn trương. Vùng Hương Khê được Ủy ban hành chính Trung Bộ chọn làm
An toàn khu (ATK), đặt các cơ quan, trường học, công xưởng, nơi sơ tán của nhân
dân, gia đình cán bộ, học sinh từ Bình Trị Thiên ra. Từ giữa năm 1947, vùng
Hương Khê nhộn nhịp hẳn lên với bầu không khí sôi động. Trường Trung học Hương
Khê với hơn 600 cán bộ và học sinh con em Bình Trị Thiên ra học tập và xây dựng
khu căn cứ, đã trở thành một trong những trung tâm đào tạo cán bộ cho cả nước
về sau này.
Hương Khê trở thành một căn cứ
địa, một vùng hậu phương quan trọng cho các chiến trường phía Bắc, phía Nam và
phía Tây (Lào), là nơi cung cấp và đón nhận các lực lượng dự bị, lương thực,
thực phẩm, vũ khí, trang bị, đảm bảo an toàn cho các cơ quan, công xưởng của
Trung ương, tỉnh và liên khu sơ tán đến.
Cuối năm 1947, Xưởng bào chế
hóa chất, Trường kỹ nghệ thực hành, Trường Trung học Hương Khê và nhiều công
binh xưởng được thiết lập trên địa bàn huyện. Để bảo vệ ATK, Hương Khê đã tiến
hành một cuộc tiêu thổ kháng chiến hết sức triệt để. Quân và dân trong huyện
ngày đêm vất vả tự tay mình phá dỡ các công sở, nhà xây kiên cố ở Chu Lễ, ở các
nhà ga, đánh sập tất cả các cầu trên tuyến đường sắt đi qua huyện như cầu Cửa
Rào, cầu Thanh Luyện, cầu Lộc Yên, cầu Ba Mươi thước, đường cáp treo Tân Ấp -
xóm Cục - Bản Na Phạu... Hành động tiêu thổ
kháng chiến đó thể hiện tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ không nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” của nhân dân Hương Khê, tuy nhiên việc
tiêu thổ kháng chiến cũng gây nhiều thiệt hại vật chất và trở ngại cho giao
thông vận tải trên địa bàn huyện về sau.
2. Xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện cho tiền
tuyến (1947 - 1954)
Trong những năm 1947 - 1950,
công cuộc bảo vệ Hương Khê được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện, văn
hóa xã hội phát triển. Đảng bộ Hương Khê tăng nhanh về số lượng, đã có hàng
ngàn đảng viên. Hầu hết nhân dân đã tham gia vào các đoàn thể kháng chiến như
Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn, Hội mẹ chiến sĩ,... Tổ chức công đoàn Hương Khê
với sự tham gia sinh hoạt của hàng ngàn cán bộ công nhân Trung Bộ, nên có số
lượng và chất lượng cao nhất Liên khu IV. Phần lớn thương bệnh binh, bộ đội đã
dừng chân tập kết hoặc an dưỡng tại Hương Khê để ra Bắc, vào Nam hoặc sang Lào.
Phong trào lao động, sản xuất
cũng được đẩy mạnh. Từ năm 1949, huyện thực hiện chủ trương giảm tô, chia lại
công điền, công thổ, vận động địa chủ hiến ruộng đất. Hệ thống cơ quan, trường
học, công xưởng của huyện, của Trung Bộ, của Bình Trị Thiên đứng chân ở Hương
Khê đã đi vào hoạt động ổn định, góp phần đắc lực cho cuộc kháng chiến.
Năm 1948, Hương Khê đã khôi
phục lại tuyến đường sắt để chạy ô tô ray từ Hòa Duyệt đi Chu Lễ, Khe Nét, Minh
Cầm (Quảng Bình). Các đầu máy goòng Bình Trị Thiên 1 và Bình Trị Thiên 2, trong
sáu tháng cuối năm 1948 đã vận chuyển được 226 tấn hàng vào chi viện cho mặt
trận Bình Trị Thiên và cho Trung Lào tác chiến. Năm 1949, tuyến đường goòng này
còn chuyển được 2016 tấn gạo cho Bình Trị Thiên và chuyên chở 10.749 lượt cán
bộ, bộ đội, dân công vào ra chiến trường. Riêng xưởng Chu Lễ, đến tháng 5/1948,
đã sản xuất và cung cấp được cho mặt trận Bình Trị Thiên 65 khẩu súng cối, 480
quả mìn, 312 súng kíp, 3.160 quả lựu đạn và hàng vạn viên đạn các loại[30].
Hàng ngàn dân công
Hương Khê và các huyện Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà đã thường xuyên chuyển lương thực lên Chợ Trúc, Địa
Lợi, Chu Lễ, Chợ Sòng để chuyển lên goòng, đưa vào Khe Nét, Minh Cầm (Quảng
Bình). Từ đó dân công hỏa tuyến lại vận chuyển bộ vào Troóc, U Bò, Ba Rền...
cung cấp vũ khí, trang thiết bị, tài liệu cho Liên khu V, Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Nam Bộ. Đèo Cao Mãi, đèo Chó, dốc U Bò, Ba Rền... là những địa danh đã
đi vào ký ức bao thế hệ dân công Hương Khê, Hà Tĩnh. Nhiều người đã ngã xuống
trên con đường tiếp vận đầy gian khổ và hy sinh.
Từ 1951 về sau, Hương Khê cùng
toàn tỉnh vừa làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho cả mặt trận Bình Trị Thiên
và chiến trường Lào, vừa chi viện cho chiến trường Bắc Bộ.
Tháng 4/1951, Đại hội đại biểu
nhân dân Trung Lào họp tại Hương Khê. Đoàn Đại biểu Đảng bộ và nhân dân Hương
Khê đến dự và chào mừng Đại hội. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Cách mạng Lào
đã sang Hương Khê công tác, dưỡng bệnh, được Đảng bộ và nhân dân Hương Khê giúp
đỡ, chăm sóc chu đáo. Đồng chí Nouhak Phum Xa Vẳn[31]
có thời kỳ đã ở tại Trúc Lâm, Hương Khê.
Trong những năm từ
tháng 8/1951 đến tháng 4/1952, cách mạng Lào đã chọn Hương Khê làm căn cứ kháng
chiến. Lực lượng của Lào gồm khoảng 300 người do Hoàng thân Xuvanuvông làm
trưởng đoàn lấy thôn Đồng Minh (xã Hương Minh) làm địa điểm huấn luyện và chuẩn
bị chiến đấu[32].
Trong thời kỳ diễn ra cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, Hương Khê là địa bàn tập kết lực
lượng, nơi xuất quân của Đại đoàn 325 và 304 với tổng số 10.000 quân sang Trung, Hạ Lào. Đại đoàn 325 do đồng chí
Trần Quý Hai chỉ huy, Đại đoàn 304 (Trung đoàn 66, một bộ phận Đại đoàn bộ và
các đơn vị trực thuộc) do đồng chí Hoàng Sâm làm Tư lệnh từ Thanh Hóa vào Hương
Khê nhận vũ khí, lương thực ở Tổng kho 710 (Chu Lễ) rồi sang Lào[33].
Hương Khê đã huy động rất
nhiều đợt dân công đi phục vụ chiến đấu trên đất Lào. Quân dân Hương Khê, bằng
những đóng góp cụ thể về địa bàn, về đảm bảo giao thông vận tải, về cung cấp
lương thực, thực phẩm để chi viện cho bộ đội liên quân Việt - Lào đánh Pháp từ
đèo Mụ Giạ, Phà Cuội, Bản Na Phạu, Khăm He sang
Thakhek, xuống Nam đường 9, tới tận Atôpơ, cao nguyên Bô Lô Ven (Hạ Lào). Chiến
dịch Trung Lào thắng lợi đã góp phần đánh bại kế hoạch Na Va, phối hợp với mặt
trận Điện Biên Phủ, đưa tới thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hương Khê đã hoàn thành vẻ vang vai trò một huyện căn cứ địa trong cuộc kháng
chiến trường kỳ gian khổ.
II.
HƯƠNG KHÊ TRONG THỜI KỲ (1954 – 1975)
1. Hương Khê trong giai đoạn (1954 –
1964)
1.1. Hương Khê tiến hành cải cách ruộng đất
Công việc
đầu tiên sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc là tiến hành cải cách ruộng đất.
Ngay từ kháng chiến chống Pháp, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xóa bỏ chế độ
chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến, thực hiện từng bước chế độ
sở hữu ruộng đất của nông dân. Từ tháng 3/1950, Hội đồng giảm tô cấp tỉnh và
các ban giảm tô của xã được thành lập trên cơ sở sắc lệnh giảm tô của Chính phủ
ban hành từ 24/7/1949. Hương Khê là một trong những huyện thực hành giảm tô đợt
4, tiếp sau đó là đợt 5 và đã đạt được 85% kế hoạch được giao[34].
Cuộc vận
động cải cách ruộng đất được thực hiện ở Hương Khê, nhất là từ giữa 1955 đến
giữa 1956. Đây là một cuộc đấu tranh giai cấp thực sự quyết liệt diễn ra ở nông
thôn. Mục tiêu của cải cách là người cày có ruộng. Mục tiêu đó được nêu ra từ
khi thành lập Đảng. Chính nhờ cuộc cải cách ruộng đất mà số nông dân có ruộng
cày được tăng lên. Theo thống kê của Ban công tác nông thôn Tỉnh ủy Hà Tĩnh thì
vào năm 1945, bình quân ruộng đất của cố nông là 3 thước và bần nông là 1 sào 3
thước thì đến tháng 6 năm 1956 là 3 sào 2 thước và 3 sào 11 thước. Có thể nói
đại đa số bần cố nông đã hân hoan đón nhận những thành quả mà cách mạng đem lại
cho họ. Họ thật sự là những người mang nặng công ơn của Đảng và Bác Hồ. Chính
vì vậy, trong những năm tháng về sau nông dân không quản ngại mọi hy sinh gian
khổ, vẫn một lòng một dạ tin theo Đảng và chế độ mới.
Tuy nhiên
trong quá trình tiến hành cải cách ruộng đất, tổ chức Đảng và chính quyền các
cấp đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng. Việc tiến hành chỉnh đốn tổ chức
do có những nhận định sai lầm về tình hình các tổ chức chính trị ở địa phương,
nên các đoàn ủy, đội cải cách đã không dựa vào tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn
thể các cấp để tiến hành cuộc vận động, mà trái lại, đã thực hiện chỉnh đốn các
tổ chức đó theo yêu cầu của cấp trên một cách máy móc không đúng với thực tế.
Báo cáo tại Hội nghị chỉnh đốn các cơ quan cấp tỉnh đầu năm 1956 chỉ rõ: “Tổ
chức quân dân chính Đảng từ dưới lên đã bị giai cấp địa chủ và bọn đầu cơ cách
mạng lũng đoạn”. “Các cơ quan xung quanh tỉnh như Tỉnh ủy, Ủy ban không có cơ
quan nào không có địa chủ, có khi chúng nắm vai trò chủ yếu”[35]...
Do đánh giá sai lầm như vậy nên dẫn đến tình trạng nghi ngờ, quy sai thành phần
cho nhiều người. Trong số đó có những cán bộ đảng viên có công lao trong phong
trào từ những năm 1930 - 1931 đến suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Theo số
liệu của Tỉnh ủy Hà Tĩnh thì trong đợt 5 của cuộc phát động giảm tô, do mở rộng
đối tượng sang cả con em địa chủ, phú nông nên tỉ lệ xử trí sai càng nhiều.
Toàn tỉnh ở đợt 5 có 3.183 đảng viên thuộc 98 chi bộ bị xử trí thì số sai đã
chiếm 81% (2.558 đồng chí). Có những trường hợp bị kết án tù tội, quản chế,
thậm chí bị kết án tử hình mà sau này xác minh lại là bị oan. Toàn tỉnh có gần
70% số cán bộ chính quyền các cấp bị cách chức, bãi chức.
Thực hiện
Nghị quyết 10 của Ban Chấp hành Trung ương và chủ trương sửa sai của Trung
ương, Hương Khê đã kịp thời chấn chỉnh. Đến cuối năm 1957, cơ bản công tác sửa
sai ở Hương Khê được hoàn thành, trả lại tự do cho người bị oan, trả lại đảng
tịch cho đảng viên bị xử trí sai, hạ thành phần cho những người bị quy sai là
địa chủ trong cải cách ruộng đất, đền bù lại tài sản, ruộng đất, trâu bò, nhà
cửa bị tịch thu, trưng thu trước đây cho đối tượng bị quy sai.
1.2.
Hương Khê xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa
Từ năm
1958, Đảng chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế
tư bản, tư doanh. Ở nông thôn bắt đầu xây dựng tổ đổi công và sau đó tiến dần
lên hợp tác hóa, vào các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua
bán... Một số nông trường, lâm trường quốc doanh được xây dựng ở Hương Khê như
Nông trường 20-4, Lâm trường Chúc A, Lâm trường Trại Trụ...
Đến cuối
năm 1960, về căn bản, Hương Khê đã hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Hơn 80% nhân dân đã vào các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp, lâm nghiệp... Lần đầu tiên nhân dân được quan tâm về đời sống
văn hóa như được xem phim, được tiêm chủng, được nghe đài (Ra-đi-ô). Thời kỳ
1954 - 1960 cũng là thời kỳ nhân dân Hương Khê cùng với nhân dân toàn miền Bắc hướng
về miền Nam, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống chế độ Mỹ -
Diệm. Nhiều phong trào sản xuất, công tác, học tập mang tên Bình - Hà được phát
động (Bình Định và Hà Tĩnh là hai tỉnh kết nghĩa trong thời kỳ đất nước bị chia
cắt).
Trong các
năm 1961 - 1962, Hương Khê ra sức xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, nhất là
phát triển nông nghiệp, củng cố hợp tác xã, đi đôi với củng cố, xây dựng các
chi bộ Đảng. Năm 1963 - 1964, toàn huyện có phong trào thi đua cải tiến quản
lý, cải tiến kỹ thuật, phong trào xây dựng, củng cố đưa hợp tác xã lên bậc cao.
Nghề khai thác lâm sản ở Hương Khê cũng được coi trọng. Để vận chuyển hàng hóa,
phục vụ các ngành kinh tế, hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ được phục
hồi, cải tạo. Các đường giao thông chính từ thị xã lên thị trấn, từ thị trấn về
các địa phương đều được sửa sang cầu cống, đắp thêm đất đá. Sông Ngàn Sâu, sông
Tiêm được khơi thông luồng lạch để thuyền bè đi lại dễ dàng. Các sản phẩm vùng
Hương Khê có thể đi dọc sông ra tận Vinh. Năm 1964, Hương Khê thành lập trường
phổ thông cấp 3 (phổ thông trung học) và các trường phổ thông cấp 2 (Trung học
cơ sở), nhiều trường cấp 1 (tiểu học) đã ra đời ở các xã trong huyện. Hệ thống
y tế, bệnh viện huyện và các bệnh xá đã được xây dựng trong thời kỳ này.
2. Hương Khê trong giai đoạn (1965 - 1975)
2.1. Từ năm 1965 đến năm 1968
Ngày
5/8/1964, đế quốc Mỹ ném bom miền Bắc, mở rộng chiến tranh ra cả nước. Những
vùng quê vốn thâm sâu, yên tĩnh như Hương Khê lại trở nên sôi động bởi nó trở
thành một trong những đầu mối giao thông chiến lược quan trọng chi viện miền
Nam, Lào, Cam pu chia. Tại Hương Khê, từ đầu 1965, máy bay Mỹ thường xuyên bay
lượn trinh sát tuyến đường vận tải đường sắt, đường ô tô, đường sông và các cơ
sở quân sự, dân sự. Ngày 31/3/1965, cùng với việc đánh phá Đèo Ngang (Kỳ Anh),
Mỹ đã cho máy bay ném bom phá hoại Doanh trại Trung đoàn 95 ở Hương Hà và Bệnh
viện Hương Khê gây nên nhiều thiệt hại về người và tài sản nhân dân trong
huyện.
Sau ngày
31/3/1965, công tác phòng không sơ tán của Hương Khê được tiến hành khẩn
trương. Mọi sinh hoạt, sản xuất học tập... đều được chuyển nhanh sang thời
chiến. Hương Khê trở thành khu vực trung chuyển quan trọng trên con đường vận
chuyển hàng hóa và người ra tiền tuyến. Số lượng bộ đội, thương bệnh binh, khí
tài quân sự, lương thực, xăng dầu, quân trang quân dụng tập kết ở Hương Khê
ngày càng nhiều. Dọc những con đường từ ngã ba Đồng Lộc lên Khe Giao - Hương Hà
- Hương Thu - Hương Thái - Hương Luyện - Hương Thủy - Hương Thịnh - Hương Phố -
Hương Đô - Hương Trạch, hay từ Hương Đại, Hương Minh theo đường 71 đi qua Thanh
Luyện, Phúc Đồng, Hòa Hải, Hương Bình, Hương Long, Hương Đô, Hương Vĩnh, Hương
Phú..., là những con đường giao liên lúc đầu chỉ để đi bộ, sau đó là xe nhỏ rồi
dần dần xe vận tải quân sự có thể nối đuôi nhau ngày đêm vận chuyển sức người,
sức của ra tiền phương.
Hương Khê
là một trong những trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ. Tất cả các xã trong
huyện đều bị đánh phá ngay từ những tháng đầu của chiến tranh phá hoại. Tuyến
đường sắt và sông Ngàn Sâu chạy dọc huyện, từ Đức Thọ vào Tuyên Hóa (Quảng
Bình), đường số 15 từ Khe Giao lên Hà Linh, vào Tuyên Hóa là hệ thống giao
thông sắt, thủy, bộ chủ yếu của Hương Khê và hậu phương miền Bắc chi viện miền
Nam qua Hương Khê luôn bị máy bay địch bắn phá ác liệt. Có những nơi trở thành
tọa độ đánh phá thường xuyên của máy bay Mỹ như khu vực bến phà Địa Lợi, cầu 30
thước, cầu Thanh Luyện, chợ Trúc, Thị trấn Chu Lễ, ga Hương Phong, Lộc Yên.
Không chỉ bắn phá huyết mạch giao thông, đế quốc Mỹ còn bắn phá nhiều mục tiêu
dân sự trên địa bàn Hương Khê như: trận bom ném vào bệnh viện huyện Hương Khê
(ở Hương Phong), trận bom ở Đá Bạc, cầu Hào (Hương Bình)...[36].
Tháng 1/1966, Mỹ ném bom và bắn cháy Trường cấp II Hương Thanh, tháng 12/1967,
ném bom vào xă Hương Vĩnh, đúng khu sơ tán của Trường cấp III Hương Khê. Đặc
biệt nghiêm trọng là ngày 9/2/1966, Mỹ đã ném bom vào các lớp đang học của
Trường cấp II xã Hương Phúc, làm chết 33 em và làm bị thương 24 học sinh và 1
thầy giáo.
Trước tình
hình đánh phá ngày càng ác liệt của địch, công tác sơ tán được thực hiện triệt
để. Bệnh viện huyện chuyển về Hương Long, Trường cấp III chuyển về Hương Vĩnh,
Huyện ủy chuyển về Hương Bình, Huyện đội, Huyện đoàn, Ủy ban nhân dân huyện đều
sơ tán về các xã vùng ven biên giới Việt Lào. Tuy vậy các hoạt động như sản
xuất, giáo dục, y tế... vẫn được duy trì, vẫn đảm bảo không đứt đoạn, ít bị đảo
lộn. Trong điều kiện thầy và trò tự xây lấy trường học, tự đóng lấy bàn ghế (có
thể mỗi năm vài lần di chuyển và địch đánh phá), việc nâng cao chất lượng học tập
ở nhà trường vẫn được chú trọng. Những học sinh vượt qua bom đạn và đói rét của
thời kỳ khắc nghiệt ấy về sau đã trưởng thành, nhiều người trở thành cán bộ
lãnh đạo cao cấp, các giáo sư, tiến sĩ trên nhiều lĩnh vực.
2.2. Từ năm 1969 đến năm 1975
Từ 1/11/1968,
Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Tranh thủ thời gian ngừng bắn quân và dân
Hương Khê ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển
sản xuất. Tháng 1/1969, tại Hương Xuân, Đại hội công binh toàn huyện được khai
mạc đã có nhiều đại biểu xuất sắc của các ngành, địa phương, đơn vị đã tham dự.
Đại hội biểu dương thành tích sản xuất, chiến đấu, học tập, công tác mọi mặt
của quân dân Hương Khê trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại 1965 - 1968.
Đi đôi với
nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhân dân Hương Khê còn thể hiện tinh
thần lao động quên mình trên mặt trận thủy lợi. Những công trình thủy lợi tiêu
biểu ở các xã đã được hoàn thành trong những năm chiến tranh phá hoại ác liệt
nhất. Công trình thủy lợi sông Tiêm, đập Làng (Hương Thủy), đập Đá Bạc (Hương
Bình), đập Đá Hàn (Hòa Hải), đập Bình Hà (Hương Thanh)..., thực sự là những
công trình tưới tiêu có ý nghĩa trăm năm mà nhân dân địa phương thời chống Mỹ
đã xây dựng được.
Trong thời
gian này, Hương Khê còn hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng khác là làm nhà cho
Đoàn 70 Quân khu IV ở Sơn Tiến, Hương Sơn. Khi nhận được yêu cầu của Đoàn 70 về
việc xây dựng nhà cho bộ đội, nhân dân Hương Khê đã tự nguyện quyên góp nguyên
vật liệu, phân công nhau làm khung, đánh tranh, và vận chuyển tất cả đi hàng
trăm cây số trong điều kiện phương tiện vận tải thiếu thốn, đường sá hư hỏng
nặng. Kết quả là toàn huyện đã làm được 32 ngôi nhà từ 3 gian đến 5 gian bàn
giao đúng thời hạn cho bộ đội. Tại Hương Khê, nhân dân còn đóng góp xây dựng 5
ngôi nhà khác cho Xí nghiệp Mộc thương binh để đón các thương bệnh binh về nuôi
dưỡng và tạo công ăn việc làm cho họ.
Ngày
16/10/1971, Đảng bộ Hương Khê tiến hành đại hội, Đại hội tập trung kiểm điểm sự
lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng, bảo vệ địa phương, làm nhiệm vụ chi viện
tiền tuyến những năm 1970 - 1971. Báo cáo Chính trị Đại hội đã nhấn mạnh thành
tích tuyển quân, dân công phục vụ chiến trường đã vượt chỉ tiêu trên giao. Diện
tích lúa được giữ vững nhưng sản lượng không tăng mà giảm sút nhiều. Năm 1965,
sản lượng lương thực đạt 20.355 tấn (riêng lúa và ngô là 15.643 tấn), nhưng năm
1970 chỉ còn 12.200 tấn (riêng lúa và ngô chỉ đạt 10.185 tấn).
Tháng
4/1972, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra toàn miền
Bắc. Lần này, ngoài các loại máy bay F105, F4H... như giai đoạn 1965 - 1968, Mỹ
dùng máy bay chiến lược B52 và máy bay F111A đánh phá với quy mô lớn. Bom từ
trường, bom nổ chậm, bom khoan phá hạng nặng được Mỹ sử dụng để ngăn chặn các
con đường đi qua Hương Khê vào Quảng Bình và sang Lào. Đường goòng từ Yên Duệ,
Hòa Duyệt qua Thanh Luyện lên Chu Lễ, Tân Ấp... tất cả các cầu đều bị phá hỏng,
đường ô tô từ Khe Giao lên cũng bị oanh tạc ngày đêm.
Ngày
23/6/1972, quân dân Hương Lộc đã bắn rơi một máy bay F4 của Mỹ. Các đợt giao
quân năm 1972 của Hương Khê có hơn 1.000 tân binh, trong đó có 137 thanh niên
công giáo, cao nhất tỉnh. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris đã được ký kết. Mỹ
cam kết rút hết quân khỏi Việt Nam. Nhân dân Hương Khê cùng với nhân dân cả
nước và bạn bè trên thế giới chào đón sự kiện lịch sử trọng đại này. Một thời
kỳ mới lại bắt đầu. Đó là thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển
kinh tế văn hóa, xây dựng tiềm lực quốc phòng để làm tròn nhiệm vụ hậu phương,
tiếp tục hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Năm 1974,
thu hoạch lương thực và hoa màu của Hương Khê có khá hơn, phát triển cả về diện
tích, năng suất và sản lượng. Việc đóng góp các chỉ tiêu về nghĩa vụ lượng thực
và thực phẩm được thực hiện đầy đủ theo tinh thần “Thóc không thiếu một cân,
quân không thiếu một người”. Đầu năm 1975, Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện đã
phát động phong trào khai hoang, mở rộng diện tích, làm phân bón, đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp. Hơn 16.000 người đã được huy động vào nhiệm vụ khai hoang mở
rộng diện tích, đưa thêm 450 ha ruộng đất vào canh tác. Mỗi xã viên được các
hợp tác xã giao làm từ 3 đến 5 tạ phân xanh để bón ruộng.
Trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở miền Nam, hàng ngàn thanh niên Hương Khê
lại lên đường ra tiền tuyến với sự tiễn đưa chu đáo của nhân dân trong tinh
thần tổng động viên.
Có thể nói,
nhân dân Hương Khê, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đem hết sức mình ra xây dựng
và bảo vệ quê hương, góp phần vào sự nghiệp cách mạng to lớn của cả dân tộc. Từ
phong trào Xô viết - Nghệ Tĩnh đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đó là một
quãng đường đầy khó khăn gian khổ và cũng đầy vinh quang thắng lợi. Hương Khê
tự hào đã góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp chung.
III. HƯƠNG
KHÊ TRONG THỜI KỲ 1975 – 2015
1. Giai đoạn 1975 - 1985
Sau Đại
thắng mùa Xuân năm 1975, cùng với quân dân trong tỉnh, Hương Khê bước vào thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách quy mô trong điều kiện nước nhà hòa bình,
thống nhất. Trong sự nghiệp cách mạng mới, Hương Khê vừa có những thuận lợi,
vừa có nhiều khó khăn, trong đó khó khăn là rất cơ bản và to lớn. Ngoài những
khó khăn chung, tương tự các huyện khác như hậu quả chiến tranh nặng nề, kinh
tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, không có cơ sở vật chất - kỹ thuật, thiếu
kinh nghiệm và vốn liếng..., Hương Khê lại có khó khăn riêng của một huyện miền
núi. Đó là giao thông vận tải trở ngại, khí hậu khắc nghiệt, nhiều thiên tai,
xa các trung tâm kinh tế, văn hóa của tỉnh và khu vực, trình độ và sự phân bổ
dân cư phức tạp, không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Một thay
đổi lớn là từ cuối năm 1975, cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã được sáp nhập lại thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Từ đây,
Hương Khê trở thành một huyện trung du miền núi của Nghệ - Tĩnh, với phạm vi
hành chính như cũ. Sáp nhập Hà Tĩnh với Nghệ An thành tỉnh Nghệ - Tĩnh là sự
kiện to lớn tác động đến mọi mặt của Hương Khê.
Cùng với
sản xuất và không khí sáp nhập tỉnh, đầu năm 1976, Đảng bộ đã tập trung lãnh
đạo cuộc bầu cử Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Với tinh thần biến cuộc
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung thành “ngày hội thống nhất non sông”, các cấp,
các ngành trong huyện đã có nhiều hoạt động tuyên truyền cổ vũ cho ngày bầu cử,
tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
Ngày 25/4/1976, gần 100% cử tri toàn huyện đã nô nức đi bầu cử Quốc hội chung,
Quốc hội khóa VI, thể hiện ý thức làm chủ cao và sự tin tưởng vào chế độ mới
của nhân dân Hương Khê. Hương Khê là huyện có tỷ lệ cư tri đi bầu cao nhất Nghệ
- Tĩnh.
Nhìn chung,
đến cuối năm 1976, cơ bản Đảng bộ Hương Khê đã lãnh đạo nhân dân trong huyện
chuyển các mặt hoạt động sang thời bình, trong mối quan hệ chung thuộc tỉnh
Nghệ - Tĩnh. Mặc dù sự huy động nhân tài, vật lực không mang tính khẩn cấp, đột
xuất như trong thời chiến, song Hương Khê cũng đã có nhiều đợt huy động dân
công cho một số nhiệm vụ của tỉnh, nhất là cho công trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ -
Bộc Nguyên. Tuy nhiên, đối với Hương Khê, do địa bàn miền núi, cơ sở vật chất
nghèo nàn, sự giao thông có nhiều khó khăn, nên sự chỉ đạo, đầu tư của tỉnh
cũng bắt đầu có những lúc, những việc không được sâu sát, kịp thời như trước,
sự giao lưu với các địa phương vùng Hà Tĩnh cũ có phần giảm sút mà hướng mạnh
ra trung tâm của tỉnh là thành phố Vinh, giao thông trở thành vấn đề bức xúc
hàng ngày của sản xuất, đời sống nhân dân.
Những năm
1976-1977, theo chủ trương tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện, huyện hương
được chia thành 4 vùng kinh tế là:
Vùng 1 gồm
5 xã: Hương Trạch, Phúc Trạch, Hương Đô, Hương Lâm, Hương Liên. Hướng cây trồng
là thâm canh lúa 2 vụ, mở rộng ngô, sắn, bưởi Phúc Trạch. Chăn nuôi là trâu bò
đàn, cải tạo đồng cỏ, quy hoạch một số trại chăn nuôi lợn, nuôi cá, ong, vịt
đàn. Phối hợp cân đối giữa kinh tế nông nghiệp và lâm nghiệp, phát triển đốt
vôi, gạch, ngói.
Vùng 2 gồm
12 xã: Phúc Đồng, Hòa Hải, Hương Bình, Hương Long, Phú Gia, Phú Phong, Hương
Vĩnh, Hương Xuân, Lộc Yên, Gia Phố, Hương Thủy, Hương Giang. Hướng sản xuất là
thâm canh, chuyên canh lúa 2 vụ, ngô, sắn, khoai lang. Đưa năng suất lúa từ 3,1
tấn lên 3,5 tấn/ha cả năm. Phát triển cây công nghiệp như vừng, chè xanh, mở
rộng chăn nuôi lợn tập thể, vịt đàn, cá ao hồ, đốt vôi, gạch, ngói, mở rộng
xưởng mộc, cơ khí Trường Sơn. Phân bố hợp lý lao động và cân đối kinh tế nông
nghiệp và lâm nghiệp, trồng cây đồi trọc, trồng cây vùng rừng đã khai thác ở
Lâm trường Hương Khê, Chúc A và khai thác lâm sản.
Vùng 3 gồm
3 xã: Phương Mỹ, Phương Điền, Hà Linh. Hướng sản xuất cả vùng thấp lụt này là
thâm canh lúa chiêm Xuân có năng suất 20 tạ/ha, vụ Thu phải làm sớm, bỏ bớt
diện tích bấp bênh không ăn chắc. Đưa dân lên đồi lấy diện tích phát triển hoa
màu, trọng tâm là ngô Đông, ngô Xuân và cây thực phẩm. Chăn nuôi trâu bò đàn,
nuôi lợn, vịt đàn. Phối hợp cân đối nông nghiệp và lâm nghiệp, trồng cây đồi
trọc, khai thác lâm sản phụ.
Vùng 4 gồm
5 xã: Vũ Quang, Hương Minh, Hương Điền, Hương Thọ. Hướng sản xuất là thâm canh
hai vụ lúa, mở rộng trồng ngô Đông, Xuân, Thu gồm mía, vừng, đậu. Chăn nuôi
lợn, trâu bò đàn, nuôi cá, trồng cây và khai thác lâm sản.
Tiếp đó,
thực hiện chủ trương chung của Đảng về tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện,
đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mở rộng diện tích và quy mô
hộ của hợp tác xã, sau Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX (tháng 5/1977), việc di dân,
cất bốc mồ mả từ vùng ven sông, ngoài đồng lên vùng đồi núi được đẩy mạnh. Đây
là một biến động lớn, có tính cách mạng sâu rộng ở Hương Khê với mục đích biến
các làng xóm ven sông, các vườn tược gia đình thành ruộng đồng để tăng diện
tích canh tác.
Nhân dân
các xã ven sông Ngàn Sâu như Hương Phố, Hương Thịnh, Hương Giang, Hương Thủy,
Hương Tân, Hương Hà, Hương Thanh, Hương Thu, Hương Thái,... là trọng điểm của
cuộc di dời này. Trong năm 1978, không khí đào chặt cây cối, cất bốc mồ mả, di
chuyển nhà cửa, đình chùa, nhà thờ, trường học, trạm xá... lên đồi “thượng sơn
hạ hương” diễn ra một cách rầm rộ. Các xã không thuộc diện di dời đã cử lao
động đến trợ giúp các xã phải di dời.
Cuộc di
chuyển dân cư, mồ mả đã giải phóng được hàng trăm hecta đất vườn, nghĩa địa
thành ruộng đồng sản xuất hai, ba vụ. Dân cư được quy tụ trên những vùng đồi
cao, thoát cảnh lũ lụt hàng năm. Nhiều khu dân cư mới được hình thành, càng về
sau càng khang trang, có nhiều nơi trở nên trù phú.
Tuy vậy,
trước mắt chủ trương này đã được thực hiện một cách ào ạt, thiếu chuẩn bị,
không làm tốt công tác tư tưởng, do đó đã gây thiệt hại nặng nề cho nhiều vùng,
nhiều hộ dân. Hàng trăm khu vườn tược, cụm dân cư trù phú với cây ăn quả, cây
lưu niên tươi tốt ven sông Ngàn Sâu bị đốn hạ, làm cho lũ lụt thêm hung dữ. Các
cảnh quan, sinh thái, môi trường văn hóa cổ truyền bị phá hủy, đời sống nhân
dân bị đảo lộn, gặp nhiều khó khăn nơi đồi trọc, khô cằn... Biểu hiện chủ quan,
duy ý chí này đã được uốn nắn, mới triển khai ở một số xã ven sông Ngàn Sâu,
chưa trở thành phổ biến trong toàn huyện, do đó, hậu quả chưa nhiều, cái được
vẫn là cơ bản.
Về sản xuất
hàng xuất khẩu, Hương Khê là một huyện có nhiều tiềm năng. Với nhiều cố gắng,
cơ cấu cây trồng của huyện đã hình thành khá rõ, thế mạnh là cam, chanh, bưởi,
vừng. Hương Khê có một số nguyên liệu cung cấp cho các ngành thủ công nghiệp
của các huyện khác, bảo đảm 75% tổng giá trị xuất khẩu của huyện.
Năm 1980,
Đảng bộ Lâm trường trồng rừng Hương Khê là một trong số 41 đơn vị được Tỉnh ủy
Nghệ - Tĩnh biểu dương là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, có nhiều thành tích
xuất sắc nhất tỉnh, được nhận cờ của Tỉnh ủy.
Tuy nhiên,
thời kỳ này, huyện Hương Khê vẫn chưa thực hiện được mục tiêu ổn định lương
thực. Việc mở rộng quy mô hợp tác xã, di dân lên đồi, coi nhẹ các ngành nghề
tiểu thủ công, đã tỏ ra kém hiệu quả về kinh tế, gây lãng phí lớn công sức và
tiền của đầu tư, gây nên những khó khăn cho đời sống xã viên. Diện thiếu đói,
thời gian thiếu đói ngày càng lớn, không riêng của địa phương nào. Lương thực,
hàng tiêu dùng trở thành vấn đề thời sự hàng ngày, làm hao tổn nhiều công sức
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền và sự bươn chải của mọi tầng lớp
nhân dân, song không mang lại kết quả đáng kể... Tình trạng sản xuất phát triển
chậm chạp, lưu thông phân phối rối ren, đời sống khó khăn, xã viên nợ hợp tác
xã, các phong trào nặng về hình thức, các hiện tượng tiêu cực phát triển, cộng
với những thiệt hại do lũ lụt, hạn hán gây ra đã làm suy giảm khí thế cách mạng
của các tầng lớp nhân dân trong huyện. Đến năm 1981, cũng như các địa phương
khác, tình hình kinh tế - xã hội Hương Khê bắt đầu có sự giảm sút mạnh mà chưa
có cách khắc phục.
Sang giai
đoạn 1981 – 1985, mục tiêu của huyện về kinh tế - xã hội là: Tập trung sức vào
mặt trận hàng đầu là sản xuất nông nghiệp mà trọng tâm là lương thực, thực
phẩm, nông sản, phấn đấu đủ ăn và có một phần dự trữ. Bảo đảm đủ lương thực cho
nhu cầu phi nông nghiệp và căn bản giải quyết nạn thiếu lương thực trong các vụ
giáp hạt, thương nghiệp bảo đảm các nhu cầu tối thiểu về các mặt hàng thiết yếu
là vải mặc, dầu thắp sáng, thuốc chữa bệnh, giấy và dụng cụ học sinh. Cải thiện
điều kiện ăn, ở và không ngừng nâng cao đời sống văn hóa, đời sống tinh thần
cho nhân dân.
Huyện tiếp
tục củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhất là nâng cao
chất lượng kế hoạch hóa, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm theo tinh thần Nghị
quyết 28 của Thường vụ Tỉnh ủy. Bảo đảm hoàn thành kế hoạch một ở các nông, lâm
trường và hợp tác xã thủ công nghiệp. Khuyến khích kinh tế gia đình phát triển
theo hướng tăng nguồn rau quả, thực phẩm. Thu hồi và nắm chắc sản phẩm hàng
hóa, nhất là lương thực, thực phẩm, lâm sản. Tăng cường công tác quản lý thị
trường, chống đầu cơ, buôn lậu, mua bán phá giá.
Hương Khê
ra sức xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống, nhất là
hoàn chỉnh dứt điểm, đồng bộ các công trình thủy lợi, khai thác, sử dụng nguồn
nước hợp lý. Phát động phong trào làm thủy lợi nhỏ trên tất cả các vùng, cải
tạo đồng ruộng, xây dựng các cơ sở phục vụ nông nghiệp và chế biến, củng cố hệ
thống đường sá, cầu cống và các công trình phúc lợi và phương tiện giao thông
vận tải. Từng bước hình thành mạng lưới tiểu thủ công nghiệp gắn với nông
nghiệp trên địa bàn huyện.
Đối với
công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ chủ trương phải quán triệt sâu sắc quan điểm
của Nghị quyết Đại hội V của Đảng. Cụ thể là thường xuyên giáo dục cho cán bộ
đảng viên và nhân dân trong huyện thấu hiểu quan điểm đường lối của Đảng cả về
kinh tế và quốc phòng, nâng cao năng lực vận dụng, cụ thể hóa chỉ thị, nghị
quyết của Đảng nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của huyện để phát triển
kinh tế, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân... Cải tiến nội dung sinh hoạt
Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên cả về nhận thức, tư tưởng và hành động,
nhất là chất lượng hoạt động thực tiễn.
Nhìn chung,
trong giai đoạn 1975 - 1985, Đảng bộ và nhân dân Hương Khê đã phấn đấu vượt qua
nhiều khó khăn, đạt được một số thành tựu quan trọng. Song, thực trạng công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Hương Khê giai đoạn này cơ bản vẫn lúng túng,
chậm chạp, sút kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Hương Khê không phát triển được
bao nhiêu, trái lại đời sống nhân dân càng khó khăn, gay gắt hơn, hàng hóa khan
hiếm, lương thực thiếu hụt nghiêm trọng. Hậu quả kéo theo là sản xuất sút kém,
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa vững chắc, kinh tế hợp tác xã, kinh tế
quốc doanh thua lỗ liên tục. Tiêu cực trong phân phối lưu thông, giao thông,
lương thực, thực phẩm tăng mạnh. Cũng từ đó, chất lượng giáo dục, y tế, văn
hóa, sinh hoạt đoàn thể, văn nghệ, thể dục thể thao... kém phần sôi nổi, suy
giảm chất lượng. Nghiêm trọng hơn là lòng tin của xã viên vào hợp tác xã, của
cán bộ công nhân viên vào xí nghiệp quốc doanh và nói chung là niềm tin của
nhân dân vào chủ nghĩa xã hội bị giảm sút ngày một nghiêm trọng. Cùng với cả
nước, đến năm 1985, tình hình kinh tế - xã hội của Hương Khê đứng trước một
cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện.
2. Giai đoạn 1986 - 2000
2.1. Giai đoạn 1986 – 1991
Tháng
12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng được khai mạc tại Thủ đô Hà Nội. Với tinh
thần dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, khẳng định thành tựu, nghiêm khắc với
khuyết điểm, Đại hội đã quyết định đổi mới sâu sắc và toàn diện sự lãnh đạo của
Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội chủ trương kiên quyết khắc phục tư
tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, nhấn mạnh quan điểm coi quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là gồm nhiều thời kỳ, nhiều chặng đường, phải đề ra các mục tiêu,
bước đi thích hợp với mỗi thời kỳ, theo đúng quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đại hội nêu ra các bài học đổi mới cần quán triệt là
cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ. Đại hội đề ra các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới kinh tế là ra
sức thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải
phóng mọi năng lực sản xuất...
Đường lối
đổi mới của Đảng phù hợp với thực tế và yêu cầu khách quan, được nhân dân cả nước
hưởng ứng. Đối với Hương Khê, từ đây quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng
bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới đi lên theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Theo đường
lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, theo chủ trương của Đại hội
Đảng bộ Nghệ - Tĩnh lần thứ XII và của Đại hội Đảng bộ huyện, trong những năm
1986 – 1988, Đảng bộ Hương Khê đã ra sức phấn đấu, thực hiện nhiều biện pháp
linh hoạt, năng động để đạt các mục tiêu đề ra.
Đảng bộ đã
chỉ đạo các cấp các ngành mạnh dạn đổi mới cơ cấu kinh tế, phân công lại lao
động, tận dụng thế mạnh đất đai, lao động của huyện để phát triển sản xuất,
kinh doanh. Nhiều lĩnh vực được tăng cường đầu tư, chú trọng kỹ thuật mới, hình
thành lực lượng khoa học, kỹ thuật. Các hợp tác xã, các hộ xã viên đã ra sức
cải tạo đất, tăng phân bón, sử dụng giống cây con mới. Cơ chế quản lý sản xuất
được đổi mới và nâng cao chất lượng khoán, tháo gỡ các khó khăn, ách tắc để
phát triển sản xuất.
Nhờ những
cố gắng đó, đến năm 1988, về kinh tế, nhìn chung Hương Khê đã có chuyển biến,
tiến bộ trên một số mặt, nhất là cơ cấu cây, con, mùa vụ. Diện tích, năng suất,
sản lượng khoai lang, ngô, lạc đều tăng. Giống lúa mới được cấy ở 70% diện
tích, nhiều xã có năng suất cao. Đàn trâu, bò, lợn lai kinh tế, trồng rừng...đều
tăng hơn trước. Công tác khoán được triển khai nhanh ở các hợp tác xã nông
nghiệp với nhiều cách thức năng động, sáng tạo. Các lĩnh vực tiểu thủ công
nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản được giữ vững và tiếp tục phát
triển. Có thêm nghề mới như xay xát, chế biến thức ăn gia súc, sửa chữa cơ khí,
mở rộng liên doanh liên kết, xuất khẩu. Phân phối lưu thông có nhiều cố gắng,
mở rộng mạng lưới, chủ động khai thác hàng, nhiều xã có ngân sách từ 2 triệu
đồng trở lên. Văn hóa, xã hội được ổn định, có thêm cơ sở vật chất cho giáo
dục, y tế. An ninh, quốc phòng, tuyển quân, dự bị động viên đều thực hiện tốt,
là đơn vị quyết thắng của tỉnh.
2.2. Giai đoạn 1991 – 2000
Thể theo
nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Nghệ - Tĩnh, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính
phủ đã quyết định chia tách tỉnh Nghệ - Tĩnh, tái lập lại hai tỉnh Nghệ An và
Hà Tĩnh với địa giới hành chính như nguyên trạng. Các huyện trong tỉnh vẫn giữ
nguyên phạm vi như trước, huyện Hương Khê không có gì thay đổi về địa lý hành
chính.
Đại hội Đảng
bộ huyện Hương Khê lần thứ XXIV diễn ra qua hai vòng, vòng 1 vào tháng 3/1991,
vòng 2 vào tháng 12/1991.
Qua hai
vòng Đại hội đã khẳng định các thành tự bước đầu của công cuộc đổi mới ở Hương
Khê, đồng thời nhận rõ những yếu kém của mình trong lãnh đạo phát triển kinh
tế, xã hội, nhất là về kinh tế. Đại hội quyết nghị phương hướng chung về phát
triển kinh tế của Hương Khê là tiếp tục tập trung thâm canh cây lương thực, mở
rộng diện tích cây công nghiệp và rau màu cao cấp, phát triển kinh tế gia đình
và tư nhân, khôi phục ngành nghề trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, mở
rộng thêm nghề mới, tổ chức chế biến, tiêu thụ nông lâm sản, ổn định đời sống
nhân dân, hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước...
Đại hội
giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ họp tháng 5/1994 đã khẳng định những chuyển biến mạnh
mẽ của Hương Khê, nhất là việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, giống cây trồng, vật
nuôi, đầu tư thâm canh tăng vụ, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, phát triển
kinh tế theo mô hình VAC, gắn nông nghiệp với lâm nghiệp, tạo sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế gắn với xây dựng nông thôn mới, giải quyết cơ bản nhu cầu lương
thực, thực phẩm cho nhân dân...
Tháng
3/1993, Hương Khê được vinh dự đón đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Đỗ Mười về thăm. Huyện vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh
hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
Sau nhiều
năm phấn đấu, đến năm 1996, Hương Khê đã có bước chuyển biến quan trọng, toàn
diện về mọi mặt. Đại hội Đảng bộ huyện Hương Khê khóa XXV nhiệm kỳ 1996 – 2000
diễn ra vào tháng 3/1996. Tham dự Đại hội có 183 đại biểu đại diện cho 5.240
đảng viên của 57 đơn vị cơ sở. Đại hội đã đánh giá thực trạng kinh tế xã hội
của Hương Khê từ năm 1991 đến năm 1995 và nhận thấy rằng, tại thời điểm 1995,
Hương Khê đã có một bước chuyển căn bản về kinh tế xã hội. Trước hết là về năng
suất và sản lượng lương thực. Tổng sản lượng lương thực từ 14.920 tấn năm 1991
lên 20.656 tấn năm 1995, đưa chỉ số lương thực bình quân đầu người từ
127kg/1991 lên 173kg/1995, sản lượng nông sản hàng hóa tăng nhanh: Đậu xanh từ
309 tấn/1991 lên 1.278 tấn/1995. Giá trị tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 4%
hàng năm. Thu nhập bình quân đầu người vào năm 1995 là 120 USD. Nét nổi bật là
đã tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Kinh tế vườn và chăn nuôi
có nhiều chuyển biến tích cực đã tạo được những mô hình hộ, xã và vùng cây ăn
quả có giá trị kinh tế cao.
Đánh giá
các thành tựu cơ bản của huyện, Đại hội cho rằng Hương Khê đã giải quyết được
vấn đề lương thực trên địa bàn. Đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông
thôn có đổi mới. Toàn huyện có 15 vạn cây bưởi Phúc Trạch, 10 vạn cây cam các
loại. Đàn trâu, bò có 37.000 con, có 12% số hộ có 10 con bò trở lên. Lợn có
32.000 con, có 8.000 hộ có ao nuôi cá, nhiều hộ nuôi dê, nuôi hươu. Dự án 327
đã thu hút 6 tỷ đồng, quỹ xóa đói, giảm nghèo cho vay được 800 triệu đồng, tạo
công ăn việc làm và thu nhập cho hàng ngàn lao động. Trồng rừng được 1.000 ha,
ngăn chặn được tệ đốt rừng. Tổng sản phẩm tiểu, thủ công nghiệp 1991 - 1995 đạt
23,5 tỷ đồng. Xây dựng được 10 km đường điện 35 KV và 20 trạm hạ thế. Tổng số
vốn cơ bản năm 1991 - 1995 là 6,82 tỷ đồng, có 15 xã và thị trấn có điện dân
dụng. Có 23/25 xã có đường ô tô vào tận xã. Xây dựng một số cầu kiên cố ở Hói
Đót, Rào Ga, Làng Vàng, Hương Đô, Rào Trào, Phúc Đồng. Huyện có 8 hồ đập trung
thủy nông và 38 hồ đập tiểu thủy nông, bảo đảm nước tưới cho 2.000 ha lúa 2 vụ.
Xây dựng được các trụ sở cơ quan, đoàn thể khang trang như Hội trường huyện,
trụ sở Quân sự, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Đài truyền hình, Trường Trung
học Hương Khê, Trường dân tộc nội trú, chợ thị trấn...
Khuyết điểm
yếu kém của Hương Khê là kinh tế còn phụ thuộc nặng vào thiên nhiên, năng suất
cây trồng thấp, đầu tư thâm canh yếu. Chậm đổi mới Hợp tác xã, chậm giao đất, giao
rừng cho xã viên. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa còn khó khăn. Công nghiệp
yếu kém, thiếu quan tâm phát triển vùng dâu, nhựa thông. Thu ngân sách xã quá
yếu, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân còn thấp. Các cấp quản lý còn vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc quản lý kinh tế...
3. Giai đoạn từ 2000 đến 2015
Đại hội lần
thứ XXVI của Đảng bộ Hương Khê khai mạc ngày 28/11/2000. Đại hội đã đánh giá
kết quả sau 5 năm (1996 - 2000) Đảng bộ Hương Khê đã đạt được trên các lĩnh
vực, trong đó về kết quả phát triển kinh tế xã hội đạt được nhiều kết quả nổi
bật, tiêu biểu: Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương từ huyện đến cơ sở đã
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác
tiềm năng đất đai, lao động và thế mạnh của từng vùng, từng địa phương để
chuyển sang nền nông nghiệp hàng hóa. Toàn huyện đã quy hoạch thành 3 vùng kinh
tế lớn: vùng lúa thâm canh, vùng cây ăn quả và vùng trồng cây công nghiệp. Đi
đôi với quy hoạch vùng kinh tế, Huyện đã xác định được cây trồng chính để đầu
tư thâm canh tăng vụ, giảm diện tích lúa từ 6.551 ha năm 1996 xuống 5.592 ha
năm 2000. Diện tích trồng lúa giảm nhưng sản lượng lúa vẫn tăng (riêng vụ Đông
Xuân năng suất từ 21,2 tạ/ha). Đồng thời với việc giảm diện tích ngô, khoai,
sắn là việc tăng diện tích đậu, lạc lên hai lần so với năm 1996.
Huyện ủy đã
ra Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế vườn. Từ đó, kinh tế vườn, kinh
tế trang trại phát triển và đi vào cuộc sống của nhân dân. Sau năm năm, diện
tích vườn đã được cải tạo trên 1.500 ha. Toàn huyện đã trồng trên 1.100 ha bưởi
Phúc Trạch. Bình quân mỗi năm huyện thu nhập kinh tế vườn khoảng 20 tỷ đồng. Có
hàng ngàn hộ gia đình thu nhập từ 5 đến 30 triệu đồng một năm. Kinh tế vườn
nhà, vườn rừng, vườn đồi là hướng phát triển cơ bản và vững chắc trên con đường
xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu của nhân dân Hương Khê.
Trong nhiệm
kỳ 1996 - 2000, huyện đã xây dựng nhiều dự án tranh thủ được nguồn vốn đầu tư
của Trung ương, của tỉnh, đồng thời phát huy được nội lực của nhân dân địa
phương. Tổng số vốn đầu tư 5 năm cho kết cấu hạ tầng là 230,3 tỷ đồng, trong
đó, nhân dân đóng góp là 20 tỷ đồng. Đường giao thông liên xã, liên thôn được
mở rộng, nâng cấp. Các công trình thủy lợi đã hoàn thành đảm bảo tưới cho hơn
6.000 ha lúa hai vụ. Cơ sở vật chất trường học được xây dựng ngày càng khang
trang. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, trong 5 năm đã xây dựng
được hơn 670 phòng học lợp ngói và 280 phòng học cao tầng. Là một huyện nghèo,
kinh tế chưa phát triển, song hàng năm đã hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách
tỉnh giao. Huyện đã tiết kiệm chi tiêu, đảm bảo chi đúng tiến độ, phục vụ tốt
cho các chương trình hoạt động thường xuyên và đột xuất của huyện. Thu ngân
sách xã có nhiều tiến bộ, các chính sách xã hội được thực hiện có hiệu quả, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả vật chất lẫn tinh thần.
Về phương
hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2000 - 2005, Đại hội nêu rõ: Tiếp tục phát huy nội
lực, tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, của các ngành, các cấp tỉnh
để phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, gắn nông nghiệp với lâm nghiệp, gắn công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
với chế biến và dịch vụ thương mại. Tăng cường đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho Nhân dân, nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo và phát huy nhân tố con người, chăm lo giải
quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo,
chống tệ nạn xã hội và tệ tham nhũng.
Quyết tâm của
Đảng bộ là đến năm 2005, Hương Khê cơ bản thoát khỏi huyện nghèo, nền kinh tế
phát triển ổn định, tạo ra các sản phẩm hàng hóa lớn góp phần đáp ứng nhu cầu
của Nhân dân và tham gia xuất khẩu, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, Đảng
bộ huyện đạt danh hiệu Đơn vị trong sạch, vững mạnh từ năm 2001.
Thực hiện
Nghị quyết Đại hội, Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê đã thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp, với tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, phát huy nội lực là chính;
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, đầu tư thâm canh tăng năng suất, nên kinh tế của huyện có bước
tăng trưởng khá.
Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã diễn ra từ ngày 06 đến ngày 8/10/2005 tại Thị trấn Hương Khê. Đại hội đã
đánh giá kết quả đạt được trong 5 năm (2000 – 2005), với các kết quả nổi bật
trên lĩnh vực kinh tế - xã hội: Kinh tế tiếp tục tăng trưởng, cơ sở vật
chất kỷ thuật được tăng cường, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đạt và vượt
kế hoạch. Tốc độ tăng truởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 9,76%. Tổng giá trị
GDP đạt 437 tỷ 155 triệu đồng; thu nhập bình quân đầu người từ 2,8 triệu đồng
lên 4,1 triệu đồng; Tỷ trọng nông - lâm nghiệp từ 74,5% xuống còn 65,5% (trong
đó: tỷ trọng chăn nuôi chiếm 26,57%); CN – TTCN, XDCB và thương mại, dịch vụ từ
25,5% lên 34,5 % (trong đó: CN-TTCN, chiếm 23,3%; thương mại, dịch vụ chiếm
11,2%.); Tổng sản lượng lương thực từ 15.539 tấn lên 21.540 tấn, bình quân
lương thực đầu người tăng từ 146,6 kg lên 201,8 kg, sản lượng Lạc đạt 4.050
tấn, Đậu: 2.550 tấn (vào năm 2005); Tổng đàn Trâu, Bò từ 28.626 lên 32.956 con,
trong đó đàn trâu: 15.425 con, đàn bò 17.531 con (bò lai sin 159 con), đàn Lợn
31.365 con lên 35.860 con, gia súc, gia cầm từ 235.600 con lên 367.000 con.
Phong trào nuôi cá lồng phát triển khá, sản lượng thủy sản đạt 325 tấn. Công
tác thú ý được quan tâm đúng mức, không để dịch bệnh xảy ra trên diện rộng.
Thực hiện nghị quyết 01 của Tỉnh ủy, đến nay, 100% xã, thị đã chuyển đổi sử
dụng đất đến bước giao đất thực địa, số hộ tham gia chuyển đổi đạt 80%.
Hàng năm,
huyện trồng mới hàng chục vạn cây phân tán, gần 1.000 ha rừng tập trung trong
đó 673 ha rừng nguyên liệu, nâng độ che phủ đạt 52%. Diện tích Thông nhựa 5.060
ha, sản lượng nhựa hàng năm từ 500 đến 800 tấn, diện tích Cao su: 2.460 ha,
chè: 195 ha. Phong trào cải tạo vườn, trồng cây ăn quả, cây có giá trị kinh tế
cao được chú trọng. Diện tích cây ăn quả các loại: 2.342 ha, trong đó Bưởi Phúc
Trạch: 1.342ha. Thu nhập từ cây ăn quả và cây gió trầm đạt trên 50 tỷ đồng vào
năm 2005. CN - TTCN, thương mại, dịch vụ có bước phát triển mới. Các xưởng chế
biến, sửa chữa cơ khí, sửa chữa điện tử, đồ mộc dân dụng, sản xuất,
khai thác vật liệu xây dựng, các ngành dịch vụ phát triển mạnh. Triển khai xây
dựng nhà máy Gạch Tuy nen có công suất 25 triệu viên/năm. Trên địa bàn hiện có
08 doanh nghiệp Nhà nước, 28 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các hình thức liên
doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế được hình thành, một số hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp sau chuyển đổi hoạt động có hiệu quả. Tổng giá trị sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ đạt 179 tỷ đồng. Tổng
vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện từ 46 tỷ đồng năm 2000 lên 107 tỷ
đồng năm 2005. Trong 5 năm, huy động nội lực đạt gần 70 tỷ đồng, làm mới 130 km
đường nhựa, đường bê tông, 68 km kênh mương bê tông, đường giao thông nông thôn
và cầu cống được làm mới, nâng cấp, sửa chữa, nhân dân đi lại
thuận lợi. Hệ thống trường học, trạm xá, trụ sở, cơ sở vật chất phục vụ các
hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao và các công trình phúc lợi xã
hội được tăng cường; có 6 xã có nhà làm việc cao tầng, 21/ 22 xã có trạm xá xây
trong đó có 5 trạm xá chống lũ, 100% xã có nhà học cao tầng với 370 phòng.
Trung tâm bồi dưỡng chính trị, các trường THPT, Trung tâm y tế, nhà làm việc
nhiều cơ quan, đơn vị được nâng cấp, làm mới, khang trang, sạch, đẹp. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 14 tỷ 120
triệu đồng vào năm 2005.
Về Văn hoá,
xã hội tiếp tục được quan tâm: Toàn huyện có 17.760 gia đình văn hoá, đạt tỷ lệ
70%, có 5.045 gia đình thể thao, đạt tỷ lệ 20% (mục tiêu 15%), có 115 làng, xã
và 20 cơ quan đạt chuẩn văn hoá, có 70% xã, thị xây dựng được nhà bia tưởng
niệm, 70% xóm xây dựng được hội quán. Huyện hoàn thành phổ cập THCS; Thành lập
thêm 2 trường THPT. Toàn huyện có: 55 trường đạt chuẩn Quốc gia, chiếm tỷ lệ
trên 63 %, là huyện dẫn đầu toàn Tỉnh về xây dựng trường chuẩn Quốc gia. 100%
xã, thị có Trung tâm học tập cộng đồng. Về y tế, xây dựng được 12 trạm xá
chuẩn, 7/22 trạm xá có bác sỹ, 100% xóm có cán bộ y tế thôn bản, 68,6% hộ dân
dùng nước sạch. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên 0,92%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng giảm xuống còn 26%. Hệ thống Phát thanh, truyền hình, Bưu chính viễn thông
được đầu tư nâng cấp. Đài PTTH duy trì thời lượng phát sóng đài TW, địa phương.
Có 100% xã, thị lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống phát thanh, 100% xã có điểm
Bưu điện văn hoá và điện thoại, tổng số máy điện thoại: 3.700 đạt 3,5 máy/100
người dân. Mạng điện thoại di động Vina Phone được lắp đặt, khai thác sử dụng.
Có 96,5% hộ dân dùng điện, 85% hộ có phương tiện nghe nhìn. Tỷ lệ hộ nghèo giảm
xuống còn 12% (tiêu chí cũ). Huy động đóng góp 15 tỷ đồng để giúp xoá nhà tranh
tre, dột nát và ngói hóa nhà ở cho 2.454 hộ nghèo, trong đó có 480 gia đình
chính sách. Cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc ít người, đảm bảo chế độ
cho đối tượng chính sách, làm tốt công tác từ thiện, nhân đạo.
Về phương
hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2005 - 2010, Đại hội nêu rõ: Quán triệt sâu sắc Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVI, vận dụng sát đúng vào điều kiện cụ thể của địa phương. Phát huy nội
lực, khai thác tiềm năng, lợi thế, tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư để phát triển
kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh
tế, tập trung phát triển chăn nuôi, lâm
nghiệp xã hội, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du
lịch. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế. Quan tâm các hoạt động
văn hóa, xã hội. Phát huy nhân tố con người, nâng cao dân trí, coi trọng chất
lượng giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đẩy mạnh các hoạt
động khoa học công nghệ. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng.
Làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo - xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội. Giữ vững Quốc phòng
- an ninh. Nâng cao vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch,
vững mạnh. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu đưa Hương Khê
sớm thoát khỏi huyện nghèo, vươn lên giàu mạnh.
Đại hội xác định cần tập trung
chỉ đạo các mũi đột phá:
1. Tập trung xây dựng cụm Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp, phát triển
kinh tế dọc tuyến đường Hồ Chí Minh.
2. Đẩy mạnh phát triển
chăn nuôi, nâng cao chất lượng và tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm. Trồng, chế
biến thức ăn và đảm bảo các dịch vụ cho phát triển chăn nuôi.
3. Phát triển mạnh mẽ kinh tế lâm nghiệp, trồng
cây ăn quả, cây nguyên liệu có giá trị kinh tế cao.
4. Đổi mới công tác cán bộ, đẩy mạnh cải cách hành chính làm cho bộ máy
Đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện đến cơ sở
thực sự trong sạch, vững mạnh.
Ngay sau
Đại hội thành công, các cấp ủy Đảng đã tổ chức tốt việc quán triệt, học tập và
triển khai thực hiện các nội dung Nghị quyết Đại hội sắt với tình hình từng địa
phương, đơn vị, bằng nhiều giải pháp sáng tạo, cụ thể như: Đẩy mạnh phát triển Nông - Lâm nghiệp theo hướng CNH-HĐH
nông nghiệp và nông thôn. Thu hút đầu tư để phát triển CN-TTCN, Thương mại,
dịch vụ, du lịch. Tạo điều kiện thuận lợi
để phát triển các thành phần kinh tế. Tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý, khai thác tốt
các tài nguyên thiên nhiên, phát triển sản xuất, tạo nguồn thu ngân sách. Quản lý chặt chẽ việc thu - chi ngân sách,
đảm bảo thu đúng, thu đủ, khuyến khích và khai thác tốt nguồn thu, tạo nguồn
thu mới. Quan tâm phát triển văn hoá -
xã hội, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Tăng cường công tác
Quốc phòng - An ninh. Không ngừng nâng
cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng đảm bảo khối đoàn kết, thống nhất
trong Đảng bộ và nhân dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng, công tác cán bộ, Đảng viên. Tăng cường công tác kiểm
tra của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo, chăm lo mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các
cấp, giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của công tác Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Được sự
quan tâm giúp đỡ của Trung ương, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của tỉnh, Đảng
bộ và nhân dân huyện nhà đã đoàn kết, nỗ lực; nắm bắt thời cơ, thuận lợi, khắc
phục khó khăn, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, động viên các tầng lớp nhân dân nỗ
lực phấn đấu giành được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực, đời sống vật
chất tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng lên. Những kết quả đạt được
có ý nghĩa quan trọng cho một nhiệm kỳ mới.
Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII diễn ra từ ngày
20-22/7/2010 tại Thị trấn Hương Khê. Đại hội đã đánh giá kết quả đạt được trên
các lĩnh vực, trong đó về lĩnh vực kinh tế - xã hội được khẳng định như sau: Kinh tế tăng trưởng khá, tốc độ tăng
trưởng bình quân trong 5 năm đạt 9,65% (bằng 80,41% kế hoạch); giá trị tăng thêm (GDP) năm 2010 là 965.979 triệu đồng; thu nhập bình
quân đầu người tăng từ 4,2 triệu đồng (năm 2005) lên 9,0 triệu đồng (năm 2010).
Cơ cấu kinh tế: Nông - lâm nghiệp, thuỷ sản từ 62,70% giảm xuống còn 53,1%;
CN-TTCN, XDCB từ 26,20% tăng lên 33%; Thương mại - Dịch vụ từ 11,0 % tăng lên
13,9%. Huyện tập trung chỉ đạo sản xuất, coi trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
mùa vụ; đẩy mạnh đầu tư, thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất. Giá trị sản
xuất nông – lâm, ngư nghiệp (năm 2010) đạt 632.463 triệu đồng, bằng 185% so với
năm 2005; giá trị thu nhập 01 ha canh tác đạt 32 triệu đồng; sản lượng lương
thực năm 2010 đạt 23.500 tấn (bằng 94% kế hoạch, so với năm 2005 tăng 4.127
tấn); Triển khai thực hiện đề
án phát triển kinh tế
vườn, kinh tế trang trại; chú trọng phát triển cây bưởi Phúc Trạch, cam, cây ăn
quả các loại, đã đem lại thu nhập khá lớn, năm cao nhất đạt trên 49 tỷ đồng.
Năm 2010, diện tích Bưởi Phúc Trạch đạt gần 1.000 ha, tăng 5,3% so với năm
2005, cam các loại đạt 780 ha, tăng 14,7% so với năm 2005, Chè 200 ha, đạt
90,9% kế hoạch; cao su trên 5.300,0 ha, đạt 190,4% kế hoạch, trong đó diện tích
khai thác 2.500 ha, sản lượng đạt 2.500 tấn/năm.
Phát
triển chăn nuôi được xác định là khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Nghị
quyết 03 -NQ/HU của Ban chấp hành Đảng bộ huyện về phát triển chăn nuôi được tổ
chức triển khai tích cực, đạt được những kết quả có ý nghĩa quan trọng. Nhận
thức của nhân dân về phát triển chăn nuôi được nâng lên. Tổng đàn trâu, bò đạt
39.000 con, bằng 85,70% kế hoạch, tăng 17,8% so với năm 2005 (đàn bò lai sind
sau 5 năm đạt 3.539 con); đàn lợn cuối kỳ: 37.000 con, tăng 3,2% so với năm
2005; đàn gia cầm 430.000 con, tăng 17,8% so với năm 2005. Sản lượng thịt hơi 4.500
tấn, tăng 36% so với năm 2005; trứng các loại 2.600.000 quả, tăng 61% so với
năm 2005.
Công
tác bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng, phát triển vốn rừng đạt nhiều kết quả:
Khoanh nuôi bảo vệ 86.432 ha, tăng 8,3% kế hoạch; trồng rừng tập trung 7.327 ha
(trong đó: hộ gia đình 2.327 ha, doanh nghiệp 5.000 ha); hàng năm phát động
trồng trên 15 vạn cây phân tán các loại; độ che phủ rừng đạt 64,5% bằng 107,5%
kế hoạch, tăng 21,7% so với đầu nhiệm kỳ. Sản lượng gỗ
khai thác 5 năm đạt 270.057m3, bình quân mỗi năm khai thác 54.000 m3
(trong đó gỗ rừng tự nhiên 4.000m3, gỗ rừng trồng
50.000m3); xử lý 1.563 vụ vi phạm lâm luật, thu nộp ngân sách trên
8,9 tỷ đồng. Tỷ lệ lao động trong nông – lâm nghiệp từ 92,2% (2005) giảm xuống
còn 89,4% (2010).
Tăng
cường quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi đã được đầu tư, đảm bảo phục
vụ nước tưới cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân; làm mới 81km kênh mương bê
tông. Hàng năm đã phát động chiến dịch làm giao thông, thủy lợi nội đồng có
hiệu quả với giá trị bình quân 6 tỷ đồng/năm.
Hoàn
thành quy hoạch sử dụng đất toàn huyện và 21 xã đến năm 2015, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đạt trên 85% (năm 2005, đạt 55,2%). Công tác chuyển đổi
sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2 được tập trung chỉ đạo, nhân dân đồng tình
ủng hộ. Phối hợp soát xét quỹ đất của các chủ rừng, thu hồi giao cho các hộ dân
quản lý, sử dụng gần 10.000 ha. Xây dựng và triển khai thực hiện đề án bảo vệ
môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo Nghị quyết số 41
-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Đã có
các dự án đầu tư phát triển sản xuất được triển khai như: Dự án Nhà máy gạch
Tuy nen, gạch Siêu mịn tại xã Hương Bình, Phúc Đồng, chế biến Cao su tại xã Hà
Linh. Nhiều doanh nghiệp mới được thành lập và hoạt động có hiệu quả. Đến năm
2010 trên địa bàn huyện có 80 doanh nghiệp (trong đó: 5 Doanh nghiệp Nhà nước),
đạt 127,3% kế hoạch và tăng 52 doanh nghiệp so với năm 2005. Triển khai thực
hiện dự án năng lượng nông thôn 2 (REII) cho 8 xã. Đầu tư xây dựng, nâng cấp:
chợ Hương Trạch, chợ Hôm (Phương Mỹ), chợ Phương Điền, Chợ Trúc, các cơ sở
thương mại, dịch vụ từ thị trấn, thị tứ đến các xã vùng sâu, vùng xa phát
triển, đáp ứng các nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Hệ thống nhà hàng,
khách sạn, nhà nghỉ, các dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận tải, dịch vụ viễn thông
phát triển nhanh. Phát huy lợi thế của tuyến đường Hồ Chí Minh, nhiều cơ sở sản
xuất và dịch vụ với số vốn đầu tư lớn đã ra đời, phát triển năng động. Đây có
thể coi là điểm nhấn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tổng giá trị sản xuất
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đến năm 2010 đạt 155.500 triệu đồng, bằng
229,32% năm 2005. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực CN – TTCN, dịch vụ, thương mại
tăng từ 7,80% (2005) lên 10,60% (2010).
Thực hiện Nghị quyết 05 của Ban chấp hành Đảng bộ,
công tác quy hoạch được quan tâm và tổ
chức triển khai có hiệu quả. Đã hoàn thành quy hoạch sử dụng đất toàn huyện đến
2015, quy hoạch hệ thống giao thông, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quy
hoạch cụm tiểu thủ công nghiệp - Làng nghề, các quy hoạch xen dắm dân cư; đang
triển khai quy hoạch chung Thị trấn, quy hoạch hệ thống trường lớp và một số
quy hoạch khác.
Công
tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý nguồn vốn ngày càng có hiệu quả,
chất lượng công trình được nâng lên. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn
mới, xã Gia Phố được chọn làm điểm chỉ đạo của Trung ương, đang được đầu tư các
nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất. Phong trào làm giao
thông đạt kết quả tốt, trong 5 năm đã làm mới được 220km đường nhựa, đường bê
tông. Tổng giá trị xây dựng cơ bản thực hiện trên địa bàn trong 5 năm 860.444
triệu đồng, trong đó từ nguồn đầu tư của các doanh nghiệp và đóng góp của nhân
dân trên 231 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách trên địa bàn đến năm 2010 ước đạt
16.500 triệu đồng, tăng 10% so với kế hoạch (điều chỉnh giữa nhiệm kỳ 15 tỷ
đồng) và tăng 234% so với năm 2005. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Ngân hàng chính sách xã hội; Ngân hàng công thương từ năm 2009 đến năm
2010 đã giải ngân cho 28.212 lượt hộ vay vốn phát triển sản xuất, với doanh số
trên 982 tỷ đồng. Văn hoá - xã hội phát
triển, đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực; toàn huyện có 75%
gia đình đạt chuẩn “gia đình văn hoá”, bằng 93,90% kế hoạch; 30% gia đình đạt
chuẩn “gia đình thể thao”, bằng 100% kế hoạch; có 10 xã, 64 làng, 39 cơ quan,
trường học được công nhận đơn vị văn hoá; 85% xã có hương ước; 12 di tích lịch
sử văn hoá được công nhận di tích cấp tỉnh và cấp quốc gia; trên 95% hộ có
phương tiện nghe nhìn. Nhiều di tích lịch sử và công trình văn hoá được đầu tư
xây dựng như: Quần thể di tích lịch sử cấp Quốc gia, Thành Sơn phòng - đền Trầm
Lâm - đền Công Đồng; Chỉ huy Sở Tiền phương tổng cục hậu cần 559, Đoàn 500;
tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh. 100% xã, thị trấn có báo đọc trong ngày, phủ
sóng điện thoại di động và truy cập được Intrenet.
Giáo
dục và đào tạo tiếp tục phát triển, giành được những thành tựu mới: 100% xã,
thị đạt phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS,
đến năm 2010 có 7 xã đạt phổ cập giáo dục bậc trung học; 100% xã, thị
thành lập Trung tâm học tập cộng đồng. Tỷ lệ học sinh đậu tốt nghiệp, học sinh
giỏi ở các bậc học, số học sinh thi đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung
cấp chuyên nghiệp ngày càng tăng. Năm học 2008 – 2009, có trên 900 em đậu vào
các trường đại học, cao đẳng và trung cấp; có 76% số trường học đạt chuẩn Quốc
gia. Bệnh viện Đa khoa huyện được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trình độ đội
ngũ cán bộ y tế từng bước được nâng cao. Trung tâm Y tế dự phòng được thành
lập, làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh; xây dựng được 20/22 xã chuẩn Quốc
gia về y tế (bằng 90,9% kế hoạch); 8/22 trạm y tế có bác sỹ.
Thực
hiện tốt Pháp lệnh về dân số. Đẩy mạnh chiến dịch truyền thông, vận động lồng
ghép đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản – kế hoạch hóa gia đình đến các xã
vùng khó khăn, có mức sinh cao. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ tăng dân số còn 0,58%, giảm 0,33% so với năm
2005; tỷ lệ sinh trên 2 con 19,6%, giảm 5,7% so với năm 2005; giảm tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng từ 28,8% xuống dưới 22% năm 2010. Trong 5 năm có
trên 5.000 lượt thanh niên được đào tạo nghề từ các cơ sở dạy nghề; đã vận động
và hỗ trợ kinh phí sửa chữa, làm mới 1.912 nhà cho hộ nghèo (trong đó có 186 hộ
gia đình chính sách), trị giá trên 27.500 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ
52,57% (năm 2005) xuống 14,58% (năm 2010).
Những
kết quả đạt được của Đảng bộ và Nhân dân huyện Hương Khê trong nhiệm kỳ qua là
cơ sở cho việc tiếp tục hoạch định các chủ trương, biện pháp tổng thể đồng bộ
để đưa huyện nhà phát triển nhanh hơn, góp phần cùng cả tỉnh thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới. Đại hội xã xác định phương hướng
chung: Phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, lợi thế, tranh thủ mọi nguồn lực
đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh và bền vững.Chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển chăn nuôi, kinh tế vườn, kinh tế
trang trại, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch.
Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế. Nâng cao chất lượng các hoạt
động ứng dụng khoa học công nghệ. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất và
kết cấu hạ tầng. Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân
dân, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới. Làm tốt công tác xóa đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội, xây dựng nông thôn mới.
Tăng cường củng cố Quốc phòng - an
ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao vai trò lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu đưa Hương Khê sớm thoát khỏi huyện nghèo,
vươn lên giàu mạnh.
Những mũi trọng tâm có tính đột phá, đó là:
1. Đổi mới công tác quy hoạch, thu hút mạnh mẽ các
nguồn đầu tư phát triển đồng bộ hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với xây dựng nông
thôn mới.
2. Ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ kỷ thuật vào sản xuất
nông - lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Đẩy mạnh phát triển chăn
nuôi, kinh tế vườn, kinh tế trang trại, tạo bước chuyển dịch tích cực cơ cấu
trong nội bộ ngành nông nghiệp.
3. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động
ở nông thôn, gắn với xuất khẩu lao động, tích cực giải quyết việc làm, thu
nhập, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát
huy truyền thống cách mạng của quê hương, kế thừa những thành tựu và kinh
nghiệm đã đạt được trong nhiệm kỳ qua, quyết tâm thực hiện các mục tiêu, chỉ
tiêu Đại hội đã thông qua với nhiều cách làm sáng tạo hiệu quả như: Phát triển
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị
diện tích, đẩy mạnh việc đưa các loại giống mới có năng suất, chất lượng cao
vào sản xuất. Tập trung chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, trong đó
hướng cơ cấu giảm dần diện tích lúa Mùa, tăng diện tích lúa Hè Thu, đẩy mạnh
sản xuất vụ Đông thành vụ sản xuất chính trong năm. Đẩy mạnh ứng dụng và chuyển
giao các tiến bộ khoa học - công nghệ
vào sản xuất nông, lâm nghiệp, làm tốt công tác dự tính, dự báo; thực
hiện xã hội hóa về công tác khuyến nông. Đẩy
mạnh phát triển chăn nuôi, kinh tế vườn, kinh tế trang trại. Đổi mới
công tác quy hoạch, thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư, phát triển đồng bộ hạ
tầng kinh tế - xã hội, gắn với xây dựng nông thôn mới. Triển khai thực hiện quy
hoạch phát triển kinh tế – xã hội dọc đường Hồ Chí Minh; Thu hút đầu tư để phát triển CN-TTCN,
thương mại, dịch vụ - du lịch tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế
phát triển. Trên cơ sở quy hoạch, xây dựng và ban hành cơ chế chính sách tạo
môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư. Phát huy nội lực, tranh thủ các nguồn đầu tư; khuyến khích, động
viên nguồn vốn đầu tư trong dân, doanh nghiệp, nhà nước và nhân dân cùng làm.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hương Khê lần thứ XXIX, nhiệm kỳ 2015 - 2020 được khai mạc. Đại
hội diễn ra trong thời gian 3 ngày, từ ngày 11
đến ngày 13 tháng 8 năm 2015, tại Thị trấn Hương Khê. Tham dự Đại hội có 215
đại biểu đến từ cho 43 tổ chức cơ sở Đảng đại diện cho 6.810 đảng viên. Đại hội
đã đánh giá khách quan, toàn diện kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII, với những kết quả đạt được trên lĩnh vực kinh tế
xã hội: Kinh tế tiếp tục phát triển, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình
quân trong 5 năm đạt 14,6%, (tăng 2,6% so với nghị quyết); thu nhập bình quân
đầu người năm 2015 dự kiến đạt 28 triệu đồng, tăng gần 3,5 lần so với năm 2010.
Cơ cấu kinh tế: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 41,1% (giảm 1,7% so với nghị quyết);
CN-TTCN, XDCB 38,7% (tăng 1,1% so với nghị quyết); Thương mại - Dịch vụ 20,2%
(tăng 0,6% so với nghị quyết).
Để
đảm bảo phát triển trên các lĩnh vực ổn định, khoa học và bền vững, công tác
quy hoạch và quản lý quy hoạch được quan tâm chỉ đạo: Trong nhiệm kỳ đã xây dựng và hoàn thành phê duyệt 12 quy
hoạch như: Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, bảo vệ và phát triển rừng, phân
khu thị trấn, giao thông vận tải, điện lực, bãi rác thải, nghĩa địa vùng trung
tâm, quy hoạch nông thôn mới các xã và một số quy hoạch ngành, lĩnh vực
khác...; đồng thời chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt việc công bố, cắm mốc, tuyên
truyền vận động để nhân dân được biết, phối hợp thực hiện; tạo chuyển biến
trong phát triển sản xuất, cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh trên địa bàn.
Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp tiếp tục đạt được kết quả tăng trưởng khá, một số sản phẩm chủ lực được tập trung sản
xuất có hiệu quả. Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về phát triển chăn nuôi, phát
triển kinh tế vườn, trang trại; chỉ đạo ban hành các đề án, chính sách, chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, mùa vụ; đẩy mạnh đầu tư, thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật, đưa các loại giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Năm
2015, tổng sản lượng lương thực ước đạt trên 29.000 tấn (tăng 4.000 tấn so với
nghị quyết). Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp đạt 1.243 tỷ đồng (bằng 2,25 lần
so với năm 2010); giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đất canh tác đạt 61
triệu đồng/ha (tăng 19 triệu đồng/ha so với nghị quyết); diện tích lúa trà xuân
muộn tăng từ 40% năm 2010 lên 98% năm 2015, trong đó diện tích lúa lai vụ Xuân
chiếm tỷ lệ trên 60%...; một số cây trồng ngắn ngày như: ngô, đậu, lạc... được bố
trí hợp lý, đưa các giống mới: C919, MX4..., đậu 93-1,99-3..., lạc
L14, L27 vào sản xuất. Năm 2015, sản lượng ngô đạt 6.119 tấn, giá trị
sản xuất 39.774,5 triệu đồng (liên kết với doanh nghiệp trên trên 400 ha,
bước đầu đạt hiệu quả); sản lượng đậu đạt 2.187 tấn, giá trị sản xuất
43.740 triệu đồng; sản lượng lạc đạt 5.076 tấn, giá trị sản xuất
91.368 triệu đồng.
Chăn nuôi đã chuyển dần từ nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển gia trại, trang
trại quy mô lớn và vừa, liên kết với doanh nghiệp theo hướng bền vững. Trong
nhiệm kỳ, tổng đàn các loại vật nuôi chủ lực đều tăng, trong đó đàn bò tăng
bình quân hàng năm 5,52%, đàn lợn tăng 13,9%, đàn hươu tăng 35,3%, đàn gia cầm
tăng 6,1%. Triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm; tỷ
trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đạt 46%, tăng 24,6% so với năm 2010.
Kinh tế
vườn, trang trại phát triển cả về số lượng, quy mô, sản xuất mang lại thu nhập
khá cho người dân. Phối hợp nghiên cứu thành
công giải pháp tăng tỷ lệ đậu quả cho bưởi Phúc Trạch; diện tích cây ăn quả
toàn huyện có 2.800 ha (bưởi 1.500 ha; cam các loại 1.300 ha); hàng năm, sản
lượng bưởi Phúc Trạch đạt trên 5.000 tấn, cam các loại đạt 3.900 tấn, giá trị
sản xuất đạt trên 230 tỷ đồng. Chè công nghiệp ổn định diện tích 200
ha, sản lượng 1.479 tấn, giá trị sản xuất
trên 14 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2010.
Kinh tế lâm nghiệp đã hình thành các vùng trồng rừng nguyên liệu tập trung
phục vụ cho công nghiệp chế biến; diện tích cây cao su trên địa bàn huyện đạt
trên 6.450 ha (Tiểu điền 480 ha, đại điền gần 5.970 ha). Giá trị sản xuất ngành
lâm nghiệp đạt trên 210 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2010; tỷ lệ độ che phủ
rừng đạt 69,5%.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản
tiếp tục tăng trưởng. Triển khai thực hiện các chính sách của Trung ương, Tỉnh
về thực hiện giảm, giãn thuế cho trên 80 doanh nghiệp theo Nghị quyết số
02/NQ-CP của Chính phủ. Tạo cơ chế chính sách về thu hồi đất, cho thuê đất, bồi
thường giải phóng mặt bằng, thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển CN -
TTCN trên địa bàn. Một số
ngành nghề truyền thống như bánh, bún, mộc dân dụng, gia công cơ khí... được
củng cố và phát triển. Triển khai thực hiện các dự án về điện, đảm bảo cung
cấp điện ổn định cho nhân dân; có 17/21 xã đạt tiêu chí về điện trong xây dựng
nông thôn mới. Tổng giá trị sản xuất CN-TTCN năm 2015 đạt 497 tỷ đồng, tăng 32%
so với năm 2010.
Công tác quản lý nhà nước về đầu tư được tăng
cường; công
tác kiểm tra, giám sát được quan tâm; giải quyết kịp thời các vướng mắc trong
đầu tư, tạo điều kiện phát huy hiệu quả sử dụng nguồn vốn, nâng cao chất lượng
công trình xây dựng cơ bản. Tranh thủ
sự giúp đỡ của Trung ương và của Tỉnh, phát huy xã hội hóa đầu tư, trong nhiệm
kỳ đã huy động hơn 2.238 tỷ đồng (tăng 49% so với nghị quyết) đầu tư xây
mới, nâng cấp, sửa chữa 329 công trình xây dựng; trong đó có nhiều công trình quan trọng như: đường Hà Linh - Phúc Trạch; đường vượt lũ
Hương Đô - Khe Mây; đường vào các khu trang trại chăn nuôi tập trung; các tuyến
đường liên xã, liên thôn; các công trình thủy lợi Khe Táy, Khe Con - Họ Võ; các
kè chống sạt lở bờ sông; khu di tích thành Sơn phòng Hàm Nghi và đền Trầm Lâm; Trung
tâm Dạy nghề huyện...
Tài chính,
tín dụng, ngân hàng; thương mại - dịch vụ có
những chuyển biến tốt. Thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 71 tỷ đồng (tăng
77,5% so với chỉ tiêu Nghị quyết, tăng 4,3 lần so với năm 2010); hoạt
động tín dụng - ngân hàng được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân
hàng thương mại hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vay vốn phục vụ các hoạt
động sản xuất kinh doanh; đổi mới các hoạt động thanh toán qua hệ thống ngân
hàng như: sử dụng thẻ ATM, nộp thuế qua hệ thống điện tử, dịch vụ tiện ích...;
tổng nguồn huy động trên địa bàn đạt trên 936 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay trên
1.509 tỷ đồng; nợ xấu, nợ quá hạn ở tỷ lệ thấp (chiếm 2,15% nợ cho vay). Tốc độ
tăng trưởng thương mại - dịch vụ hàng năm luôn đạt trên 15%, tổng mức bán lẻ
hàng hóa, dịch vụ tăng bình quân trên 20%/năm. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên
truyền, vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Người Hà Tĩnh ưu
tiên sử dụng hàng hóa sản xuất trong tỉnh”, phối hợp đưa hàng về nông thôn;
giới thiệu, quảng bá các sản phẩm sản xuất trong tỉnh; thực hiện chuyển đổi 7 mô hình quản lý chợ ở các xã, nâng cấp 4 chợ đạt chuẩn Nông thôn mới (Phúc Trạch,
Phương Mỹ, Hương Bình, Hương Thủy), triển khai đầu tư xây dựng 04 chợ (Hà Linh,
Hương Long, Phú Gia, Hòa Hải).
Hoàn thành công tác chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2; hoàn
thành việc xử lý và cấp giấy do giao đất sai thẩm quyền cho 747 hộ gia đình, cá
nhân; cấp giấy lần đầu cho 7.034 hộ; cấp đổi 27.602 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ở, đất sản xuất nông nghiệp. Tập trung xử lý các vụ việc tồn đọng về tranh chấp rừng và đất lâm nghiệp,
sai phạm trong quản lý sử dụng đất.
Văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, an
sinh xã hội được đảm bảo; đời sống tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Tổ chức thành công Đại hội thể dục, thể thao cấp huyện lần thứ VII; hàng
năm tổ chức 5 đến 6 giải thể thao cấp huyện; tham gia thi đấu, hội diễn cấp
tỉnh đạt nhiều thứ hạng cao. Toàn huyện có 75% gia đình văn hóa (đạt 100% so
với nghị quyết); 30,4% gia đình thể thao; 102 làng, xóm, tổ dân phố và 49 cơ
quan, đơn vị được công nhận đơn vị văn hoá (bằng 88,8% so với nghị quyết). Bưu chính - Viễn
thông, Công nghệ thông tin, Truyền thanh - Truyền hình tiếp tục được đầu tư mở
rộng, đa dạng về loại hình dịch vụ, chất lượng từng bước được nâng lên, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
lãnh đạo, quản lý, điều hành được tăng cường, 100% xã, thị trấn, cơ quan, đơn
vị được kết nối Internet.
Tập trung thực hiện quy hoạch hệ thống trường, lớp, đã
sáp nhập 30 trường (trong đó: THCS 10, Tiểu học 16, Mầm non 04); cơ sở vật chất
các trường học từng bước được củng cố, nâng cấp; có 31/63 trường đạt chuẩn,
tỷ lệ 49,2%; 16/22 xã đạt phổ cập giáo dục Trung học; tỷ lệ học sinh giỏi, số
lượng học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm tăng.
Chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân được nâng lên.
Tỷ lệ bác sỹ tăng từ 5,2% năm 2010 lên 6,4% năm 2015; có 17/22 trạm y tế có bác
sỹ (bằng 106% so với nghị quyết); 12/22 xã, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y
tế (giai đoạn 2). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 22% (năm
2010) xuống dưới 15% (2015). Công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, hành
nghề y - dược tư nhân được chú trọng. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục về dân số, kế hoạch hóa gia đình nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có
mức sinh cao.
Triển
khai thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng người có công, bảo trợ
xã hội; đã làm trên 2.900 nhà ở cho gia đình
chính sách, hộ nghèo từ nguồn hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà
hảo tâm, dòng họ với tổng số tiền trên 50 tỷ đồng. Hoàn thành hồ sơ và đã được truy
tặng, phong tặng 58 “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Quan tâm, chỉ đạo các hoạt động
từ thiện, nhân đạo, tổng giá trị cứu trợ nhân đạo trong 5 năm đạt trên 19,26 tỷ
đồng. Tổ chức thực hiện chương trình mục
tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững; tỷ lệ hộ nghèo từ 44% năm 2010 giảm xuống
còn 6,5% vào cuối năm 2015 (vượt chỉ tiêu nghị quyết). Triển khai kế hoạch việc
làm - dạy nghề, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 25% vào năm 2010 lên 40,3% năm
2015; trong nhiệm kỳ
đã đào tạo nghề cho 3.300 lao động. Chỉ đạo triển khai thực hiện đề án bảo tồn,
phát triển đồng bào dân tộc Chứt, bản Rào tre, xã Hương Liên.
Xác định xây dựng Nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm
xuyên suốt, trong nhiệm kỳ 2010 – 2015, vì vậy được cấp ủy, chính quyền các cấp
đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo một cách toàn diện, quyết liệt và cụ thể, nên đã
đạt được nhiều kết quả quan trọng bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc. Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện, ban hành nghị quyết về lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông thôn mới;
kiện toàn tổ chức, bộ máy, phân công nhiệm vụ cụ thể từ huyện đến cơ sở để
triển khai thực hiện; đến năm 2015 toàn huyện đạt 202 tiêu chí, bình quân 9,6
tiêu chí/xã (trong nhiệm kỳ tăng 153 tiêu chí, bình quân 7,2 tiêu chí/xã); năm
2014, xã Gia Phố và xã Hương Trà đạt chuẩn nông thôn mới; năm 2015 đạt thêm 02
xã Phú Phong và Phúc Trạch, không còn xã dưới 8 tiêu chí. Các mô hình sản xuất theo
nhóm sản phẩm chủ lực được tập trung chỉ đạo, xây dựng mới 1.451 mô hình
sản xuất có doanh thu từ 100 triệu đồng trở lên, trong đó có 64 mô hình có
doanh thu trên 1,0 tỷ đồng/năm, 93 mô hình có doanh thu từ 500 triệu đồng đến
dưới 1 tỷ đồng/năm. Bình quân chung 68 mô hình/xã. Tiêu biểu có 28 mô hình chăn
nuôi lợn thịt liên kết với doanh nghiệp quy mô từ 350 con – 1.800 con/lứa.
Thành lập mới 231 doanh nghiệp, 77 Hợp tác xã và 151 tổ hợp tác. Toàn huyện
thực hiện bê tông hóa 879km đường giao thông do xã quản lý, kiên cố hóa 200km
kênh mương nội đồng; đầu tư nâng cấp 8 chợ nông thôn; xóa 1.797 nhà tạm bợ dột
nát. Tổng nguồn vốn huy động xây dựng nông thôn mới trong 5 năm đạt 2.049,46 tỷ
đồng; diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới; đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân từng bước được nâng lên.
Về phương hướng, mục tiêu nhiệm kỳ 2015 – 2020, Đại
hội xác định: Tăng cường công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong
hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; tiếp tục lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện có hiệu quả 5 đề án nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh; huy động mọi
nguồn lực xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân; tổ chức lại sản xuất, trọng tâm là tái cơ cấu ngành nông
nghiệp; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ; đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo thực hiện
tốt ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề và giải quyết việc làm; chăm sóc sức khỏe
nhân dân; thực hiện tốt các chính sách, đảm bảo an sinh xã hội. Tăng cường,
củng cố công tác quân sự địa phương, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Một số nội dung đột phá:
1. Phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế về đất đai, nhất là đất rừng, vườn
hộ, bãi bồi ven sông; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng
khoa học, công nghệ; tăng cường liên liên kết hóa, doanh nghiệp hóa, xã hội hóa
để thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; phát triển mạnh
các sản phẩm hàng hóa chủ lực như: lợn, bò, hươu; bưởi Phúc Trạch, cam các
loại, rau màu chất lượng cao, chè công nghiệp, cây lấy gỗ; đẩy nhanh tiến độ
xây dựng nông thôn mới.
2. Tập trung huy động mọi nguồn
lực, đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội; xây dựng nhiều mô hình sản xuất,
kinh doanh, thành lập mới doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác; tạo chuyển biến
tích cực về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ.
3. Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, tăng cường đào
tạo nghề và giải quyết việc làm; xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của
người đứng đầu.
Đại hội xác định những mục tiêu, chỉ tiêu cần đạt
được đến năm 2020 là: Về kinh
tế: Tốc độ tăng tổng giá trị sản xuất bình quân trên 17,5%/năm; cơ cấu kinh tế: Nông, lâm,
thuỷ sản: 31,8%; CN -TTCN- XD: 38,7%; Thương mại, dịch vụ: 29,5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 80
triệu đồng/năm. Tổng sản lượng lương thực
hàng năm trên 30.000 tấn; giá
trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đạt 145
triệu đồng/ha; tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp chiếm trên
65%. Nâng tỷ lệ che phủ rừng trên 72%. Có trên 500 doanh nghiệp, 400
Hợp tác xã, 500 tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả. Thu ngân sách trên địa bàn
hơn 450 tỷ đồng. Tổng giá trị đầu tư toàn xã hội
trong 5 năm trên 10.000 tỷ đồng (trong đó: nguồn huyện, xã huy động trên 4.000
tỷ đồng).
Có trên 70% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (15/21 xã), các xã còn lại đạt
trên 15 tiêu chí; thị trấn huyện đạt “Đô thị văn minh”. Có 100% hộ gia đình được sử dụng điện đạt
tiêu chuẩn. Tổng giá trị sản xuất CN-TTCN đạt trên 2000 tỷ đồng.
Về văn hóa – xã hội: Phấn đấu trên 85% gia đình văn hóa, trên 40% gia đình thể thao; 70%
làng, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt danh hiệu văn hóa. Có trên
90% trường học đạt chuẩn quốc gia. Có 100% xã đạt tiêu chí Quốc gia về y tế, tỷ lệ người dân tham gia Bảo
hiểm y tế đạt 80%; giảm tỷ lệ sinh trên 2 con xuống dưới 15%; giảm tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 10%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới 5%;
đào tạo nghề cho 1.200 lao động/năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo trên
70%; hàng năm giải quyết việc làm cho trên 1.500 lao động.
Về Quốc phòng và An ninh: Phấn đấu
100% đơn vị cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ - sẵn
sàng chiến đấu, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, đảm bảo
an toàn giao thông.
Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ và đạt được các
mục tiêu đã đề ra, Đại hội nêu lên những nhiệm vụ giải pháp cụ thể về kinh tế,
xã hội, quốc phòng và an ninh; xây dựng Đảng, hệ thống chính trị.
Đảng bộ chủ trương tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu
quả quản lý và thực hiện các quy hoạch; triển khai, thực hiện các quy hoạch đã được phê
duyệt như: giao thông; nông thôn mới các xã; trường lớp; cây, con chủ lực; phân
khu Thị trấn. Thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành
nông nghiệp; đẩy mạnh phát triển có hiệu quả các sản phẩm hàng hóa nông
nghiệp chủ lực; rà soát tận dụng tối đa quỹ đất nông nghiệp, nhất là các bãi
bồi ven sông để trồng cây ngắn ngày, rau, củ quả, ớt, hoa...Phát huy tiềm năng,
lợi thế đất lâm nghiệp, chú trọng nâng cao hiệu quả rừng sản xuất, chuyển đổi
diện tích trồng rừng nguyên liệu, cao su, lúa, lạc...có hiệu quả thấp sang phát
triển chăn nuôi, trồng cây ăn quả; tạo điều kiện thuận lợi, thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp
theo hướng liên kết bền vững theo chuỗi giá trị hoặc liên kết một số khâu trong
sản xuất, trong đó ưu tiên liên kết phát triển các sản phẩm chủ lực như: lạc,
ngô, đậu; bò, lợn, hươu; cây ăn quả: bưởi Phúc Trạch, cam Khe Mây, chè công
nghiệp; trồng và khai thác rừng; đặc biệt khuyến khích chế biến, bảo quản sản
phẩm nông, lâm sản...
Chuyển đổi
mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, mùa vụ, giống; bố trí sản xuất một loại sản phẩm, một
quy trình trên một vùng sản xuất; triển khai có hiệu quả dự án bưởi Phúc Trạch; các vùng sản xuất cam có quy mô lớn, tạo ra sản
phẩm hàng hóa có chất lượng cao, có năng lực cạnh tranh trên thị trường; tuyển
chọn bổ sung bộ giống lúa, ngô, đậu, lạc, bưởi, cam có chất lượng và cho năng
suất cao để đưa vào sản xuất. Tập trung phát triển sản xuất gắn với chế biến,
tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, liên kết.
Tiếp tục phát triển chăn nuôi quy mô lớn, vừa, trang trại theo quy hoạch;
phát triển quy mô nhỏ, gia trại liên kết, đảm bảo môi trường; tăng cường công
tác phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo an toàn trong chăn nuôi.
Mở rộng
diện tích trồng cây chè công nghiệp, tập trung thâm canh, kịp thời chuyển diện
tích quy hoạch cao su không thực hiện được hoặc hiệu quả thấp sang quy hoạch
phát triển trang trại nông - lâm nghiệp, vườn đồi... Đẩy mạnh trồng rừng, phát triển sản xuất gỗ nguyên liệu rừng trồng; Tiếp tục huy động mọi
nguồn lực để xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo chuyển biến tích cực về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp,
thương mại, dịch vụ.
Tạo cơ chế khuyến khích các
thành phần kinh tế phát triển các loại hình dịch vụ, mở rộng mạng lưới kinh
doanh; khuyến khích các doanh nghiệp, Hợp tác xã thuộc các thành phần kinh tế
gắn với thu mua, chế biến, tiêu thụ, lưu thông hàng hóa ở các vùng nông thôn.
Phát huy thế mạnh vùng kinh tế bắc Quảng Bình - Nam Hà Tĩnh tại La Khê, phát
triển các loại hình kinh doanh, dịch vụ, nhà hàng, khách sạn và du lịch. Xây dựng và phát triển thương hiệu
sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh trên thị trường, tiến tới xuất khẩu. Phát huy các giá trị văn hoá
di tích
lịch sử, di tích văn hóa cấp quốc gia. Triển khai huy động mạnh mẽ các
nguồn lực để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội và các dự án trọng điểm. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa đầu tư, tạo điều kiện
thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước thực hiện đầu tư theo hình
thức PPP để triển khai các dự án
như: Chợ huyện, khu xử lý chất thải rắn, khu du dịch sinh thái thác Vũ Môn và
Bãi Dài, cụm CN - TTCN Gia Phố... nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ
tầng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Về văn hóa xã hội: Phát triển và nâng cao chất lượng
các hoạt động văn hóa - xã hội. Nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho người dân,
nhất là các xã vùng sâu, vùng xa; bảo tồn và gìn giữ di sản Dân ca ví, giặm
Nghệ - Tĩnh. Tăng cường công tác quản lý, trùng tu, tôn tạo, khai thác, quảng
bá, giới thiệu và phát huy các giá trị văn hóa lịch sử, các danh lam, thắng
cảnh, địa điểm du lịch. Thực hiện tốt công
tác quản lý nhà nước về lĩnh vực Văn hoá - Thông tin - Thể thao.
Tập
trung đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng quản lý và chất lượng giáo dục.
Làm tốt công tác xã
hội hóa giáo dục, công tác khuyến học, khuyến tài. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy - học đạt chuẩn. Tiếp tục thực hiện Đề án xây dựng cơ
sở vật chất trường học; tiếp tục rà soát, điều chỉnh hệ thống quy hoạch trường
lớp.
Tập trung thực hiện các giải pháp để nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở các tuyến. Thực hiện tốt
lộ trình Bảo hiểm y tế toàn dân. Tập trung huy động các nguồn lực, chú trọng xã
hội hóa để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, nhất là các
trạm y tế. Đẩy mạnh
công tác truyền thông giáo dục dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản – kế hoạch
hóa gia đình.
Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh giải quyết
việc làm, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Đề án
phát triển đồng bào dân tộc Chứt, bản Rào Tre.
Về xây dựng nông thôn mới: Tập trung đẩy
mạnh thực hiện xây dựng nông thôn mới; xác định chủ thể xây dựng nông thôn mới là người
dân trực tiếp xây dựng và hưởng lợi, nhà nước chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ; huy
động tối đa nội lực và các nguồn lực, quản lý hiệu quả nguồn vốn; tập trung xây
dựng kế hoạch thực hiện từng tiêu chí; Đẩy mạnh phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất, dân sinh.
Xây dựng kế hoạch, phương án huy động nguồn lực; chú trọng phát huy nội lực của
nhân dân, tranh thủ các nguồn lực khác, nhất là các chương trình, dự án để thực
hiện thành công Chương trình xây dựng nông thôn mới, nhằm nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội, đến năm 2016, trên lĩnh
vực kinh tế với tinh thần lao động sáng tạo, cần cù, phát huy nội lực là chính,
Đảng bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo Nhân dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung xây
dựng nông thôn mới và đô thị văn minh, đạt được nhiều kết quả quan trọng: Kinh tế tiếp tục tăng
trưởng, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng, tổng giá trị sản xuất tăng 12,6% so với
năm 2015; thu nhập bình quân đầu người đạt 30,5 triệu đồng/năm. Ngành nông nghiệp tăng trưởng khá; tốc
độ tăng trưởng đạt trên 10%; giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 1.714
tỷ đồng (tăng 11,8% so với năm 2015); giá trị sản xuất/đơn vị diện tích đạt
trên 71 triệu đồng/ha. Sản lượng lương thực đạt trên 35.000 tấn (tăng 2.000 tấn
so với năm 2015). Bưởi Phúc Trạch, cam các loại được mùa, sản lượng trên 13.600 tấn,
giá trị sản xuất ước đạt hơn 362 tỷ đồng. Chăn nuôi tiếp tục phát
triển, tỷ trọng chiếm 48,2% trong ngành nông nghiệp, tổng đàn các loại vật nuôi chủ
lực tăng, có 02 mô hình lợn nái ngoại sinh sản tại Hương Xuân và Hà Linh đi vào hoạt
động (với quy mô 600 con nái/mô hình). Thực hiện các chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển
nông nghiệp, nông thôn của tỉnh và huyện với tổng kinh phí gần 45 tỷ đồng,
trong đó chính sách của tỉnh 22 tỷ đồng; chính sách huyện 23 tỷ đồng. Tập trung thực hiện cấp đổi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lâm nghiệp; cấp 1.071 giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ở và đất trồng cây lâu năm cho các hộ, cá nhân trên địa bàn; cơ bản hoàn thành việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; giao đất, giao rừng theo Đề án 3952/QĐ-UBND, ngày 06/12/2013 của UBND tỉnh. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản, bảo
vệ môi trường được quan tâm. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tiếp tục phát
triển; tốc độ tăng trưởng đạt 6,6%, tổng giá trị sản xuất trên 1.363 tỷ đồng.
Xúc tiến đầu tư, triển khai xây dựng một số công trình, dự án trọng điểm trên
địa bàn. Làm được 101,7/123,9 km đường bê tông, bằng 82,08% kế hoạch; 18/26,6 km
kênh mương bê tông, bằng 67,7% kế hoạch. Thương mại, dịch vụ tiếp tục tăng trưởng khá; tốc độ tăng trưởng đạt 9,1%. Hoàn thành xây dựng chợ tạm sau sự cố cháy chợ
Sơn; đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chợ
huyện. Đưa bưởi Phúc Trạch vào hệ thống siêu thị Vinmart. Xử lý 501 vụ buôn bán hàng giả, gian lận thương mại,
thu nộp ngân sách 387,5 triệu đồng.Tổng thu ngân sách trên địa
bàn ước đạt 61 tỷ đồng. Hoạt động tín dụng, ngân hàng phát huy hiệu quả, đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nhân dân và các doanh nghiệp.
Về văn hóa - xã hội: toàn huyện có 23.155
gia đình văn hóa, tăng 3,5%; 12.094 gia đình thể thao, tăng 11,3%; 123 làng, thôn, tổ dân phố văn hóa, tăng 21% so
với năm 2015. Chất lượng giáo dục
toàn diện tiếp tục được quan tâm. Năm học 2015-2016, Tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt
97,4%, THPT đạt 92,5%; trên 500 học sinh đậu đại
học, cao đẳng; 07 học sinh giỏi
quốc gia, 182 học sinh giỏi tỉnh; thêm 01 trường đạt chuẩn Quốc gia (đến nay có 36/63 trường đạt
chuẩn, tỷ lệ 57%).
Chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân được nâng lên; có 19 xã đạt tiêu chí
quốc gia về y tế xã, đạt 106% kế hoạch, tăng 02 xã so với năm 2015. Tỷ lệ người
dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% (tăng 6% so với năm 2015). Kiểm tra vệ sinh
an toàn thực phẩm, xử phạt 105 cơ sở vi phạm, phạt tiền trên 106 triệu đồng. Tỷ
lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn 14%, giảm 1% so với năm 2015. Tỷ lệ sinh trên 02
con còn 25,3%, giảm 0,2% so với năm 2015.
Đào tạo nghề cho 1.566 lao động, đạt
130,5% kế hoạch; tư vấn việc làm - xuất khẩu lao động cho trên 1.800 lượt người, đạt 120%
kế hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo 19,54%, cận nghèo 11,33%. Đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu “Bà Mẹ Việt Nam anh hùng” cho 06 mẹ. Tiếp
nhận, cấp quà tết và quà kỷ niệm 69 năm ngày Thương binh liệt sỹ cho gần 6.000
đối tượng với tổng số tiền trên 2,3 tỷ đồng. Tiếp tục thực hiện Đề án phát triển
đồng bào dân tộc Chứt, bản Rào Tre.
Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt được một số kết quả quan
trọng: Tiếp tục tập trung chỉ đạo củng cố các tiêu chí đối với các xã về đích; tăng 23 tiêu chí,
nâng số tiêu chí đạt chuẩn 244 tiêu chí, bình quân đạt 11,62 tiêu chí/xã. Thành
lập mới 28 doanh nghiệp, 11 hợp tác xã, 64 tổ hợp tác; xây dựng mới 1.077 mô
hình sản xuất kinh doanh, trong đó có 36 mô hình quy mô lớn, 73 mô hình quy mô
vừa. Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới đạt trên 178 tỷ đồng.
Những kết quả đạt được của những năm đầu Đại hội có ý nghĩa quan trọng để
Đảng bộ và Nhân dân Hương Khê phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ
tiêu Đại hội đã đề ra, xây dựng huyện nhà ngày càng giàu mạnh và văn minh.
Chương 4.
ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG KHÊ - CÁC KỲ ĐẠI HỘI
1. Đại hội lần thứ I diễn ra vào ngày 20 tháng 11 năm
1930, tại Trúc Lâm (Hương Thanh - Hà Linh), Đại hội đã bầu Ban chấp hành (BCH)
gồm 7 người. Bí thư Huyện uỷ đầu tiên là đồng chí Mai Phì.
2. Đại hội lần thứ II diễn ra vào ngày 20 tháng 12 năm
1945 tại Thị trấn Chu Lễ (Hương Thuỷ), Đại hội đã bầu BCH gồm 11 người. Ban
thường vụ có 5 người. Đồng chí Nguyễn Tuy giữ chức vụ Bí thư - Chủ tịch Ủy ban.
Đồng chí Phan Dỵ giữ chức vụ Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn Bính - Ủy viên Thường
vụ, đồng chí Nguyễn Văn Sáng - Ủy viên Thường vụ.
3. Đại hội lần thứ III diễn ra ngày 25 tháng 2 năm 1947
tại Thị trấn Chu Lễ (Hương Thuỷ). Đại hội đã bầu BCH gồm 9 người. Ban Thường vụ
có 3 người. Bí thư, Chủ tịch là đồng chí Nguyễn Văn Sáng, Phó Bí thư là đồng
chí Nguyễn Triêm. Đồng chí Lê Hữu Tụy - Ủy viên Thường vụ.
4. Đại hội lần thứ IV diễn ra ngày 10 tháng 1 năm 1948
tại Vĩnh Hương (Hương Châu tức Phúc Đồng ngày nay) bầu 17 uỷ viên BCH (cả bổ
sung). Ban Thường vụ có 5 người. Đồng chí Nguyễn Triêm được bầu làm Bí thư,
đồng chí Lê Hữu Tụy làm Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Sáng - Thường vụ, Chủ
tịch Uỷ ban hành chính, đồng chí Lưu Văn Xân – Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban,
đồng chí Dương Đức Cơ - ủy viên Ban Thường vụ.
5. Đại hội lần thứ V diễn ra ngày 6 năm 1 năm 1949 tại
Tân Hương (Hương Bình), Đại hội bầu BCH gồm 15 người. Ban Thường vụ có 4 người.
Đồng chí Nguyễn Triêm - Bí thư, đồng chí Dương Đức Cơ - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy
ban hành chính, đồng chí Hà Văn Nghị - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Mai Minh -
Ủy viên Thường vụ.
6. Đại hội lần thứ VI diễn ra ngày 15 năm 5 năm 1950 tại
xã Phú Phong, BCH có 15 người. Ban Thường vụ có 5 người. Đồng chí Hà Văn Nghị
được bầu giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Dương Đức Cơ - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy
ban hành chính, đồng chí Nguyễn Văn Cung - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Hồ Sỹ
Định - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan Kha - Ủy viên Thường vụ.
7. Đại hội lần thứ VII diễn ra ngày 15 tháng 7 năm 1951
tại Tân Hương (Hương Bình) bầu BCH 24 người (cả bổ sung). Ban Thường vụ có 7
người. Đồng chí Hà Văn Nghị giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Cung - Phó
Bí thư, Phó Chủ tịch Uỷ ban, đồng chí Hồ Sỹ Định - Ủy viên Thường vụ, đồng chí
Phan Kha - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Văn Tư - Ủy viên Thường vụ, đồng
chí Trần Đình Hậu - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Hoàng Mỹ - Ủy viên Thường vụ.
Do những xáo trộn về công tác cán bộ trong và sau cải
cách ruộng đất thời kỳ 1953-1956, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng bộ, từ tháng
7 đến tháng 11-1956, Huyện uỷ lâm thời được thành lập lại do Khu uỷ và Tỉnh uỷ
chỉ định. Ban Thường vụ Huyện uỷ lâm thời gồm có 8 đồng chí, đồng chí Trần Đình
Hậu được cử làm Bí thư, đồng chí Đặng Minh Lương - Uỷ viên Ban Thường vụ được
cử làm quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính, đồng chí Nguyễn Tú – Phó Bí thư Thường
trực, đồng chí Hồ Sỹ Định - Ủy viên Thường vụ, Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Tư -
Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban, đồng chí Hoàng Mỹ - Ủy viên Thường vụ,
đồng chí Hồ Sỹ Tương - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Kim Hồ - Ủy viên
Thường vụ.
8. Đại hội lần thứ VIII (Hội nghị đại biểu) họp tháng 9
năm 1959 tại Hương Phố, bầu BCH 19 người bao gồm cả dự khuyết. ban Thường vụ có
8 đồng chí. Đồng chí Trần Đình Hậu giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Đặng Minh Lương
- Ủy viên Ban Thường vụ, quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính, đồng chí Nguyễn Tư -
Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Hoàng Mỹ - Ủy viên Thường vụ, đồng
chí Nguyễn Tú - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Hồ Sỹ Đăng - Ủy viên Thường vụ,
đồng chí Lê Hữu Kính - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Bùi Quang - Ủy viên Thường
vụ.
9. Đại hội lần thứ IX họp tháng 2 tháng 1960 tại Thị trấn
Chu Lễ (Hương Thuỷ), bầu BCH 23 người. Ban Thường vụ có 7 người. Đồng chí
Nguyễn Văn Cung - Bí thư, đồng chí Nguyễn Tú - Phó Bí thư, đồng chí Hoàng Mỹ -
Ủy viên Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban hành chính, đồng chí Nguyễn Kim Hồ - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Lê Hữu Kính - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Bùi Đình Quang -
Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Lự - Ủy viên Thường vụ.
10. Đại hội lần thứ X diễn ra tháng 3 năm 1962 tại Thị
trấn Chu Lễ (Hương Thuỷ), Đại hội bầu 28 uỷ viên BCH (cả dự khuyết). Ban Thường
vụ có 9 người. Đồng chí Nguyễn Văn Cung được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Tú
- Phó Bí thư, đồng chí Lê Hữu Kính- Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính,
đồng chí Phan Văn Thành - Ủy viên Thường vụ, Thường trực Đảng ủy, đồng chí Nguyễn
Kim Hồ - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Lê Công Ba - Ủy viên Thường vụ, đồng chí
Bùi Đình Quang - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Cao Phượng - Ủy viên Thường vụ,
đồng chí Nguyễn Đình Dưỡng - Ủy viên Thường vụ.
11. Đại hội lần thứ XI diễn ra tháng 7 năm 1963 tại Thị
trấn Chu Lễ (Hương Thuỷ) đại hội bầu 21 uỷ viên BCH (cả dự khuyết). Ban Thường
vụ có 9 người. Đồng chí Nguyễn Tú giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Phan Văn Thành -
Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Đặng Minh Lương - Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban
hành chính, đồng chí Nguyễn Đình Dưỡng - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy
ban, đồng chí Đoàn Khắc Kiên - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Phạm
Triện - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Lê Đăng Trang - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Bùi Đình Quang - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Võ Lan - Ủy
viên Thường vụ.
12. Đại hội lần thứ XII diễn ra tháng 3 tháng 1965 tại xã
Gia Phố. Đại hội bầu 23 ủy viên BCH. Ban Thường vụ có 9 người. Đồng chí Đặng
Tỵ, Tỉnh uỷ viên giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Lê Hữu Kính - Phó Bí thư, Chủ
tịch Uỷ ban, đồng chí Phan Văn Thành - Ủy viên Thường vụ, Thường trực Đảng ủy,
đồng chí Đặng Minh Lương - Ủy viên Thường vụ, Thường trực Đảng ủy, đồng chí
Nguyễn Đình Dương - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phạm Triện - Ủy viên Thường vụ,
đồng chí Bùi Đình Quang - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Võ Lan - Ủy viên Thường
vụ, đồng chí Lê Đăng Trang - Ủy viên Thường vụ.
13. Đại hội lần thứ XIII diễn ra tháng 3 năm 1967 tại xã
Hương Bình. Đại hội bầu 25 uỷ viên BCH. Ban Thường vụ có 8 người. Đồng chí Đặng
Tỵ, Tỉnh uỷ viên giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Lê Hữu Kính - Phó Bí thư, Chủ
tịch Uỷ ban hành chính, đồng chí Phan Văn Đệ - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch,
đồng chí Trần Khoa - Ủy viên Thường vụ, Thường trực Đảng, đồng chí Võ Lan - Ủy
viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Văn Miên - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn
Đình Dưỡng - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phạm Triện - Ủy viên Thường vụ.
14. Đại hội lần thứ XIV diễn ra ngày 19 tháng 12 năm 1969
tại Hương Bình. Đại hội bầu BCH gồm 21 người. Ban Thường vụ có 9 người. Đồng
chí Đặng Tỵ, Tỉnh uỷ viên giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Lê Hữu Kính - Phó Bí
thư, Chủ tịch Uỷ ban hành chính, đồng chí Đinh Duyệt - Ủy viên Thường vụ,
Thường trực Đảng, đồng chí Trần Khoa - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng
chí Phan Văn Đệ - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Thị Liễu - Ủy viên Thường
vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Đặng Đình Lai - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn
Văn Miên - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan Xuân Bằng - Ủy viên Thường vụ.
15. Đại hội lần thứ XV diễn ra ngày 16 tháng 10 năm 1971
tại Hương Bình. Đại hội bầu BCH gồm 19 người. Ban Thường vụ có 8 người. Đồng
chí Nguyễn Văn Cung giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Phan Văn Đệ - Phó Bí thư, Chủ
tịch Uỷ ban hành chính, đồng chí Trần Khoa - Ủy viên Thường vụ, Thường Trực
Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Miên - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Đặng
Dụ - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Phan Xuân Bằng - Ủy viên Thường
vụ, đồng chí Đinh Duyệt - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Đường - Ủy viên
Thường vụ.
16. Đại hội lần thứ XVI diễn ra tháng 12 năm 1973 tại
Hương Bình. Đại hội bầu BCH gồm 21 người. Ban Thường vụ có 9 người. Đồng chí
Nguyễn Văn Cung giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Phan Văn Đệ - Phó Bí thư, Chủ tịch
Uỷ ban hành chính, đồng chí Đinh Duyệt - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí
Nguyễn Văn Miên - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Trần Khoa - Ủy viên
Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Đặng Dụ - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch,
đồng chí Phan Xuân Bằng - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Xuân Hương - Ủy
viên Thường vụ, đồng chí Trần Đường - Ủy viên Thường vụ.
17. Đại hội lần thứ XVII diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng
8 năm 1975 tại Trường Đảng huyện (thuộc Thị Trấn ngày nay). Đại hội có 147 đại
biểu chính thức, thay mặt cho 5.347 đảng viên toàn Đảng bộ và 56 khách mời. Đại
hội bầu BCH gồm 29 người (2 dự khuyết). Ban Thường vụ có 10 người (cả bổ sung).
Đồng chí Phan Văn Đệ giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Phan Xuân Bằng - Phó
Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, đồng chí Nguyễn Xuân Hương - Phó Bí
thư Thường trực, đồng chí Trần Khoa - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng
chí Trịnh Lưu - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Trần Hữu Gia - Ủy
viên Thường vụ, đồng chí Phan Văn Quý - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Văn
Yên - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Đường - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Lê
Văn Trọng – Phó Bí thư (bổ sung).
18. Đại hội lần thứ XVIII diễn ra từ ngày 25 đến ngày 31
tháng 5 năm 1976 tại Trường Đảng huyện (thuộc Thị trấn ngày nay). Dự Đại hội có
150 đại biểu chính thức, 23 đại biểu khách mời. Đại hội bầu BCH gồm 32 người
(cả dự khuyết). Ban Thường vụ có 9 người. Đồng chí Phan Văn Đệ giữ chức vụ Bí
thư, đồng chí Phan Xuân Bằng- Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, đồng chí
Nguyễn Xuân Hương - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Trần Hữu Gia - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Trịnh Lưu - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Khoa - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Phan Văn Quý - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Văn Yên -
Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Đường - Ủy viên Thường vụ.
19. Đại hội lần thứ XIX diễn ra ngày 28 đến ngày 31 tháng 5 năm 1977 tại
Thị trấn Hương Khê. Dự Đại hội có 150 đại biểu chính thức, 23 khách mời. Đại
hội bầu BCH gồm 29 người. Ban Thường vụ có 9 người. Đồng chí Phan Văn Đệ giữ
chức vụ Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân Hương - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí
Phan Xuân Bằng - Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, đồng chí Trần Khoa - Ủy viên
Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Trịnh Lưu - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch,
đồng chí Trần Hữu Gia - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Văn Yên - Ủy viên Thường
vụ, đồng chí Trần Đường - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan Văn Tích - Ủy viên
Thường vụ.
20. Đại hội lần thứ XX diễn ra từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 8 năm 1979 tại
thị trấn Hương Khê, dự Đại hội có 154 đại biểu thay mặt cho 5300 đảng viên và
20 khách mời. Đại hội bầu Ban Chấp hành 33 người (có 4 dự khuyết). Ban Thường
vụ có 9 người. Đồng chí Phan Văn Đệ, Tỉnh uỷ viên giữ chức vụ Bí thư, đồng chí
Nguyễn Xuân Hương - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Trần Khoa - Phó Bí thư,
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đồng chí Phan Văn Quý - Ủy viên Thường vụ,
Phó Chủ tịch, đồng chí Từ Toàn - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Lê
Văn Trọng - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Hữu Gia - Ủy viên Thường vụ, đồng
chí Trần Văn Yên - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Đường - Ủy viên Thường vụ.
21. Đại hội lần thứ XXI diễn ra tháng 12 năm 1982 với sự có mặt của 157 đại
biểu chính thức, 76 khách mời và dự thính. Đại hội bầu BCH 36 người (cả
dự khuyết). Ban Thường vụ có 12 người (cả bổ sung). Đồng chí Phan Văn Đệ, Tỉnh
uỷ viên giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân Hương - Phó Bí thư Thường
trực, đồng chí Trần Khoa - Phó Bí thư, đồng chí Phan Xuân Bằng - Thường vụ, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân, đồng chí Trần Khoa
– Phó Bí thư, đồng chí Phan Văn Tích - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng
chí Từ Toàn - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Trần Đường - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Lê Văn Trọng - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Kim Kiệm
- Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Văn Thuyết - Ủy viên Thường vụ, đồng chí
Nguyễn Xuân Tường - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Văn Yên - Ủy viên Thường
vụ.
Đến tháng 9/1984, đồng chí Phan Văn Đệ, Tỉnh điều đi làm chuyên gia nước
bạn Lào, đồng chí Nguyễn Xuân Hương quyền Bí thư, đồng chí Trần Khoa thay đồng
chí Phan Xuân Bằng đi nhận công tác khác. Đến ngày 2/8/1985, đồng chí Nguyễn
Xuân Hương được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Bá Bốn được Tỉnh ủy
tăng cường về trước đó được bầu làm Phí Bí thư Thường trực.
22. Đại hội lần thứ XXII được tổ chức từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 9 năm 1986
tại Thị trấn Hương Khê, dự Đại hội có 166 đại biểu chính thức. Đại hội bầu BCH
gồm có 41 người (trong đó có 6 ủy viên dự khuyết). Ban Thường vụ có 11 người.
Đồng chí Nguyễn Xuân Hương - Bí Thư, đồng chí Nguyễn Bá Bốn - Phó bí thư Thường
trực, đồng chí Trần Khoa - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng chí Phan
Văn Quý - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Phan Xuân Bằng - Ủy viên Thường
vụ, đồng chí Lê Văn Trọng - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan Văn Đệ - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Trần Văn Yên - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Kim Kiệm
- Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phạm Minh Trí - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan
Văn Tích - Ủy viên Thường vụ.
23. Đại hội lần thứ XXIII diễn ra vào ngày 7 tháng 12 năm 1988 tại Thị Trấn
Hương Khê (Rạp chiếu bóng huyện). Đại hội bầu BCH gồm 43 người (trong đó có 6
ủy viên dự khuyết). Ban Thường vụ Huyện ủy có 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Xuân
Hương - Bí thư, đồng chí Phan Văn Quý - Phó Bí thư thường trực, đồng chí Trần
Khoa - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đồng chí Nguyễn Bá Bốn - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Nguyễn Kim Kiệm - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan Văn Tích
- Ủy viên Thường vụ, đồng chí Nguyễn Văn Chung - Ủy viên Thường vụ, đồng chí
Nguyễn Xuân Thai - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Đặng Sỹ - Ủy viên Thường vụ,
đồng chí Phạm Minh Trí - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Văn Yên - Ủy viên
Thường vụ.
24. Đại hội lần thứ XXIV diễn ra 2 vòng, vòng 1: tháng 3/1991[37]; vòng 2: tháng 12/1991
tại Thị Trấn Hương Khê, Ban chấp hành gồm có 37 người (cả bổ sung giữa nhiệm kỳ).
Ban Thường vụ có 11 người. Đồng chí Trần Khoa - Bí Thư, đồng chí Phan Văn Quý -
Phó Bí thư thường trực, đồng chí Nguyễn Văn Chung - Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân, đồng chí Nguyễn Xuân Thai - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng
chí Đặng Sỹ - Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Phan Văn Tích - Ủy viên
Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Kim Kiệm - Ủy viên Thường vụ, đồng chí
Phạm Minh Trí - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Xuân Thanh - Ủy viên Thường
vụ, đồng chí Trần Văn Yên - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Lê Hồng Mão - Ủy viên
Thường vụ.
Tiếp đó, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ năm 1993 đã bầu bổ sung vào Huyện ủy 4
đồng chí. Tháng 5/1994, đồng chí Nguyễn Văn Chung qua đời, đồng chí Phan Văn
Quý được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí Nguyễn Kim Kiệm làm
Phó Bí thư.
25. Đại hội lần thứ XXV diễn ra ngày 25 tháng 3 năm 1996 tại Hội trường
Huyện ủy. Dự Đại hội có 183 đại biểu chính thức của 57 Đảng bộ, chi bộ cơ sở,
thay mặt cho 5.240 đảng viên toàn Đảng bộ. Đại hội bầu BCH gồm 36 người (1 bổ
sung sau), Ban Thường vụ có 11 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Kim Kiệm - Bí thư, đồng
chí Phan Văn Tích - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Phan Văn Quý - Tỉnh uỷ
viên, Phó Bí thư, chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đồng chí Đặng Sỹ - Ủy viên
Thường vụ, Phó Chủ tịch, đồng chí Trần Xuân Thanh - Ủy viên Thường vụ, đồng chí
Hồ Sỹ Mão - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan Thị Tập - Ủy viên Thường vụ, đồng
chí Lê Xuân Trình - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Trần Đình Lượng - Ủy viên
Thường vụ, đồng chí Đặng Hữu Ước - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Phan Đức Cung -
Ủy viên Thường vụ.
Trong nhiệm kỳ có 3 đồng chí ủy viên Huyện ủy về công tác ở tỉnh, trong đó
có 2 ủy viên Thường vụ (Hồ Sỹ Mão, Phan Văn Quý) và bầu bổ sung 1 ủy viên Ban
Chấp hành, 2 đồng chí Thường vụ. Đồng chí Phan Văn Tích sang làm Chủ tịch Ủy
ban nhân dân, đồng chí Phan Thị Tập làm Phó Bí thư Thường trực...
26. Đại hội lần thứ XXVI
(nhiệm kỳ 2000 - 2005) của Đảng bộ Hương Khê khai mạc ngày 28 tháng 11 năm
2000. Dự Đại hội có 140 đại biểu, thay mặt cho 4.500 đảng viên trong toàn đảng
bộ. Đại hội đã bầu được 33 đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành. Ban Thường vụ có
11 đồng chí. Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Kim Kiệm, Phó Bí
thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện là đồng chí Phan Văn Tích, đồng chí Phan Thị
Tập – Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Hoàng Hữu Diễn - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng chí
Nguyễn Xuân Vinh - Ủy viên
Ban Thường vụ - Trưởng Ban Tuyên giáo, đồng chí
Nguyễn Kim Bích - Ủy viên Ban
Thường vụ - Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra, đồng chí Đặng
Hữu Ước - Ủy viên Ban Thường
vụ, Trưởng ban Tổ chức, đồng chí Đặng Thị Vỹ - Ủy viên Ban Thường vụ - Trưởng ban Dân vận, đồng chí Thái Bá
Tài - Ủy viên Ban Thường vụ
- Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, đồng chí Lê
Xuân Trình - Ủy viên Ban
Thường vụ - Trưởng Công an, đồng chí
Trần Đình Lượng - Ủy viên Ban
Thường vụ - Chỉ huy Trưởng quân sự.
Nhiệm kỳ
2000 - 2005: Tháng 12/2004 đồng chí Nguyễn Kim Kiệm - Bí thư Nghỉ chế độ; tháng
01/2005, đồng chí Phan Thị Tập - Bí thư Huyện ủy.
27. Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XXVII diễn ra từ ngày 06
đến ngày 8 tháng 10 năm 2005 tại Thị trấn Hương Khê. Đại hội bầu BCH gồm 37
đồng chí. Ban Thường vụ có 11 người. Đồng chí Phan Thị Tập (Tỉnh uỷ viên) giữ
chức vụ Bí thư, đồng chí Hoàng Hữu Diễn - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí
Nguyễn Văn Thanh - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đồng chí Lê
Trần Sáng - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí
Nguyễn Quốc Thảo - Ủy viên Ban Thường vụ -
Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra, đồng chí Hoàng Công Lý - Ủy viên Ban Thường
vụ - Trưởng Ban Tổ chức, đồng chí Nguyễn
Xuân Vinh - Ủy viên Ban Thường vụ - Trưởng ban Tuyên giáo, đồng chí Thái Bá Tài
- Ủy viên Ban Thường vụ - Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, đồng chí Nguyễn
Duy Nghị - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng chí Mai
Văn Tuấn - Ủy viên Ban Thường vụ, Chỉ huy Trưởng Quân sự, đồng chí Lê Xuân
Trình - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Công an huyện.
Nhiệm kỳ
2005 - 2010: Tháng 3/2010, đồng chí Phan Thị Tập chuyển công tác về tỉnh; Tháng
3/2010, đồng chí Hoàng Hữu Diễn, giữ chức vụ Bí thư đến tháng 2/2011.
28. Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII diễn ra từ ngày 20
- 22 tháng 7 năm 2010 Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện được tiến hành tại Thị
trấn Hương Khê. Đại hội bầu BCH Đảng bộ huyện gồm có 41 đồng chí. Ban Thường vụ
có 11 người. Đồng chí Hoàng Hữu Diễn giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân
Vinh - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Đinh Hữu Tân - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy
ban Nhân dân, đồng chí Nguyễn Văn Hiệp - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng
ban Tổ chức, đồng chí Nguyễn Quốc Thảo - Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy
ban Kiểm tra, đồng chí Trần Quốc Bảo - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên
giáo, đồng chí Nguyễn Kim Tú - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Dân vận, đồng chí Hoàng Công Lý - Ủy viên Ban Thường
vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng chí Lê Tuần Sáng - Ủy viên Ban Thường
vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng chí Từ Thị Hòa - Ủy viên Ban Thường vụ,
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện, đồng chí Thái Công Anh - Ủy viên Ban Thường
vụ, Chỉ huy Trưởng Quân sự, đồng chí Đặng Quốc Vượng - Ủy viên Ban Thường vụ,
Trưởng Công an, đồng chí Ngô Xuân Ninh - Ủy viên Ban Thường vụ, Bí thư Đảng ủy,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thị trấn.
Nhiệm kỳ
2010 - 2015: Tháng 3/2011 đồng chí Hà Văn Hùng, Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn
được Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều về công tác tại Hương Khê, giữ chức vụ Bí thư
Huyện ủy, Đồng chí Hoàng Hữu Diễn giữ chức vụ Phó Bí thư Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện; Tháng 9/1913, đồng chí Lê Tuần Sáng được Tỉnh điều về làm PGĐ Sở Văn
hóa Thể thao & Du Lịch Hà Tĩnh, đồng chí Ngô Xuân Ninh - Ủy viên Ban Thường
vụ, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thị trấn được bầu làm Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện ngày 03/10/2013; Tháng 5/2015 đồng chí Hà Văn Hùng, Tỉnh
ủy viên, Bí thư Huyện ủy được điều về làm Phó ban Dân vận Tỉnh ủy; Tháng
8/2015, đồng chí Đinh Hữu Tân, được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Ngọc
Huấn - Phó Chánh Thanh tra tỉnh được điều về làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện.
29. Đại hội lần thứ XXIX (nhiệm kỳ 2015-2020) của Đảng bộ Hương Khê
diễn ra từ ngày 11-13 tháng 8 năm 2015 tại Thị trấn Hương Khê. Dự Đại
hội có 215 đại biểu, thay mặt cho 6.810 đảng viên trong toàn đảng bộ. Đại hội bầu BCH Đảng bộ huyện gồm có 41 đồng chí. Ban
Thường vụ gồm 13 người. Đồng chí Đinh Hữu Tân, Tỉnh ủy viên - Bí thư, đồng chí
Ngô Xuân Ninh - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Lê Ngọc Huấn - Phó Bí thư, Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân, đồng chí Nguyễn Văn Hiệp - Ủy viên Ban Thường vụ,
Trưởng ban Tổ chức, đồng chí Nguyễn Quốc
Thảo - Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra, đồng chí Trần Quốc Bảo
- Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo, đồng chí Đặng Văn Toàn - Ủy
viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Dân vận, đồng chí Hoàng Công Lý - Ủy viên Ban
Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí Nguyễn Kim Tú - Ủy viên
Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, đồng chí Từ Thị Hòa - Ủy
viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện, đồng chí Nguyễn Huy
Hoàng - Ủy viên Ban Thường vụ, Chỉ huy Trưởng Quân sự, đồng chí Phan Xuân Công
- Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Công an huyện, đồng chí Hoàng Quốc Nhã - Ủy
viên Ban Thường vụ, Bí thư Thị trấn.
[1] An Tĩnh cổ lục, sđd, trang 300
[2] ĐU-HĐND-UBND-UBMTTQ xã Phương Mỹ: Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã
Phương Mỹ (1930 – 2015), NXB Hồng Đức, 2016. Tr22, 23
[3] Thạc sỹ Nguyễn Trí Sơn: Hồ sơ
di tích Lịch sử Văn hóa (HSDTLSVH), Nhà
thờ Trần Bá Tước (xã Hòa Hải huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh), tháng 4/2015.
Tài liệu được lưu trữ tại Trung tâm Văn hóa huyện Hương Khê.
[4] Bản dịch của Cụ
Trần Văn Quý - Chuyên viên Cao Cấp Viện
Hán - Nôm. Theo Thạc sỹ Nguyễn Trí Sơn: Hồ sơ di tích Lịch sử Văn
hóa (HSDTLSVH) Nhà thờ Trần Bá Tước (xã Hòa Hải huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh),
tháng 4/2015. Tài liệu được lưu trữ tại Trung tâm Văn hóa huyện Hương Khê.
[5] Theo Trần Kinh: Địa dư tỉnh
Hà Tĩnh, Nxb Bắc Hà, Hà Nội, 1939
[6] Theo Hương Khê 135 năm…sđd,
tr. 267-271
[8] Tham khảo sách “Phả hệ họ Ngô
Việt Nam ”,
NXB Lao động, 2011, tr. 95-96; Trang Văn hóa thông tin Hà Tĩnh 7/3/2016; ở
Thế giới di sản, số 3, 2009, tr.30.
[9] Theo Thạc sỹ Nguyễn Trí Sơn:
HSDTLSVH Nhà thờ Võ Đình Cận (xã
Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh), Tư liệu lưu trữ tại Trung tâm Văn
hóa huyện Hương Khê.
[10] Nguyễn Minh Đức: Hồ sơ DTLSVH
(tư liệu về Nhà thờ họ Mai xã Hương
Long, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh được lưu tại Trung tâm Văn hóa huyện Hương
Khê, tháng 10.2014).
Ức niên hương hỏa Vạn Gia thôn”
[12] Nguyễn Bá Thành (CB): Hương Khê 135 năm, tài liệu do ông Trần Văn Quý (1922 - 2003) -
chuyên viên cao cấp Viện Hán Nôm phát hiện, dịch và công bố, sđd, từ tr
278-294.
[13] Tham khảo Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 1981; Báo Nhân dân, số
ra ngày 22.4.1984; Etude’ Vietnamiennes, số 6 (76) năm 1985; Tạp chí Văn hóa
tỉnh Nghĩa Bình, số 1.1986; Tạp chí Lịch sử quân sự số 14, tháng 2.1987...
[14] Đào Duy Anh - Đất nước Việt Nam qua các đời - H.1964, tr. 198
[16] Tham khảo Hương Khê 135 năm…,
sđd từ tr 275-277
[17] Phần này sẽ được trình bày cụ thể ở phần nhân vật Hương Khê trong
phong trào Cần Vương.
[18] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê, sđd, tr.29
[19] Lịch sử Hà Tĩnh, Sđd, t.I,
tr.376 - 377
[20]Trần Văn Giàu - Chống xâm lăng
[21] Những địa danh này nay thuộc xã Hòa Hải, huyện Hương Khê
[22] Nguyễn Bá Thành, Hương
Khê - Văn hóa - danh thắng, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh, H.2007, tr.
20-21
[23] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương
Khê, Sđd, tr 30 - 31
[24] Lê Trần Sửu, Hồ sơ “Bản án
Ngô Đức Kế” tại Trung tâm lưu trữ hải ngoại (CAOM) Cộng hòa Pháp; NXB Văn
hóa Hà Tĩnh, 2016, số 214, tr 20
[25] Ngô Đăng Tri. Tiến trình lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930- 2016). NXB Thông tin và Truyền thông, HN, 2016, trang 47.
[26] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương
Khê, tập I (1930 - 1945), Thường vụ Huyện ủy Hương Khê xuất bản, 1976,
tr.38
[27] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê, sđ d, tr.99.
[28] Tư liệu do đồng chí Ngô Quốc Văn (Trúc Lâm, Hương Thanh), đảng viên
1930 - 1931 cung cấp trong Lịch sử Đảng
bộ huyện Hương Khê, trang 111.
[29] Khu IV gồm 6 tỉnh : Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế
[30] Ngô Đăng Tri. Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống
Pháp. Tạp chí Lịch
sử Quân sự, 4.1987.
[31] Sau này là Chủ tịch nước CHDCND Lào
[32] Tham khảo Lịch sử Đảng bộ xã Hương Minh
[33] Ngô Đăng Tri : Vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh trong kháng chiến
chống Pháp (1946 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, 2001, tr.242.
[34] Đặng Duy Báu, Đinh Xuân Lâm, Ngô Đăng Tri, Nguyễn Xuân Đình: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1997, t.2, tr.10.
[35] Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, sđd,
tr.13
[36] Tham khảo Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê, sđ d, tr.221
[37] Từ năm 1991, theo chủ trương của Trung ương Đảng, cấp huyện tiến
hành Đại hội theo nhiệm kỳ năm năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét