Thứ Hai, 4 tháng 11, 2019

Địa chí Hương Khê, Phần thứ 4: Văn hóa - xã hội


PHẦN THỨ TƯ
VĂN HÓA - XÃ HỘI


1.Tín ngưỡng
1.1.Tín ngưỡng thành hoàng
Tín ngưỡng thờ thần của người Hương Khê không chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình, ngoài các vị gia thần, còn có các thần linh chung của thôn xã, khu vực. Việc thờ thần Thành hoàng làng ở Hương Khê cũng được coi trọng. Người xưa thờ thần là để nhớ ơn và cũng để tỏ lòng tôn kính và để được thần giúp cho người yên vật thịnh và dù đạt nguyện vọng hay không, con người vẫn tạ ơn thần, một lối ứng xử rất văn hóa và trần tục. Ngoài mục đích cầu được yên lành, thịnh vượng, thỏa mãn đời sống tâm linh, việc thờ cúng còn có mục tiêu giải thoát con người, hướng con người đến lý tưởng chân, thiện, mỹ, bớt nỗi khổ đau, hạn chế điều ác, tăng thêm điều thiện.
Hầu hết Thành hoàng ở Hương Khê đều là phúc thần. Phúc thần chia làm ba hạng: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng thần. Song Thành hoàng ở Hương Khê cũng đa dạng, có thể chia làm hai loại: nhiên thần (bao gồm cả thiên thần) và nhân thần.
Nhân thần là những vị thần có tên tuổi, tước vị rõ ràng, đó là những người có công lập ra làng xã, những anh hùng dân tộc đã được sinh ra, sống hoặc mất đi ở làng, hoặc là tổ sư các ngành nghề. Đặc biệt trong hàng thần linh, có một số nhân vật có thực trong lịch sử, các vị tướng, quan hầu, quan lĩnh của các triều, có khi là các vị chỉ huy của nghĩa quân Phan Đình Phùng cuối thế kỷ XIX. Hiện tại ở Hương Khê đang có 14 ngôi đền, miếu như thế (Hòa Hải, Hương Xuân, Lộc Yên).
Nhiên thần là thần núi, thần sông, thần sấm, thần chớp, thần mưa, thần gió, thần cây… Việc thờ nhiên thần là theo sự hiển xưng hoặc để chống được mọi tai ương, đại loạn, nổi tiếng linh thiêng khắp nơi thì thờ.
Đây là hình thức tín ngưỡng dân gian tự phát, sau đó được nhà nước phong kiến công nhận, sắc phong thần, tùy theo sự khai báo công tích của địa phương mà thần sẽ được phân thứ hạng để ghi vào sắc phong: trung đẳng, thượng đẳng, thượng thượng đẳng. Sắc thần là linh khí của đền, do đó dân làng phải thành kính phụng tự. Hàng năm có lệ rước sắc thần và tổ chức lễ hội ở một số xã. Rước sắc thần có nhiều hình thức: rước hội đồng (tức tập kết các thần) làm tế lễ giữa đình làng, sau đó thì rước Hồi loan (tức rước sắc trả về chỗ cũ).
Lễ hội đồng tiến hành 3 năm hay 6 năm hoặc có thể 12 năm một lần. Mỗi lần tổ chức lễ hội đòi hỏi nhiều công của và trí lực. Do đó nhiều xã lần lượt bỏ đi vì không có điều kiện. Chỉ có xã Phú Gia lễ hội được tiếp tục đến những năm 1960-1980 rồi cũng bỏ luôn. Một phần vì chiến tranh ác liệt, phần khác do có những cuộc lễ hội đòi hỏi quá nhiều sự đóng góp của nhân dân địa phương. Tuy nhiên ngày nay, nhiều lễ hội truyền thống đang được phục hồi.
Như vậy, các làng xã ở Hương Khê đều thờ khá nhiều thần, trừ những thần gọi là thần bản thổ, không có sắc phong, những thần có sắc phong hoặc có duệ hiệu rõ ràng đều là “Thành hoàng”. Phần lớn làng xã Hương Khê thờ những người có công với nước với dân.
1.2. Tục thờ cúng Tổ tiên
Tất cả các gia đình ở Hương Khê nhà nào cũng có một bàn thờ tổ tiên. Điểm tựa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ lòng thương yêu của con cái đối với cha mẹ, của con cháu đối với ông bà, của hậu duệ đối với tổ tiên. Mặt khác việc thờ cúng cũng bắt nguồn từ niềm tin tâm linh, con người có linh hồn. Theo đó, khi con người chết đi, thể xác tiêu tan vào cát bụi nhưng linh hồn không mất và luôn tồn tại trong không gian và thời gian. Những ngày lễ tết, ngày kỵ húy là dịp để con cháu tưởng nhớ và dâng biếu cho người đã khuất những món quà, hy vọng hương hồn của người đã khuất sẽ về thụ hưởng và chấp nhận để phù hộ độ trì cho mình, cho những người đang sống ở dương gian.
Việc thờ gia tiên được thể hiện ở hai nơi chính: tại từ đường (nhà thờ họ) và nhà con trưởng trong gia đình. Các con trai thứ cũng có thể lập bát hương thờ gia tiên (thờ vọng) nhưng chỉ có ý nghĩa trong gia đình của mình. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng ở gian giữa và được sắp đặt cẩn thận. Theo “Thọ mai gia lễ” thì “Ngũ đại mai thần chủ”, hễ 5 đời thì cất thần chủ của cao tổ đi, nhắc tằng tổ khảo lên bàn trên rồi đem ông mới mất thế vào thần chủ ông khảo. Quy ước này theo phong tục của người Việt Nam gọi là cửu tộc hay cửu thế (tức 9 đời) gồm cao, tằng, tổ, phụ, thân, tử, tôn, tằng, huyền. Như vậy, có 4 đời mình (thân) phải làm giỗ là phụ (cha), tổ (ông), tằng (cố) và cao (can). Trên nữa gọi chung là tổ tiên.
Ở những gia đình khá giả, bàn thờ gia tiên thường chia làm 3 lớp: lớp ngoài cùng là chiếc phản (hoặc đất trống) để trải chiếu cho mọi người ngồi khi làm lễ, lớp thứ hai là một hương án trên đặt đồ tam sự hay ngũ sự (lư hương và cọc sáp bẳng đồng (hoặc gỗ), bộ đèn nến, mâm đồng, bình hoa, cỗ đài rượu, đài nước, khay trầu… lớp trong cùng mới là bàn thờ tổ tiên, có khán và bài vị. Ngoài ra còn có đại tự và câu đối ca ngợi công đức tổ tông.
Những gia đình dù nghèo vẫn lập bàn thờ để thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Bàn thờ có khi chỉ được làm bằng tre, có khi chỉ là một tấm ván gác trên bờ vách. Nhiều gia đình đã dùng mặt hòm chứa thóc làm bàn thờ, trên chỉ bày bát hương và lọ lộc bình (hoặc ống bằng tre) để cắm hương.
Ở Hương Khê hầu hết các họ đều có nhà thờ họ tộc. Ngày giỗ họ, con cháu tề tựu đông đủ. Ngoài việc thờ phụng tổ tiên, đây là dịp để mọi thành viên trong họ duy trì các mối liên kết về tình cảm huyết thống, là nơi sinh hoạt để bàn về những việc trong họ như tế tự, vào đám, làm chay, bồi đắp mả tổ họ, tương trợ trong họ, khích lệ cổ vũ việc học để ganh đua với các họ khác…
Người Hương Khê nói riêng, người Hà Tĩnh nói chung, quan niệm dương sao âm vậy cho nên cúng tổ tiên bằng cả đồ ăn lẫn đồ mặc, đồ dùng, tiền nong. Bên cạnh đó là hương hoa, trà rượu. Rượu có thể có, có thể không (nếu có phải là rượu gạo) nhưng ly nước lã thì nhất thiết không bao giờ thiếu. Người dân quan niệm nước là thứ quý nhất (sau đất) của dân nông nghiệp lúa nước. Trong bài cúng của người Hương Khê luôn có câu “lễ bạc lòng thành” để nói lên cuộc sống khó khăn và tấm lòng thành kính đối với tổ tiên. Sau khi tàn tuần hương, đồ vàng mã được đem đốt, chén rượu cúng được đem rót xuống đống tàn vàng. Có như vậy, tổ tiên mới nhận được đồ cúng tế. Hương khói bay lên trời, rượu (nước) hòa với lửa mà thấm xuống đất. Đó là sự hòa quyện Lửa - Nước (âm dương) và Trời - Đất - Nước mang tính triết lý sâu sắc.
1.3. Tín ngưỡng thờ thổ địa, thổ công   
Cùng với việc thờ phụng tổ tiên, ở Hương Khê còn có tín ngưỡng thờ thổ địa, thổ công. Thổ thần hay thổ địa gọi là “thần bản thổ” thường được thờ tại một cái miếu nhỏ hay trong một ngôi chùa. Thổ địa một khi được thờ cúng và đã có một “trụ sở” nhất định thì cao hay thấp cũng là một loại nhiên thần trong làng. Theo đà tiến hóa của xã hội, khi làng có một lãnh địa nhất định thì thần thổ địa với sự linh thiêng và thần uy của mình có nhiệm vụ đảm bảo sự an toàn cho người dân trên phần đất ấy. Nhưng vai trò của các thổ thần thường đứng sau các vị thành hoàng, không được hiện diện trong các nghi lễ chính thức của làng xã như khi làng tế, cầu yên, mở lễ hội…
Bên cạnh thổ thần quản lý lãnh địa của cả làng, còn có thổ thần chỉ quản lý khu vực nhỏ như cái giếng, cánh đồng, bãi tha ma...
Trong phạm vi gia đình, ngoài thờ tổ tiên, người Hương Khê còn có tục thờ thổ công. Thổ công - một dạng của mẹ đất là vị thần trông coi gia cư, ngăn chặn tà thần, định đoạt phúc họa cho một gia đình. Sống ở đâu thì có thổ công ở đó: đất có thổ công, sông có hà bá.
Cũng như nhiều nơi khác trong cả nước, người Hương Khê coi trọng tục thờ cúng Táo quân. Lễ vật cúng ông Táo có hương, vàng giấy hoặc vàng thoi, trầu, nước (lã), hoa quả, cỗ chay hay cỗ mặn. Ngày tết, người ta dán trước bàn thờ ông Táo những tờ tranh in hình trâu, lợn, tiền (giấy tiền), tranh khắc chữ “Phú”, “Quý”, chữ “Phúc mãn đường”. Áo mão cho thần thường là bộ áo chẽn, áo bào, không có quần, mũ cánh chuồn, đôi hia màu đen vẽ hoa văn màu vàng đất… Có nơi người ta sắm ba bộ áo (không quần), ba mũ (một mũ không có cánh chuồn), ba đôi hia (một đôi của nữ), vì Thần là “hai ông một bà”. Cũng có nơi người ta sắm mũ áo theo ngũ hành, năm thuộc “hành” nào thì màu đó (năm hành “kim” màu trắng, hành “mộc” màu xanh, hành “thủy” màu đen, hành “hỏa” màu đỏ, hành “thổ” màu vàng). Thường thì sau khi cúng, người ta đốt vàng mã. Riêng các tranh thờ, có khi cả áo, mũ, hia để đến 23 tháng chạp cuối năm mới đốt để thay bộ mới.
Việc thờ cúng Thổ công trong làng xã ở Hương Khê thể hiện nghi thức tín ngưỡng đi theo thường được gọi là lễ tục. Dù bàn thờ thổ công được lập ở trong nhà hay góc sân, góc vườn thì vào ngày Sóc (mồng 1), ngày vọng (ngày rằm) và những khi gia đình có giỗ tết đều có trầu rượu, hoa quả để thắp hương cúng vái.
Về sự kết hợp giữa thờ cúng tổ tiên và thờ Tổ quốc trong thời hiện đại.
Cũng như rất nhiều nơi trong cả nước hiện nay, ở Hương Khê có rất nhiều kiểu bàn thờ Tổ quốc kết hợp với thờ tổ tiên. Trong nhiều gia đình, trên bàn thờ gia tiên thường có ảnh lãnh tụ đặt ở vị trí cao nhất. Ngoài những ngày giỗ thường của gia đình (theo lịch âm), bàn thờ thường có khói hương vào cả những ngày quốc lễ như Tết Độc lập (2/9 dương lịch), ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5 dương lịch), ngày Thương binh liệt sĩ (27/7 dương lịch)...Nhiều cơ quan, trường học, công ty, công sở cũng lập bàn thờ có bát hương và hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh. Có thể nói đây là hình thức thờ cúng mới xuất hiện ở nước ta sau ngày hòa bình lập lại (1954).
2.Tôn giáo
2.1.Thiên chúa giáo
Theo Nguyễn Văn Kiệm trong cuốn Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII thì vào năm 1533, Nguyên Hòa 1, đời Lê Trang Tông đã ra một chỉ dụ cấm đạo Thiên chúa, chỉ dụ ấy cho biết, có một giáo sĩ tên I-ni-khu, theo đường biển vào giảng đạo tại làng Ninh Cường, làng Quần Anh thuộc huyện Nam Chân và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định. Còn theo cuốn Sử ký Hội thánh của cha Huân, xuất bản ở Bùi Chu năm 1940 thì nói rõ hơn là rất lâu trước khi các giáo sĩ dòng Tên (Jesuites) đến truyền giáo ở Bắc Kỳ thì đã có mấy dòng Dominicains, có trụ sở ở Manila đến giảng đạo tại các xã Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ, Bích Câu thuộc tỉnh Nam Định[1].
Năm 1669, đạo Thiên Chúa giáo du nhập tới Hương Khê. Theo các tài liệu lịch sử, đặc biệt là các bản viết tay, bản phúc trình của các giáo sỹ đang lưu trữ ở Rôma thì vào trước năm 1676 các giáo sỹ truyền giáo đã tới vùng đất Thổ Hoàng. Năm 1676 thì xây dựng nhà nguyện ở Thổ Hoàng. Theo hồi ký của giáo sỹ Alexandre de Rhodes (còn gọi là cha Đắc Lộ) thì “Chúng tôi (Alexandre de Rhodes) theo đường sông lên làng Vạn Đò, sông Cửu Phúc truyền giáo. Giê su Hữu cho mượn nhà làm lễ”[2]. Còn theo bản phúc trình của giáo sỹ Manoel Ferayra gửi về tòa thánh Vatican vào ngày 3/10/1676 thì “Thổ Hoàng phủ Đức Quang từ 1676 đã có một thánh đường Joseph tại làng Vạn Đò”[3]. Đến năm 1865, Giáo xứ Thổ Hoàng được thành lập, thuộc giáo hạt Ngàn Sâu.
Cuốn “Kỷ yếu 170 năm thành lập giáo phận Vinh” cho biết: Với số giáo dân đông đảo, chiếm hơn 1/3 tổng số giáo dân của giáo phận Tây Đàng Ngoài, Đức Cha Retord (Liêu), trong phúc trình ngày 8/8/1884, đã xin Tòa Thánh lập một giáo phận mới: “Bởi vì tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh cùng với huyện quen gọi là Bố Chính là nơi có ít nhất 60.000 giáo hữu có thể làm thành một địa phận rất thuận lợi, gọi là địa phận Nam Đàng Ngoài”. Đề nghị này được Tòa thánh chấp nhận và ngày 27/03/1846, Đức Thánh Cha Grêgôriô XVI đã ký sắc lệnh thành lập địa phận Nam Đàng Ngoài, đồng thời bổ nhiệm Đức Giám Mục phó Tây Đàng Ngoài là Gauthier (Ngô Gia Hậu) làm đại diện tổng tòa địa phận mới.
Ban đầu, giáo phận Vinh có 18 giáo xứ, riêng Hà Tĩnh có 7 giáo xứ. Hạt Ngàn Sâu là giáo hạt có lịch sử lâu đời trong giáo phận. Cho đến nay (2017), từ hạt Ngàn Sâu đã khai sinh trên đất Hương Khê 15 giáo xứ gồm: Chúc A, Tân Hội, Tràng Lưu, Gia Phổ, Thịnh Lạc, Làng Truông, Ninh Cường, Thượng Bình, Tri Bản, Kẻ Vang, Thổ Hoàng, Vạn Căn, Thọ Vực, Tân Phương, Vĩnh Hội (hiện nay thuộc huyện Vũ Quang). Số giáo dân này phân bố 21/22 xã của huyện (còn lại xã Hương Bình là không có giáo dân). Tổng số giáo dân toàn huyện năm 2016 là 28.665 người chiếm trên 30% số dân toàn huyện. Sinh sống tại 146/238 xóm ở 21/22 xã, thị trấn. Trong đó có 21 xóm có 100% đồng bào công giáo.
Theo số liệu thống kê đến tháng 7/2017, Thiên chúa giáo ở Hương Khê có 14 xứ, 62 giáo họ. Xã có 7 nhà thờ như Phương Mỹ, xã có 5 nhà thờ như Gia Phổ, Hương Trạch. Xã Lộc Yên có 1 nhà thờ quản xứ và 5 nhà thờ họ. Hầu hết các nhà thờ đều ở các vị trí thuận lợi cho điều kiện đi lễ của giáo dân. Có nhiều nhà thờ lớn như nhà thờ Ninh Cường, nhà thờ Thượng Bình, nhà thờ Tràng Lưu... Những xã có giaó dân đông là Phương Mỹ (13/16 xóm), Hương Long (14/17  xóm), Gia Phổ (13/16 xóm). Cụ thể các giáo xứ hiện nay[4].
Giáo xứ Chúc A
Giáo xứ Chúc A được thành lập năm 1909, nằm trên địa bàn xã Hương Lâm. Giáo xứ Chúc A ngày nay được hợp thành từ 5 giáo họ: Chúc A, Cầu De, Vĩnh Cư, Tân Lập, Trung Sơn. Giáo xứ trải rộng trên hai xã biên giới Hương Lâm và Hương Liên của huyện Hương Khê. Giáo xứ đã hình thành nhiều ban ngành và hội đoàn: Legio Mariae, Mân Côi, Huynh Đoàn Thánh Thể, Giới Trẻ, Ban An ninh trật tự, Ca đoàn, Hiền mẫu... Giáo xứ còn có đội ngũ giáo lý viên năng động, tích cực.
Giáo xứ Gia Phổ
Vào đầu thế kỷ XX, từ một vùng đất hoang vu, một số gia đình đã đến khai khẩn, chiêu dân lập ấp và định cư lập thành làng mạc chung quanh quả đồi bên bờ thượng lưu sông Ngàn Sâu. Năm 1918, Hội truyền giáo Paris đã bổ nhiệm cố Bá đến làm Hạt trưởng. Ngài đã chọn vùng đất này làm trung tâm giáo sở và đặt tên là Gia Phổ. Từ năm 1920 đến 1944, Gia Phổ được chọn làm sở hạt Ngàn Sâu. Giáo xứ Gia Phổ ngày nay bao gồm họ trị sở Gia Phổ và họ An Hòa. Giáo xứ gồm các hội đoàn: Huynh Đoàn Thánh Thể, Gia Đình Thánh Tâm, Nhóm trẻ Tin Mừng...
Giáo xứ Kẻ Vang
Giáo xứ Kẻ Vang được thành lập năm 1927 với hai giáo họ là Kẻ Vang và Gia Phương. Là một giáo xứ miền núi, địa hình và thời tiết phức tạp nên đời sống mưu sinh gặp nhiều khó khăn, tình trạng di cư khá phổ biến. Năm 2006, cha GB Nguyễn Huy Tuấn, quản xứ Thổ Hoàng, phụ trách xứ Kẻ Vang đã chuyển họ Gia Phương về giáo xứ Vạn Căn đồng thời nhập họ Cây Mang của xứ Vạn Căn và họ Nam Lách của xứ Thổ Hoàng vào xứ Kẻ Vang. Giáo xứ Kẻ Vang bao gồm 3 giáo họ: Kẻ Vang, Nam Lách, Cây Mang.
Giáo xứ Làng Truông
Giáo xứ Làng Truông được thành lập năm 1865 trên địa bàn hai xã Hương Thủy và Hương Giang. Trước năm 2008, Làng Truông có 11 giáo họ, gồm: Làng Truông, Cây Khế, Cây Thị, Thuận Hội, Vạn Nguyên, Phước Sơn, Lạc Hạ, Lạc Trung, Lạc Thượng, Vĩnh Phúc, Trại Nại. Vì tính chất mục vụ, nhất là để thuận tiện về tham dự thánh lễ và sinh hoạt tôn giáo nên giáo phận đã quy tụ 5 giáo họ phía đông nam Làng Truông gồm Lạc Hạ, Lạc Trung, Lạc Thượng, Vĩnh Phúc, Trại Nại để thành lập giáo xứ Thịnh Lạc. Giáo xứ Làng Truông có 6 giáo họ. Giáo xứ gồm các hội đoàn: Legio Mariae, Lòng Thương Xót Chúa, Mân Côi, Caritas, Giới Trẻ, Trung Niên...
Giáo xứ Ninh Cường
Năm 1805, khi làng Truông trở thành giáo xứ thì Ninh Cường là một giáo họ của xứ đạo này. Năm 1916, khi số lượng giáo hữu tăng lên, để thuận lợi cho công tác mục vụ tòa giám mục đã nâng họ đạo Ninh Cường lên hàng giáo xứ. Giáo xứ Ninh Cường hiện có 5 giáo họ: Ninh Cường, Gia Hương, Hòa Nam, Thượng Thạch và Vạn Gia sống trên địa bàn hai xã Gia Phố và Hương Thủy cùng số ít tại thị trấn Hương Khê. Giáo xứ Ninh Cường có nhiều hội đoàn như: Legio Mariae, Gia Đình Thánh Tâm, Huynh Đoàn Thánh Thể, nhóm Ơn Gọi...
Giáo xứ Tân Hội
Năm 1875, giáo họ Tràng Lưu được giáo phận cho thành lập giáo xứ mới, Tân Hội là một giáo họ của xứ đạo này. Năm 1913, tòa Giám Mục đã quyết định thành lập giáo xứ Tân Hội. Nhà thờ giáo xứ Tân Hội tọa lạc tại xóm 7, xã Hương Trạch, tiếp giáp với vùng rừng núi tỉnh Quảng Bình. Giáo xứ gồm 7 giáo họ: Tân Hội, Lộc Giang, Tân Dừa, Phú Lễ, Vân Sơn, Hạ Vàng và Tân Phú.
Giáo xứ Thịnh Lạc
Năm 1805 khi giáo xứ Ngàn Sâu tách ra thành hai giáo xứ Làng Truông và Thổ Hoàng thì Thịnh Lạc là giáo họ của xứ đạo Làng Truông. Đến năm 1867, Tòa Giám Mục Xã Đoài đã hợp ba giáo họ Thịnh Lạc Hạ, Thịnh Lạc Trung và Thịnh Lạc Thượng để hình thành giáo xứ Thịnh Lạc. Năm 1885, giáo xứ Thịnh Lạc sáp nhập với xứ mẹ Làng Truông. Ngày 15/7/2007, Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đã ký quyết định tách 5 giáo họ Thịnh Lạc Trung, Thịnh Lạc Hạ, Thịnh Lạc Thượng, Vĩnh Phúc và Trại Nại để thành lập giáo xứ Thịnh Lạc. Giáo xứ có 5 giáo họ: Thịnh Lạc Trung, Thịnh Lạc Hạ, Thịnh Lạc Thượng, Vĩnh Phúc và Trại Nại. Giáo xứ đã hình thành nhiều hội đoàn, ban ngành như: Legio Mariae, Lòng Thương Xót Chúa, Hội Đồng Hương Thịnh Lạc, Huynh Đoàn Thánh Thể, Giới Trẻ, Ban Trung Niên...
Giáo xứ Thổ Hoàng
Năm 1865, giáo xứ Thổ Hoàng được thành lập và các giáo họ trực thuộc xứ Thổ Hoàng: Phương Trạch, Kẻ Vang, Vạn Căn, Thọ Vực, Tri Bản, Vĩnh Hội. Giáo xứ có 6 giáo họ: Phương Trạch, Phương Mộ, Tân Lập, Tân Thành, Thổ Mỹ và Thổ Vượng.
Giáo xứ Thọ Vực
Năm 1865, khi  giáo xứ Thổ Hoàng được thành lập thì Thọ Vực là giáo họ của xứ đạo này. Năm 1917, giáo xứ Vạn Căn được thành lập, Thọ Vực được sáp nhập vào xứ đạo mới này. Năm 1936, tòa Giám mục nâng giáo họ Thọ Vực lên hàng giáo xứ. Trên cơ sở đó, năm 1937, giáo xứ Thọ Vực được thành lập. Giáo xứ Thọ Vực có ba giáo họ: Thọ Vực, Vĩnh Viễn, Trại Trăn. Giáo xứ có các hội đoàn Legio Mariae, Ban Caritas, Ban Giới Trẻ và 12 tổ đọc kinh liên gia.
Giáo xứ Thượng Bình
Từ năm 1875, Thượng Bình là một giáo họ của xứ đạo Tràng Lưu. Đến năm 1916, khi Ninh Cường được nâng lên hàng giáo xứ, Thượng Bình trở thành một họ đạo của xứ Ninh Cường. Năm 1938, giáo xứ Thượng Bình được thành lập. Giáo xứ Thượng Bình gồm 6 giáo họ: Thượng Bình, Phú Gia, Trăm Năm, Vân Đạm, Trừng Thanh và Bình Thọ.
Giáo xứ Tràng Lưu
Năm 1865, khi Làng Truông chính thức trở thành giáo xứ thì Tràng Lưu là giáo họ của xứ đạo này. Năm 1875, số tín hữu ngày càng tăng và nhu cầu mục vụ lớn nên Tòa Giám mục Xã Đoài đã sát nhập một số giáo họ lân cận như Chúc A, Tân Hội, Gia Phổ, Thượng Bình để thành lập giáo xứ Tràng Lưu. Giáo xứ Tràng Lưu gồm 10 giáo họ: Tràng Lưu, Giang Lĩnh, Đồng Lưu, Hà Mưng, Tân Lộc, Đô Khê, Đồn Điền, Tràng Thị, Vĩnh Phúc, Tân Phương.
Giáo xứ Tri Bản
Giáo xứ Tri Bản thuộc địa bàn xã Hòa Hải, với 2 giáo họ: Tri Bản và Thượng Thụ. Vào giữa thế kỷ XIX, các giáo hữu Thổ Hoàng đã lên vùng rừng núi Tri Bản, Thượng Thụ để lẩn trốn sự truy lùng của quan quân bắt đạo và cũng để khai thác gỗ củi, tre nứa. Trên cơ sở đó, các tín hữu nơi đây đã thành lập giáo điểm, sau đó hình thành họ đạo vào năm 1865. Năm 1917, Tri Bản được nâng lên hàng Giáo xứ.
Giáo xứ Vạn Căn
Giáo xứ Vạn Căn thuộc địa bàn xã Hà Linh. Trong những năm 1912-1917, Vạn Căn phát triển thành giáo xứ, đồng thời kết nạp thêm giáo họ Thọ Vực đổi tên thành giáo xứ Vạn Thọ. Giáo xứ Vạn Căn gồm ba giáo họ: Vạn Căn, Gia Phương và Đông Chùa.
Giáo xứ Tân Phương
Giáo xứ Tân Phương được thành lập năm 2017 trên cơ sở tách ra từ giáo xứ Tràng Lưu. Giáo xứ Tân Phương có địa bàn hoạt động trên địa bàn 3 xã: Hương Xuân, Phú Phong, Hương Vĩnh và thị trấn Hương Khê. Có 4 giáo họ: giáo họ Tân Phương (thị trấn Hương Khê), giáo họ Đồn Điền (xã Hương Xuân); giáo họ Hà Mưng (xã Phú Phong); giáo họ Vĩnh Phúc (xã Hương Vĩnh).[5]
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước giáo dân Hương Khê đã có nhiều đóng góp. Đặc biệt là giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám, với tinh thần “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “sống tốt đời đẹp đạo”... những người theo đạo Thiên chúa ở Hương Khê đã cùng nhân dân cả nước tham gia hai cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng, đem sức lao động của mình để xây dựng đất nước, xây dựng xóm làng, thực hiện đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, tôn trọng luật pháp của Nhà nước.
2.2.Phật giáo[6]
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: từ thời thuộc Tùy (thế kỷ VI-VII), tướng Lưu Phương làm Hoan Châu đạo hành quân tổng quản đã đem các hòn xá lỵ của Phật đặt ở chùa Pháp Vân và ở các xứ Hoan, Ái (Thanh - Nghệ - Tĩnh). Có thể một hòn xá lỵ đã được đặt ở Nhạn Tháp (vùng Nam Đàn bây giờ ). Từ đó về sau, nhiều chùa Phật được xây dựng dọc hai bờ sông Lam... Đến thời Lý - Trần thì Ngàn Hống đã trở thành một trung tâm Phật giáo của xứ Nghệ.
Hương Khê là huyện miền núi, lại là vùng biên giới với nhiều di tích lịch sử lâu đời. Tuy nhiên, so với các nơi khác Phật giáo Hương Khê ít phát triển hơn. Ngày nay không có nhiều chùa chiền và am miếu. Đa số chùa giờ chỉ còn phế tích. Trước năm 1945, Hương Khê tồn tại rất nhiều chùa. Từ hạ lưu sông Ngàn Sâu đi lên, bắt đầu là chùa Am (Diên Quang tự) ở núi Am Sơn, xã Phụng Công, phủ Đức Thọ (trước kia thuộc tổng Du Đồng huyện Hương Sơn cũ). Sau chùa Am, ta thấy có cả hệ thống chùa chiền ở miền Ngàn Sâu tương đối quy mô: chùa Mỹ Khê, chùa Phương Mộ (xã Phương Mỹ), chùa Trúc Lâm (xã Hợp Thành), chùa Yên Bình (Tri Bản), chùa Trung Định (Hương Thủy), chùa Cô (Đô Khê), chùa Phúc Trạch (chùa Tò Vò), chùa Hà Đông (còn gọi là Gác Chuông hay Tháp Chuông), chùa Tượng Sơn (Xuân Lũng - Hương Xuân), chùa Thượng Hựu (Nam Trạch Hương Bình), chùa Bảo Lâm (Hương Vịnh), chùa Hạ Phúc (Lộc Yên)... Hiện nay các chùa đã hư hỏng, nhiều ngôi chỉ còn lại trong trí nhớ mà không còn nhà chùa như chùa Mỹ Khê, chùa Thượng Hựu... Trong các chùa đổ nát, chùa Hà Đông hiện còn giữ được một cái chuông lớn có ý nghĩa lịch sử. Chuông nặng tới 500kg. Hai chùa còn giữ được dáng vẻ cổ xưa là Hạ Phúc tự (Lộc Yên) và Bảo Lâm tự (Hương Vĩnh).
Theo số liệu của Ban tôn giáo huyện, Hương Khê có 650 phật tử quy y sinh hoạt tại 5 chùa, gồm: chùa Phúc Linh (Gia Phổ), chùa Hạ Phúc (Lộc Yên), chùa Lung (Hương Thủy), chùa Báo Lâm (Hương Vĩnh), chùa Yên (Hòa Hải).
Các chùa ở Hương Khê từ lâu tồn tại như một cơ sở tín ngưỡng độc lập riêng từng xã thôn. Không có chùa lớn và các sư sãi trụ trì để biến chùa thành một trung tâm thu hút khách thập phương đến lễ bái. Chùa do một người thủ từ được dân làng bầu ra để chăm sóc việc tín ngưỡng. Người thủ từ này trong một số trường hợp cũng thành người thầy chùa, tức là người có khả năng điều hành các lễ bái thông thường như cầu siêu, cầu lộc, cầu tự theo yêu cầu của các tín chủ. Trước đây chùa nào cũng có một số ruộng đất gọi là tự điền (ruộng dùng để cúng bái hương khói). Ruộng được làm do công điền thổ của xã trích cấp và do các nhà hảo tâm, có cả những người vô tự  (không có người nối dõi) tự giác giúp làm.
Tuy nhiên điều đáng chú ý là đến thời điểm này (đầu thế kỷ XXI), khi trên cả nước có nhiều nơi nhà chùa trở nên tấp nập, nhộn nhịp trong những ngày lễ tết thì ở Hương Khê, nhân dân vẫn còn ít đi chùa. Cả những chùa được tu sửa khang trang và chùa còn nguyên trạng với các tượng phật thời cổ như Bảo Lâm, Hạ Phúc, mỗi tháng cũng chỉ có vài chục lượt người đến lễ. Ở Hương Khê ngày rằm và mồng một âm lịch không thường xuyên được dân chúng cúng lễ, chỉ có ngày Phật Đản (mồng 8 tháng 4 âm lịch), ngày lễ Trung Nguyên (rằm tháng 7) và ngày tết Nguyên Đán mới là những ngày được lễ bái long trọng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, thực hiện chủ trương vận động chấn hưng Phật giáo, ở Hương Khê có một phân hội phật giáo theo khuynh hướng tiến bộ đã ra mắt ở thị trấn Chu Lễ. Chùa Hà Đông là nơi nhóm họp của Ban trị sự và các hội viên. Tổ chức mới này nhằm khuyên các thiện nam, tín nữ lấy việc cầu kinh niệm phật và những việc làm phúc đức làm nội dung cho hoạt động chính, bài trừ mê tín dị đoan. Nhưng phân hội chưa kịp hoạt động công khai thì Cách mạng tháng Tám thành công, các hội viên tham gia vào các đoàn thể chính quyền. Sau khi hòa bình lập lại (1955-1960) có chủ trương “hợp tự” tập trung đình, đền, chùa, miếu về một nơi và đình, chùa được sử dụng để làm trụ sở cho các hoạt động đoàn thể.
Người Hương Khê, ngay cả một số đệ tử đi chùa cúng Phật có lẽ cũng chẳng rõ mình theo tông phái nào. Họ càng không biết học thuyết lớn của nhà Phật như “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên” khi hương khói vái Phật hay cầu kinh niệm Phật, họ chỉ biết các đức Phật lòng bác ái, bao la, có đức từ bi hỉ xả, có lượng cả vô biên, cứu khổ cứu nạn, phù hộ cho con người thoát khỏi tai ương. Trong tín ngưỡng Phật giáo của nhân dân Hương Khê, trước đây cũng có người ăn chay, giữ giới tụng kinh, phóng sinh và chuẩn tế nhưng đó là những người muốn tu nhân tích đức, đem lại sự thanh thản cho bản thân và gia đình. Dù vậy, họ không sùng bái quá mức thông qua các lễ nghi tốn kém mà họ coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa: Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người. Điều đó gắn với đạo lý cổ truyền của người dân Hương Khê là hướng thiện, thương người như thể thương thân, sẵn sàng chịu đựng và tha thứ.
2.3. Nho giáo
Nho giáo vào nước ta khá sớm nhưng phải đến đời Trần mới trở thành Quốc giáo và phát triển rực rỡ dưới triều Hậu Lê. Đến đời Nguyễn, đạo Nho được trọng dụng và thịnh hành nhưng đến khi có sự xâm nhập của tư tưởng Thiên chúa giáo và văn hóa phương Tây thì Nho giáo giảm dần sức mạnh chi phối của nó. Thực ra, đạo Nho dưới nhiều hình thức vẫn còn tồn tại dai dẳng cho mãi tới ngày nay.
Đạo nho thể hiện trong đời sống văn hóa, phong tục, tập quán của người dân Hương Khê thì khá rõ. Con người sống theo đạo đức truyền thống như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, hiếu, tiết, nghĩa luôn luôn được coi trọng.
Nho học ở Hương Khê ít phát triển vì điều kiện xa các trung tâm văn hóa lớn, lại là vùng núi và biên giới. Cho đến nay, chưa tìm thấy các Tiến sĩ, ông Nghè, ông Cống quê ở Hương Khê trước Cách mạng tháng Tám.
Nho giáo ở Hương Khê còn thể hiện trong hệ thống các danh xưng của các đền miếu như: đền Nhà Thánh, đền Trạng, đền Tam Công (Phương Mỹ), đền thờ Trần Phúc Hoàn (Hương Vĩnh), đền Long Mạch, miếu Nhà Rồng (Hương Bình), lăng Đức Thánh (Phúc Đồng)... Đền Trại Trụ (Phú Gia) ngày nay được người dân Hương Khê gọi là “Đức Thánh Trụ”. Một ngôi đền rất xa trung tâm, đường khó đi nhưng rất đông người đến lễ. Đa số nhân dân đến đền Trại Trụ ngày nay là để “xin” và để hỏi các việc của nội tộc, gia đình.
Hệ thống giáo dục Nho giáo ngày xưa phát triển xuống đến cơ sở làng xã Việt Nam. Vùng đất Hương Khê không ngoài hệ thống tổ chức ấy. Con người Hương Khê rất hiếu học, nhưng do điều kiện giáo dục thời trước đối với những vùng xa xôi hẻo lánh chưa thuận lợi nên hiệu quả học hành thi cử ngày xưa chưa cao. Phải chăng vì lẽ đó mà trong buổi đầu khai phá mảnh đất này vẫn có người đi học, đi thi. Thời Tự Đức xã Xuân Lũng cổ thuộc tổng Thổ Lội đã xuất thần một tú tài nổi tiếng hay chữ. Đó là cụ Nguyễn Thúc Đĩnh, đỗ tú tài thời Tự Đức (hiện nay chưa có tư liệu về khoa thi). Thời Thành Thái có hai người đỗ trong một khoa thi Hương (Canh Tý, 1900) và tiếp theo ở xã Hà Đông có hai cha con một gia đình đã nối tiếp nhau thi đỗ mặc dù khoa danh còn ở mức khiêm tốn (tú tài) là cụ Phan Thúc Hòe và con trai là Phan Thúc Luyện. Các bậc nho sỹ khoa bảng nơi đây đều hay chữ nghĩa, thích văn thơ, khảng khái, hào hiệp và trọng khí tiết. Một khi đất nước bị nạn ngoại xâm, phần lớn họ đều hăng hái tham gia chống giặc cứu nước hay mỗi khi bị ép buộc phải làm những việc phi đạo lý thì nhiều người vẫn sẵn sàng treo ấn từ quan trở về quê làm nghề dạy học hay bốc thuốc cứu người. Ví dụ như cụ Tú Phương (Nguyễn Duy Phương) người xã Hà Linh đỗ khoa Canh Tý (1900) đã cương quyết khước từ hợp tác với địch, mặc dù tên công sứ Hà Tĩnh tìm mọi cách dọa dẫm, lôi kéo. Trước sau cụ vẫn là một bậc Văn Thân yêu nước, liên lạc chặt chẽ với phong trào Đông Du. Hoặc cụ Tú Đào (tức Trần Xuân Đào), người xã Gia Phổ, đồng khoa với cụ Phương, đã khéo léo liên lạc với cụ Phan Sào Nam tiếp thu tư tưởng tiến bộ qua Tân thư để giáo dục cho các thế hệ học trò. Bên cạnh đó, để lại dấu ấn đậm nét là những nho sĩ vì khoa trường lận đận quyết tìm đến những nơi đang cần đến sự giáo hóa và văn minh. Phổ biến là nếu làng ấp nào có mặt những thầy đồ, những nho sĩ thì sau đó, làng ấp ấy trở thành một trung tâm giáo dục văn hóa. Tiêu biểu như ở xã Nam Trạch cũ  (Hương Bình) có nho sỹ Nguyễn Trọng Khoan. Cụ là người Xuân Hồ (Nam Đàn), bạn thân với cụ Phan Bội Châu, sau nhiều lần đi thi không đỗ, đã vào Hương Khê theo phong trào Cần Vương. Khi phong trào Cần Vương thoái trào, cụ Nguyễn Trọng Khoan không về lại Nam Đàn mà lập nghiệp rồi định cư ở Nam Trạch. Trong thời gian sống ở đây, cụ vẫn giữ liên lạc với Phan Bội Châu và những người bạn ở Nam Đàn. Cụ đã dạy chữ nho cho nhiều thế hệ người làng Nam Trạch từ cuối thế kỷ XIX cho đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Ngày nay, bút tích của cụ Nguyễn Trọng Khoan còn nằm trong một số văn bản chúc thư, gia phả, khế ước, câu đối... đang được lưu giữ tại nhiều gia phả ở xã Hương Bình.
Như vậy, văn hóa nho giáo vẫn luôn tồn tại trong đời sống của nhân dân Hương Khê.  Ngoài ra sự lan tỏa của văn hóa nho giáo còn thể hiện ở chỗ các chức sắc trong làng, trong huyện vẫn dựa vào thi cử để bổ nhiệm các vị trí như cửu phẩm, bát phẩm, tam phẩm, tứ phẩm... Tại các đình, đền, nhà thánh của các xã có văn chỉ để ghi rõ những người đỗ đạt trong làng, đạo hiếu của nho giáo thể hiện ở việc phụng dưỡng và thờ cúng tổ tiên, hay đơn giản việc hôn nhân, tang ma, xây dựng nhà cửa... đều phải xem ngày, xem tuổi. Đặc biệt, người phụ nữ Hương Khê tiếp thu tư tưởng “tam tòng” của Nho giáo qua tinh thần trách nhiệm của người phụ nữ đối với gia đình, gia tộc: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.  Nhà thờ họ Dương khá lâu đời, còn giữ được sắc của vua Khải Định phong tặng cho một phụ nữ lấy chồng họ Dương với 4 chữ “Tiết Hạnh Khả Phong” đã thể hiện rất rõ tư tưởng đó.
Người Hương Khê vốn là những người lao động, cần cù chịu khó, mang đạo đức, tinh thần, cốt cách tốt đẹp của dân tộc, của quê hương nên những nét tích cực của đạo Nho dễ du nhập và ăn sâu trong tâm trí mỗi người dân. Nó hòa quyện với truyền thống và đạo lý trong dân gian tạo nên cái chân - thiện - mỹ cuả mỗi người dân. Đến nay, khi sự giao lưu văn hóa rộng mở, nhiều luồng tư tưởng mới xuất hiện nhưng những yếu tố tích cực của đạo Nho vẫn được nhân dân trân trọng và gìn giữ.
3. Phong tục tập quán
Phong tục tập quán là những thói quen trong lễ nghi, trong sinh hoạt được lưu truyền từ đời này sang đời khác ở một cộng đồng cư dân lớn hay nhỏ, mang tính xã hội sâu sắc. Phong tục, tập quán (tập tục) gắn với đời sống tinh thần của nhân dân địa phương, tạo nên bản sắc văn hóa riêng biệt của từng vùng. Phong tục tập quán ở Hương Khê cũng nằm trong những nét chung của cả xứ Nghệ, tuy nhiên cũng có những nét khác biệt so với các địa phương khác.
3.1.Tục uống nước chè xanh (nác mới)
Nhân dân xứ Nghệ nói chung (bao gồm Nghệ An và Hà Tĩnh) đều uống nước chè xanh. Bà con gọi là uống nước chè chát, uống nước mới (nác mới). Khắp nơi ở trung du, miền núi, đồng bằng xứ Nghệ đều trồng chè. Nhưng chè xanh nấu lên, uống nước ngon là loại chè trồng ở đất đồi, nhất là đồi đất đỏ. Hương Khê là vùng đất như vậy. Chè xanh Hương Khê có từ lâu đời, được trồng đại trà ở các trại: Trại Độông, trại Cơn Mang, Vườn Trại (Hương Đồng), trại Khẩn (Hương Xuân), trại Trụ (Hương Long), trại Chắt Đồ, trại Chu Dụng, trại Cố Đường (Hương Thủy). Có những trại khá lớn như trại Cửu Hải có hàng chục hecta chè. Ngoài các trại chè thì các vườn nhà đại bộ phận đều có chè xanh. Trong quá trình cải tạo và quy hoạch đất đai, những làng mạc ven sông Ngàn Sâu đều di dân lên ở các vùng đồi. Người đi đến đâu, chè lại mọc lên đến đấy. Chè xanh cắt nhánh buộc thành bó to gọi là rộp. Các chợ lớn trong huyện như: chợ Sòng (Hương Thủy), chợ Vạn, chợ Un (Hương Phố), chợ Xuân (Hương Xuân), chợ Đồn (Lộc Yên), chợ Nổ (Hòa Hải), chợ Trúc (Thanh Luyện), chợ Đò (Hương Tân), chợ Huyện (Hương Thủy)... đều có bán chè xanh (chè tươi).
Thói quen uống nước chè xanh đã trở thành tục lệ của người Hương Khê tự bao đời. Bát nước chè xanh chứa đựng hương của đất, tình con người. Sau lũy tre làng, những người nông dân hiền lành, chất phác, cần cù một nắng hai sương sống với nhau bằng cái tình làng nghĩa xóm, ấm áp tình người thì ấm nước chè xanh là điểm gặp gỡ của bà con láng giềng sau một ngày lao động vất vả.
Không giống như cách nấu nước chè của người Bắc, chỉ sử dụng lá chè, người Hương Khê khi đi rú, đi trại, đi chợ về không bao giờ quên bó chè xanh, họ nhặt hết lá sâu, lá vàng, rồi cho cả cành, lá, búp, nụ và ngọn vào nồi bù hoặc ấm đất loại lớn. Dùng lá chuối lớn bịt kín miệng nồi để giữ mùi hương đặc trưng của chè. Nước nấu chè phải chọn thứ nước mưa hay nước giếng, có khi là nước sông Ngàn Sâu (Thâm Giang). Lửa nấu nước chè là lửa đỏ đều, không đỏ to quá cũng không nhỏ quá. Củi nấu nước phải dùng thứ củi có than đượm, và không có khói, khi nấu không làm phai mất vị nước chè. Khi nồi nước chè đã sôi, người ta lấy gáo nhấn chè cho chìm xuống. Có một số nơi, sau khi nước chè vừa sôi lại đổ thêm vài ba gáo nước lã để hạ nhiệt rồi giảm lửa. Ít phút sau đó sẽ có nồi nước chè vừa chát, vừa thơm, vừa nóng, vừa xanh. Chè sôi quá lửa thì nước chè chuyển sang màu đỏ bầm. Đó là chè bị lịt. Nước chè đầu tiên là nước chè cốt. Hết nước cốt, đổ nước sôi vào là nước chè dạo. Đun lại lần ba là nước chè hâm. Chè hâm không ngon nên có câu “chè hâm lại, gái ngủ trưa”. Bên cạnh đó, người Hương Khê còn có nước chè dội. Ngọn chè non được vò nát sau đó cho vào mo cau đã được làm thành cái phễu. Sử dụng nước nóng đổ từ từ cho nước nhỏ xuống, tạo nên hỗn hợp nước chè xanh vừa ngon, vừa tốt cho sức khỏe. Nhiều người khi uống chè còn pha thêm một chút mật mía.
Vào những ngày hè nóng bức hay mùa đông giá rét, về Hương Khê vẫn được nghe tiếng gọi uống nước chè xanh trong làng: “- Uống nác mới ơ ông...”; “Nác mới ơ bà...”. Trên chiếc mươn tre, nước chè xanh mới nấu được múc ra đổ vào các vùa sanh hay bát sứ, màu vàng rộm, hơi thơm phức, trông thật hấp dẫn. Người uống một bát, người uống hai bát, vừa uống vừa thưởng thức vị nước chè chát mà ngọt rất quen thân của hương vị quê hương và gần gũi với sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh ấm nước chè xanh, bà con trao đổi những chuyện lịch sử, thời sự, chuyện làm ăn, mùa màng, chuyện làng xã… Rồi những đêm trăng thanh gió mát những câu hát ví tại một phường vải nọ hay một bài vè mới được sáng tác… cũng được đem ra bình phẩm bên bát chè xanh.
Bên cạnh đó, nước chè xanh đối với người xứ Nghệ nói chung, người Hương Khê nói riêng được coi như cơm, như rau, thậm chí uống thay cơm[7]. Có khi, buổi sáng trước khi đi làm, người nông dân không ăn sáng nhưng chỉ uống một, hai bát  nước “chè chát” rồi đi làm. Nước chè xanh làm cho họ đủ năng lượng để làm việc suốt cả buổi.
Tục uống nước chè xanh là một truyền thống văn hóa đậm nét của người Hương Khê nói riêng, xứ Nghệ nói chung. Nước chè xanh dùng cúng tổ tiên, trong hội hè, hiếu hỷ, làm quà mừng nhà... Mỗi bữa chợ phiên thì các quán nước chè xanh khá đông đúc, rồi các bó chè xanh trong gánh, cầm tay, buộc sau xe đạp... trở thành hình ảnh quen thuộc trong đời sống của người dân Hương Khê. Uống nước chè xanh là một thói quen, một truyền thống văn hóa lâu đời của những cư dân sống ở sông Ngàn Sâu và dọc theo núi Đại Ngàn.
3.2.Tục ăn trầu nhuộm răng
Đối với người Hương Khê nói riêng, người Việt nói chung trước những năm 60 của thế kỷ XX, tục lệ ăn trầu là lý do trực tiếp của tục nhuộm răng, tạo vẻ thẩm mỹ duyên dáng cho hàm răng. Các cô gái, cho dù không ăn trầu, vẫn cứ nhuộm răng đen. Thậm chí, việc nhuộm răng đen còn lan sang cả cánh đàn ông nhưng số lượng ít hơn.Việc nhuộm răng đen đã trở thành luật, phổ biến trong dân chúng, trừ những đứa trẻ còn răng sữa, không ai có thể cưỡng lại qui luật trên. Và nếu đã sở hữu một hàm răng đen, cứ khoảng gần một năm phải nhuộm lại, vì màu đen đã phai. Đặc biệt vào các dịp lễ tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, họ phải nhuộm răng lại cho đen mới để tham dự.
Trước khi nhuộm phải chuẩn bị hàm răng cho sạch. Trong hai ba ngày liền, phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai chanh lát, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của chanh làm cho lớp men ngoài răng "mềm" đi, tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng, nhưng không ăn sâu quá để làm hại răng, nhờ đó thuốc nhuộm có thể bắt chặt hơn. Khi xuất hiện những vết vàng trên răng, đồng thời mầu đen cũng nhạt đi, người ta phải nhuộm lại. Nhuộm răng phải qua hai giai đoạn: nhuộm răng đỏ và nhuộm răng đen. Trong đợt đầu người thầy phết cao nhuộm răng đen lên lá chuối, lá dừa hay lá cau, cắt vừa hàm răng, rồi ép lên mặt ngoài răng. Người Hương Khê xưa nhuộm răng thông qua các nguyên liệu đơn giản, rẻ tiền. Nếu như ở các xã Hương Vĩnh, Phú Gia người dân sử dụng cây căng đái thì các xã khác như Lộc Yên lại sử dụng cây nhựa trương và hạt cau, xã Phúc Trạch sử dụng cây rành rành... Tất cả các nguyên liệu nấu lên, khi chảy nhựa là đến công đoạn nhuộm. Người ta bắt đầu nhuộm từ 5 giờ chiều đến khoảng 2 giờ sáng thì thay thuốc. Đến sáng, sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng để thải hết chất thuốc còn dính ở kẽ răng. Mỗi lần ăn xong phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là "thuốc xỉa nước". Tiếp đấy dùng một thứ thuốc đá chế thành bột gọi là "thuốc xỉa khô", dùng ngón tay miết lên mặt răng. Đây là công đoạn để có một hàm răng đen bóng ánh như hạt tuyền. Răng đen cũng đi liền với miếng trầu. Ăn trầu càng làm cho răng đen thêm óng.
Tục nhuộm răng đen còn tồn tại cho đến giữa thế kỷ 20 (những năm 1955-1965), người Việt Nam nói chung, Hương Khê nói riêng mới phá bỏ tục lệ này. Hàm răng đen bị đẩy lùi vào dĩ vãng, tuy nhiên nó vẫn còn tồn tại ở một số làng quê. Tục nhuộm răng đen cũng có liên hệ với tục ăn trầu tuy hai tập tục này là hai khía cạnh khác nhau. Một mang hình thức xã giao và lễ nghi, một là cách trang sức nhưng cả hai bổ sung cho nhau.
3.3.Hôn nhân và tang ma
Hôn nhân
Hôn nhân nói chung không đơn thuần là việc hai người lấy nhau mà là việc hai bên cha mẹ, “hai họ” dựng vợ gả chồng cho con cái. Qua đó, xác lập quan hệ qua lại giữa hai gia tộc. Nhìn chung, quan niệm lấy nhau phải phù hợp về hoàn cảnh, về địa vị vẫn rất phổ biến từ xưa đến nay.  “Môn đăng hộ đối” trước nay vẫn là một tiêu chuẩn để dựng vợ gả chồng. Ngoài ra, “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem họ” cũng là một tiêu chuẩn lựa chọn trong hôn nhân ngày xưa. Quan niệm này không phải đã lỗi thời, tuy nhiên ngày nay, tình yêu tự do vẫn là cơ sở đầu tiên của hôn nhân.
Trước đây, hôn nhân còn phải đáp ứng các quyền lợi của làng xã. Tục nộp tiền cheo đóng vai trò là tiêu chuẩn có tính nghĩa vụ của đôi vợ chồng mới đóng góp cho làng xã thực hiện công việc chung. Tục ngữ có câu “Nuôi lợn thì phải vớt bèo, lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng”. Khi lấy nhau, đôi trai gái phải nộp cho làng một khoản “lệ phí” gọi là “cheo” thì đám cưới mới được xem là hợp pháp. Người cùng làng lấy nhau thì nộp ít (có tính chất tượng trưng) gọi là cheo nội; lấy vợ, lấy chồng ngoài làng thì cheo nặng, gấp đôi, gấp ba cheo nội, gọi là cheo ngoại.
Khoản tiền nộp cheo thường được dùng vào những việc công ích như tu bổ đình chùa, đào giếng, xây giếng làng, xây cổng làng, đắp đường, lát gạch đường làng…
Tục nộp cheo còn được ghi lại trong các văn bản thư tịch cổ[8]. Hương ước một số làng xã ở Hương Khê xưa đã nói rất rõ về tục lệ này, cụ thể:
Điều 26 hương ước thôn Gia Phổ, xã Chu Lễ, tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê, niên hiệu Khải Định thứ 5 (1920) sao lại năm Bảo Đại thứ 17 (1942) ghi: “Việc hôn thú đã có lệ quy định, tùy theo giàu nghèo, phải nộp tiền giao cho lý trưởng biên nhận. Nếu ai làm trái phạt tiền 1 đồng”.
Điều 22 hương ước thôn Phú Phong tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê, niên hiệu Khải Định thứ 6 (1921) ghi: “Hôn lễ đã có định lượng, tùy giàu nghèo mà nộp tiền, giao cho lý trưởng ghi chứng thực. Người nào vi phạm phạt 1 đồng”.
Hôn lễ ngày xưa theo sách vở được quy định thành “lục lễ”, người Hương Khê thời cận đại theo thông tục, chỉ có mấy lễ như sau: Lễ vấn danh, lễ coi mặt, lễ dạm, lễ ăn hỏi.
Theo quy định từ khi dạm ngõ đến 3 tháng sau mới được làm lễ cưới. Điều này được ghi trong hương ước, cụ thể:
Điều ước thứ 11, hương ước xã Trung Hà, tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê niên hiệu Bảo Đại thứ 6 (1931) ngày 22 tháng 8, ghi: “Phàm trong xã, hai bên nam nữ kết hôn, sau khi sự việc đã thành, phải đợi 3 tháng sau mới được tiến hành hôn lễ. Trừ những trường hợp có duyên cớ ra, còn nếu nhà giàu phải nạp sính đôi hoa tai bằng vàng, trầu rượu một mâm, nến một đôi, nhà nghèo chỉ nạp trầu rượu một mâm, nhà gái không được đòi hỏi”.
Điều 12 hương ước thôn Thượng Trạch tổng Chu Lễ huyện Hương Khê, niên hiệu Bảo Đại thứ 6 (1931) ghi: “Việc cưới xin phàm trong thôn, hai họ nhà trai nhà gái có lo việc cưới xin, sau khi đến dạm ngõ 3 tháng thì cho làm lễ cưới. Nhà giàu thì lễ vật gồm nhẫn vàng, hoa tai vàng mỗi thứ một đôi, trầu cau, rượu một mâm, nến hoa một đôi. Nhà khá giả thì một đôi hoa tai bạc, một mâm trầu rượu, một đôi nến hoa. Gia đình nhà gái không được đòi hỏi gì thêm nữa”.
Sau 3 tháng theo quy định, lễ cưới được tiến hành gồm các bước: Lễ bái tổ tiên, lễ tân hôn, lễ lại mặt.
Ngày nay những phong tục cưới xin vẫn còn nhưng nó được đơn giản về thủ tục nhưng lại được lớp trẻ làm tăng phần long trọng về hình thức và lễ lạt.
Tang ma
Phong tục tang ma của người xứ Nghệ nói chung, Hương Khê nói riêng thể hiện tâm lý vừa nuối tiếc người thân và vừa phải tiễn đưa người thân qua bên kia thế giới.
Điều ước thứ 12, hương ước xã Trung Hà, tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê niên hiệu Bảo Đại thứ 6 (1931) ngày 22 tháng 8 ghi: “Phàm nhà có tang thì trước hết trình với tri bạ, sau trình với lý trưởng để cắt cử đi hộ táng. Công việc xong xuôi, nhà nào có lòng cho một bữa cơm tạm. Công mai táng là 30 quan, sung vào công quỹ. Nhà thuộc loại trung nạp công mai táng là 20 quan và một bữa cơm tạm cũng như thế. Nhà loại nghèo, dùng một mâm trầu rượu, nạp tiền công mai táng 3 quan để đưa cho người đưa tang, tang chủ thân hành đáp lễ tạ. Họ hàng, người trong làng không được đòi hỏi như lệ cũ phải được ăn uống. Người trong họ không được ngáng trở”.
Điều thứ 21, hương ước thôn Gia Phổ, xã Chu Lễ, tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê, niên hiệu Khải Định thứ 5 (1920) sao lại năm Bảo Đại thứ 17 (1942) ghi: “Về việc tang trừ dân đinh nghèo khó, trong giáp phải bắt dân phu đến khiêng vác chôn cất ra, còn lại nhà nào có tang, phải lập tức đến trình cho lý trưởng, phó lý biết, để báo cho toàn thôn họp bàn, giao cho phó lý giáp ấy, bắt dân phu đến khiêng vác, chôn cất từ 10 đến 20,30 người. Các bậc hào mục phải đến viếng đưa, tang chủ chỉ giải đáp lại bằng trầu rượu và nộp tiền báo hiếu từ 4,5 đồng đến 10 đồng nhập vào công quỹ, nhất thiết không được bày biện cỗ bàn, sách nhiễu”.
Điều thứ 18, hương ước thôn Phú Phong tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê, niên hiệu Khải Định thứ 6 (1921) ghi: “Việc tang lễ, trừ những đinh phu bần cùng thì sức cho dân phu ở trong giáp trợ giúp việc tang, ngoài ra những người giàu có mà có việc tang thì phải trình ngay đến chánh phó lý trưởng biết để chuyển trình cùng hương hội hội nghị - bắt phu để giúp cho việc tang (20 hoặc 30 người). Nhà hào mục, lý dịch cũng tiến hành điếu phúng. Tang chủ thì chuẩn bị trầu cau, rượu để đáp tạ. Nạp tiền báo hiếu (từ 3 đồng đến 10 đồng để sung công). Nhất thiết cỗ bàn cùng các thứ khác không được yêu sách”.
Điều thứ 13, hương ước thôn Thượng Trạch tổng Chu Lễ huyện Hương Khê, niên hiệu Bảo Đại thứ 6 (1931) ghi: “Việc ma chay trong thôn hễ có gia đình nào có việc tang thì tang chủ có lời thỉnh cầu các hạng kỳ hào dân đinh đến lo việc chôn cất, không kể đó là dân gốc hay dân ngụ cư. Định lễ gồm 60 quan tiền kẽm, một mâm trầu rượu đối với gia đình giàu có; lễ vật gồm có 40 quan tiền kẽm, một mâm trầu rượu đối với gia đình nghèo khó. Tang chủ tự cảm ơn làng xóm họ hàng, không được theo lệ cũ bắt phải ăn uống xa hoa tốn kém”.
Trên cơ sở đó, khi trong gia đình có người thân qua đời, tục làm đám ma thường theo sách “Thọ mai gia lễ”, gồm các bước cơ bản như: lễ đặt tên hèm (tên thụy), lễ mộc dục, lễ phạm hàm, lễ thiết linh sàng, lễ triệu tổ, lễ thành phục, lễ cúng cơm, lễ tập đòn, lễ dẫn. Cuối cùng là lễ hạ huyệt, lễ sơ ngu, tái ngu và tam ngu; lễ ba ngày còn gọi là lễ mở cửa mả.
Sau khi chôn cất rồi, còn có các ngày lễ: sóc, vọng, 50 ngày, 100 ngày tiểu tường, đại tường và trừ phục.
Cũng cần phải nói thêm rằng, phong tục tang ma ở Hương Khê thể hiện khá rõ tính cộng đồng, khi trong nhà có tang bao giờ cũng được làng cử người tới giúp, lo toan chỉ bảo cho mọi việc. Đặc biệt trong đám tang, tục ăn uống không xô bồ, linh đình điều này được thể hiện rất rõ trong hương ước.

II. LỄ HỘI VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN
Có thể nói từ những năm 1955 đến 1985 dường như không có các lễ hội truyền thống. Nhưng bước sang những năm 90 của thế kỷ XX lại nay lễ hội được phục hồi.
Cũng như các huyện khác của tỉnh Hà Tĩnh lễ hội dân gian phổ biến ở Hương Khê là hội làng. Trong hội làng có Hội rước Thành hoàng làng, hội chùa, hội đền. 
Việc tổ chức lễ hội, hội làng hay còn gọi là ðại tế diễn ra ở nhiều làng xã Hương Khê. Với hai phần chính là phần lễ và phần hội. Lễ là nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, còn hội bao gồm các trò chơi mang tính giải trí. Lễ hội ở Hương Khê chủ yếu diễn ra vào mùa xuân (tháng Giêng âm lịch) từ mồng ba tết đến sau rằm để cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, an lành hạnh phúc, gặp nhiều may mắn. Trong dịp này làng xóm nào cũng náo nức trong không khí hội hè. Hương Khê nổi bật với hai lễ hội: Lễ hội Hàm Nghi - Sơn Phòng và Lễ hội đua thuyền.
1. Lễ hội
1.1. Lễ hội rước sắc Sơn Phòng - Hàm Nghi.
Lễ hội rước sắc phong Vua Hàm Nghi là lễ hội truyền thống, nét văn hoá tâm linh đặc sắc của người dân Phú Gia, Hương Khê nói riêng và người dân Hà Tĩnh nói chung trong những ngày đầu năm. Thông qua lễ hội nhằm gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của khu di tích lịch sử “Đền Công Đồng - Thành Sơn Phòng - Đền Trầm Lâm” tưởng nhớ tới vị Vua yêu nước và phong trào Cần vương. Từ đó góp phần tuyên truyền giáo dục rộng rãi trong nhân dân, nâng cao hơn nữa và gìn giữ được nét đẹp truyền thống thuần phong mỹ tục của di tích, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của khách tham quan.
Trước đây, lễ hội diễn ra hai năm một lần, từ năm 2010 trở đi, lễ hội diễn ra một năm một lần vào sáng ngày 07 tháng giêng âm lịch tại xã Phú Gia - nơi vào năm Ất Dậu 1885 - Vua Hàm Nghi hạ Chiếu Cần vương, đắp luỹ, xây thành Sơn Phòng, chiêu binh, tuyển tướng bảo vệ dinh luỹ; đánh chặn giặc từ Tuyên Hoá - Quảng Bình ra và trấn an quân đội, phòng đánh giặc từ Bắc ải tấn vào. Lễ hội được tổ chức ở cả 3 đền: đền Trầm Lâm, đền thờ vua Hàm Nghi và đền Công Đồng.
Theo sử sách còn ghi lại, năm 1885, vua Hàm Nghi tiến quân ra xã Phú Gia, huyện Hương Khê đắp lũy, xây thành Sơn Phòng, chiêu binh, tuyển tướng. T+ại đây, vua đã viết chiếu Cần Vương, kêu gọi toàn dân đánh đuổi giặc Pháp. Thời gian này, nhà vua bị quân Pháp vây bắt nhiều lần, nhưng không thành. Trong một đêm nằm ngủ tại thành Sơn Phòng, nhà vua được báo mộng. Khi tỉnh dậy vua liền ban tặng Sắc phong để thờ tại miếu Trầm Lâm gồm: 2 thanh bảo kiếm, 2 con voi bằng vàng nặng 4,4 lạng, 1 con nghê, lục lạc bằng đồng đen, 8 bộ áo mũ triều thần, 39 đạo sắc phong do các triều vua ban tặng… Trải qua nhiều biến cố của lịch sử nhưng người dân ở xã Phú Gia vẫn giữ gìn nguyên vẹn các báu vật vua ban.
Người được giao nhiệm vụ giữ gìn, bảo quản báu vật là những vị cao niên trong xã được dân làng tín nhiệm, bình xét trên nhiều mặt gồm đạo đức, năng lực thờ phụng, kiến thức văn hóa dân tộc, được lựa chọn qua bỏ phiếu và xin quẻ sấp ngửa trước bàn thờ vua tại Lễ Hạ Nguyên vào tháng Chạp (tháng 12 âm lịch). Cố đạo có trách nhiệm phục vụ nhân dân tế lễ trong một năm và trông coi, bảo quản báu vật vua Hàm Nghi. Thông thường mỗi năm bầu lên một cố đạo mới (cũng có trường hợp do được tín nhiệm, một người được giữ chức cố đạo trong 2 năm). Cứ đến ngày mồng 7 tháng Giêng hàng năm dân làng lại rước các báu vật chuyển giao cho cố đạo mới để lưu giữ bảo quản.
Lễ rước là nghi thức độc đáo và là nét đặc sắc nhất của lễ hội. Các thanh niên trai tráng chưa vợ được chọn lựa từ các thôn trong xã làm trai kiệu, 8 người khiêng 1 kiệu. Có 3 kiệu tham gia tại lễ rước, mỗi kiệu 12 người, 50 cờ hội và Tổ quốc, 01 băng rôn lễ hội: kiệu đi đầu rước ảnh vua Hàm Nghi, kiệu kế tiếp rước sắc Đức Đại Vương, kiệu cuối cùng rước Đức thánh mẫu và Mã Vòng Công chúa. Đoàn rước khởi hành từ nhà cố đạo cũ đi qua các đền Trầm Lâm, khu di tích thành Sơn Phòng Hàm Nghi để thắp hương cầu siêu và tiếp tục tiến về đền Cộng Đồng Hội Sở. Tại đây, cố đạo mới làm lễ khai hạ cầu cho quốc thái dân an, nước nhà an khang thịnh vượng, mưa thuận gió hòa, vụ mùa bội thu, dân làng sức khỏe, làm ăn gặp nhiều may mắn trong năm mới. Sau lễ khai hạ, đoàn rước tiếp tục rước kiệu, sắc về đặt trang trọng tại nhà cố đạo mới, còn kiệu rước ảnh vua Hàm Nghi được rước về đền thờ vua Hàm Nghi. Trong quá trình rước, hai bên lề đường nơi đoàn rước đi qua người dân bày sẵn trầu cau, rượu, bánh kẹo và thắp hương để nghênh đón, mời những người đi trong đoàn thưởng thức lộc đầu xuân.
Lễ hội rước sắc phong vua Hàm Nghi thể hiện tính tôn nghiêm, thành kính các thế hệ người dân Hương Khê nói riêng và nhân dân xứ Nghệ nói chung với người anh hùng dân tộc Hàm Nghi và đội ngũ tướng sĩ của Ngài. Trong tâm thức dân gian, khi sống họ là anh hùng hào kiệt giúp dân, cứu nước và khi thác về trời họ trở thành thần thánh, phù trợ quốc thái, dân an. Quan niệm đó thể hiện khá đậm nét trong cả phần lễ và phần hội.
     Nếu phần lễ thể hiện sự tôn nghiêm, thành kính và linh thiêng mang đậm sắc màu văn hóa tâm linh thì phần hội lại diễn ra với không khí náo nức, vui tươi, lôi cuốn nhiều thành phần tham gia, thể hiện sự giao lưu giữa các cộng đồng dân cư.
     Khu vực xung quanh khu di tích lịch sử “Đền Công Đồng - Thành Sơn Phòng - Đền Trầm Lâm” người đi trẩy hội kín cả một vùng; các phe, giáp, phường hội náo nức đua chen thi tài. Phần hội diễn ra trong ngày mồng 7 tháng Giêng (âm lịch). Trước đây, phần hội diễn ra các hoạt động như: kéo co, đánh cờ thẻ, đẩy gậy, cờ người… Hiện nay, bên cạnh trò chơi dân gian truyền thống còn có các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao như tổ chức giải bóng chuyền nam Hàm Nghi - Sơn Phòng. Mỗi người dân hân hoan vui vẻ tham dự các hoạt động vui chơi giải trí như để quên đi nỗi vất vả nhọc nhằn đời thường… Những trò chơi và hoạt động văn hóa dân gian diễn ra trong lễ hội đã trở thành một nét đẹp văn hóa của nhân dân từ bao đời nay.
1.2. Lễ hội đua thuyền
Lễ hội đua thuyền trên hồ Bình Sơn trở thành một nét đẹp văn hóa của người Hương Khê. Hoạt động đua thuyền ở Hương Khê đã có từ những năm trước cách mạng tháng Tám nhưng do chiến tranh nên mãi đến những năm sau hòa bình mới tổ chức lại. Năm 2000 khi hồ Bình Sơn được đưa vào sử dụng thì lễ hội đua thuyền được tổ chức hàng năm trên hồ Bình Sơn vào dịp nghỉ lễ Quốc khánh (2/9). Từ sáng sớm hàng trăm, hàng ngàn người dân từ các ngã đường đều quy tụ về xung quanh hồ Bình Sơn để cổ vũ cho đội tuyển của xã, thị trấn mình, đồng thời gặp mặt, thăm hỏi anh em bạn bè sau nhiều ngày không gặp. Nhiều người con xa quê cũng chọn thời điểm này để về quê xem đua thuyền gặp gỡ người thân, bạn bè. 
     Xuất phát từ nhu cầu vui chơi giải trí của cư dân vùng sông nước nhưng hoạt động đua thuyền cũng chứa đựng yếu tố tín ngưỡng tâm linh, người xưa thường tổ chức lễ hội đua thuyền với tâm niệm, làng nào giành chiến thắng trong cuộc đua thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt. Mỗi xã tham gia hai đội, đội nam và đội nữ thi đấu theo từng cặp. Thuyền đua có hình thon dài, mặt ngoài hun khói lá xông và bôi trơn để tăng độ lướt trên nước. Thuyền đua cũng được trang trí đầu rồng, đầu phượng, đầu long mã. Trước lễ, các xã ven bờ sông Ngàn Sâu sôi nổi hẳn lên với công việc soạn sửa thuyền bơi. Các điểm sinh hoạt nhà văn hóa ở thôn nào cũng đông vui nhộn nhịp, bà con trong làng tụ họp để bàn chuyện chuẩn bị đua thuyền, thăm hỏi, động viên con cháu tập luyện… Các bậc cao niên quây quần bàn luận về chiến thuật, đánh giá thuyền của các làng khác, xây dựng lối chơi nhằm đưa đội thuyền của làng mình đến giải nhất. Để thắng cuộc làng hoặc giáp phải chọn các trai tráng khỏe mạnh, thạo sông nước, luyện tập trước đó vài ngày. Mỗi thuyền đua có 20 tay chèo và một người chèo lái ở mũi thuyền gọi là chèo đốc, làm nhiệm vụ chỉ huy. Trước đây, người chỉ huy như một nhạc trưởng thể hiện các động tác theo nhịp 1:2 (cồông cồông sạp) đầy tính nghệ thuật. Bên cạnh đó là người cầm cờ và một người cầm mõ để phát lệnh khua quân. Trang phục của các đội có màu đỏ, trắng, vàng để phân biệt. Ngày nay, các đội đua thể hiện theo nhịp 1:1 chèo liên tục để chiến thắng.
2. Trò chơi dân gian
     Ở Hương Khê nói riêng, Nghệ Tĩnh nói chung, vào dịp Hội làng, thường có các trò chơi rèn luyện cơ thể, rèn luyện kỹ năng như đánh đáo, trọi cù, đánh đu, kéo co, đánh cờ người, tổ tôm điếm... Nhưng trò chơi tập trung nhất là vào dịp Lễ hội. Trò chơi là một bộ phận không thể thiếu trong Hội, là một hệ thống hành động hội.
Dưới đây là một số trò chơi quen thuộc:
Đánh đáo: Có 3 trò nổi bật là đáo tường, đáo lỗ, đáo giấy:
Đáo tường: là hình thức dùng các đồng tiền kim loại thời Nguyễn (có khi dùng cả đồng bạc thật Đông Dương) để chơi. Mỗi đội chơi phải có từ 2 người trở lên. Cách làm là dùng sức mạnh của cánh tay ném đồng tiền vào tường nhà (hoặc một vật cứng như cánh cửa, cột nhà,…) cho đồng tiền bay ra. Ai bắn được xa nhất được dùng đồng tiền của mình đi trước - tức là ném (đi hoặc búng) vào đồng tiền của người có độ xa thứ 2. Nếu ném trúng sẽ được luôn đồng tiền của người đó. Nếu không ném trúng thì người thứ 2 sẽ được ném đồng tiền của người đứng thứ 3… cho đến người cuối cùng là người có đồng tiền gần bờ tường nhất (không được đi).
Đáo giấy: dụng cụ chơi là những tờ giấy gấp lại và một con chì (do thường phải đúc bằng chì hoặc thiếc, có khi bằng đồng) có hình nón với đường kính khoảng từ 3 - 5 cm (dùng con chì này để chơi cả đáo lỗ). Cách chơi như sau: Vạch một đường trên sân dài khoảng từ 1 - 2 mét, ở giữa vạch đánh dấu một cái lỗ (tâm làm chuẩn để khi đi giấy phải tập trung vào gần lỗ nhất). Cách vạch này khoảng từ 2 - 5 mét (tùy khả năng và sự thống nhất của đội chơi mà quyết định) là mốc để người chơi đứng để đi chì lên giấy. Sau khi đã ổn định các vạch, người chơi đứng ở vạch dưới dùng những tờ giấy đã gấp ném lên vạch dài phía trên. Những tờ giấy vượt qua vạch trên là hợp lệ còn không qua coi như bị phạm luật phải ném lại. Sau khi ném giấy, ai gần lỗ nhất được đi (ném chì) trước. Nếu chì đè lên giấy là thắng - người chơi được quyền lấy luôn tờ giấy đó. Nếu chì đè lên vạch, xuống dưới vạch và nhất là đè lên lỗ là bị thua.
Đáo lỗ: Cách chơi cũng như đáo giấy nhưng thay vì giấy là những đồng tiền. Mỗi người chơi phải góp từ 1 - 3 đồng tiền (tùy thỏa thuận). Người chơi phải ném (thường gọi là đi) tất cả những đồng tiền góp lại trong một lần qua kẻ trên. Sau đó, ai có đồng tiền ném gần lỗ nhất được đi trước. Nếu đi chì ấp vào đồng tiền nào sẽ được đồng tiền đó. Nếu chì bị dưới vạch hoặc trúng lỗ sẽ bị phạm luât. Vì thế, khi ném các đồng tiền cần phải thật sự khéo léo, thông minh để không làm cho đồng tiền gần vạch và nhất là lỗ tâm quá sẽ dễ bị phạm luật khi đi chì. Trò chơi này đòi hỏi người chơi phải khéo tay.
Trọi cù ( nhiều nơi còn gọi là chọi gụ): Đồ chơi gồm quả cù và giây kéo cù. Quả cù được làm bằng loại gỗ cứng, trẻ con thường chọn cây ổi, cành bưởi…Quả cù có dạng hình trụ nửa dưới vo tròn hình trứng, nửa trên có hình chóp nón, chân cù hình trụ to bằng ngón tay cái của người lớn, cao khoảng 3 - 5 cm, mặt dưới vo tròn, trơn. Chân cù cao quá, đế vo không trơn thì cù quay chậm và dễ đổ. Dây cù được làm bằng sợi cây như vỏ cây tra, cây gai… xe thật săn, có độ nhám, dài khoảng 1 sải tay.
Cách chơi: chọn một bãi đất rộng như sân đất, đường đất. Trước lúc chọi, dùng dây cù cuốn xung quanh thân cù theo lớp kế tiếp nhau đầu cuối tay nắm thật chắc. Người thách chơi ra cù trước vừa ném vừa kéo cho cù bung ra, dây cù có tác dụng kéo cho cù xoay, theo quán tính khi cù rơi xuống đất sẽ quay tròn trên chân cù. Người đánh cũng làm tương tự nhưng mục đích là ném quả cù vào cù đối phương. Nếu cù của đối phương bị ngã và cù mình vẫn chạy thì thắng cuộc. Trò chơi này khá phổ biến ở tất cả các xã.
Chơi khăng: là trò chơi dân gian ở nông thôn, đối tượng chơi chủ yếu lứa tuổi từ 8 đến 15 tuổi. Thời gian chơi chủ yếu vào các giờ nghỉ ở trường, hoặc ở các vùng nông thôn. Khăng gồm có mạ khăng (dài 30-35 cm) và cọn khăng (dài 10 cm) làm bằng tre, gỗ tròn đường kính khoảng 0,3 cm, lỗ chơi trên mặt sân dài 10 cm, sâu 5 cm hình bầu dục. Số lượng người chơi không hạn chế, thường từ 3 người trở lên. Địa điểm chơi là 1 khoảng đất bằng, bóng mát như sân trường, nhà hội quán, kho HTX... Cách chơi gồm 3 phần: Hất, mắm, gà.
Tính kết quả (thành tích của người chơi chỉ được tính trong phần Gà: Trường hợp gà 1: cách tính dùng mạ khăng đo từ lỗ điểm rơi (đơn vị tính mạ khăng); Trường  hợp gà 2: dùng cọn khăng đo từ lỗ đến điểm rơi ( đơn vị tính cọn khăng). Điểm được cộng tổng, nếu không vi phạm người chơi tiếp tục được chơi lượt 2, kết thúc ai được nhiều điểm sẽ thắng.
Đánh chài: Đây là trò chơi phổ biến dành cho bạn nữ lứa tuổi từ 7 - 15 ở Hương Khê. Dụng cụ để chơi là một nắm đũa hoặc một nắm que dài khoảng 30 cm (gọi là chài) và một quả cà hoặc quả bóng nhỏ, tròn (6gọi là hòn chài).
Luật chơi: chia làm hai đội, mỗi đội có từ 1-3 người chơi. Hai đội oẳn tù tì để xác định đội chơi trước.
Cách chơi: người chơi tung hòn chài lên đồng thời dùng tay để quay chài, rải chài ra, sau đó tiếp tục tung hòn chài lên và bắt đầu nhặt mỗi lần 1 que, rồi đến nhặt một lần 2 que, 3 que cho đến nhặt một lần 10 que.
Kéo co: trò chơi kéo co khá phổ biến ở các xã, được tổ chức vào dịp đầu xuân, lễ hội. Đây là trò chơi đòi hỏi sức mạnh tập thể và kỷ thuật của những người trong đội. Dụng cụ gồm một dây thừng dài. Luật chơi: những người tham gia trò chơi chia làm hai đội, mỗi đội đứng về một bên, ở giữa dây thừng được buộc một dây đỏ để làm mốc. Hai đội tay bám chặt vào dây thừng, khi có hiệu lệnh thì những người kéo dùng hết sức lực của mình để kéo dây sao cho dây tuột về phía bên mình (qua điểm đích) thì đội đó thắng cuộc. 
Đánh cờ người: đây là trò chơi trí tuệ mà nhiều người say mê. Cờ tướng thông thường chơi trên bàn cờ gỗ, nhưng những dịp hội hè, người ta tổ chức chơi cờ thẻ (mỗi quân là một cái thẻ gỗ ghi tên quân cờ, sơn son) hoặc cờ người (mỗi quân cờ do một người đóng, cầm thẻ tên quân cờ), trên bãi rộng để nhiều người cùng xem.
Việc tổ chức đánh cờ người rất công phu. Trước tiên phải chọn đủ 32 “quân cờ” gồm 16 nam, 16 nữ, là nam thanh nữ tú. Mỗi bên 16 người, có một “Tướng” và “15 quân” (sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt). Tướng phải có tướng mạo oai phong. Bên nữ đóng quân trắng, mặc áo dài trắng (hoặc hồng), quần lụa trắng, tướng thường mặc áo đỏ (hoặc vàng). Bên nam đóng quân đen, mặc áo dài the đen, quần trắng, tướng mặc áo đỏ (hoặc xanh)... Mỗi người cầm cái thẻ tên quân cờ mà mình đóng.
Bàn cờ kẻ sẵn trên sân đình, đền, chùa, ở mỗi vị trí quân cờ, đặt một cái ghế. Phía trước bàn cờ đặt một cái bàn gọi là “bàn khảo trịch” và cái trống lớn. Người “Tổng cờ” cầm dùi trống làm lệnh cho hai đấu thủ đến trước bàn khảo trịch bắt thăm xem ai được đi trước. Hai Tướng dẫn quân ra, đi vòng bàn cờ mỗi bên rồi ngồi vào vị trí nghiêm túc.
Cuộc đấu bắt đầu. Đi nước cờ nào thì đấu thủ truyền lệnh cho người thừa sai (hay phụ cờ) cầm cờ lệnh ra ngoài bãi điều động quân đi... Khi có cờ lệnh “chặt quân”, “chém tướng”. Quân nào đó bị “chặt” (trên bàn cờ nhỏ gọi là “ăn”) thì theo lệnh cờ, quân đó rời ghế đi ra...
Cuộc đấu tiếp tục, có khi kéo dài suốt buổi, cho đến lúc một bên bị “chiếu tướng”, thua cuộc, trống lệnh và tiếng reo hò nổi lên.
Ngày nay, trò chơi này ít được tổ chức, chỉ còn một số xã như: Phú Gia, Hương Trạch, Lộc Yên... vẫn còn được duy trì.
        Đánh đu: Trò chơi này phổ biến ở các xã Phú Gia, Hương Vĩnh, Hương Lâm, thường được tổ chức trong các lễ hội đầu xuân. Đây là trò chơi thuần túy, vui vẻ, ít khi thi thố nhưng lại khá hấp dẫn với nam thanh, nữ tú. Đu được dựng trên một bãi đất trống trước đình, đền, chùa là nơi tụ họp của nhân dân trong làng, xã. Đu thường làm bằng tre tươi gồm 6 cột trồng, đỉnh giòng xuống hai tay cầm, dưới cùng có bàn đạp để dẫm chân.
       Cách chơi: người ta thường chơi đu đôi, một nam một nữ quay mặt vào nhau và cùng nhau nhún đu. Trò chơi này đòi hỏi phải dùng sức mạnh của hai bàn chân và cơ thể để nhún đu. Cắp đôi nào phối hợp ăn ý, nhún nhịp nhành thì đu xít càng cao, được nhiều người tán thưởng. Sau mỗi cuộc chơi, một số cặp đã nên vợ nên chồng.
1.  Truyện kể dân gian
Truyện kể dân gian là thể loại văn xuôi tự sự được sáng tác và lưu truyền (kể) trong dân gian, gồm các thể loại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười... Cho đến nay, việc sưu tầm tập hợp các sáng tác dân gian ở Hương Khê còn nhiều hạn chế. Hương Khê cũng như Hương Sơn, Đức Thọ...có nhiều thơ ca, hò vè, truyện kể, ca dao, tục ngữ... được sáng tác từ thời xa xưa. Và nhiều sáng tác trong số đó đã được sưu tầm, trong các công trình của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian xứ Nghệ như Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao, Thái Kim Đỉnh... Tuy nhiên trong kho tàng chung đó, chúng ta chưa phân biệt được đâu là những sáng tác dân gian có nguồn gốc từ Hương Khê.
Người Hương Khê có một loạt truyện kể mang tính dân gian nói về xứ sở của mình. Từ những câu chuyện về miếu Trăm năm, đền Trại Trụ, Bách Linh Đàm... đến chuyện vua Hàm Nghi,  các tướng lĩnh của Phan Đình Phùng (ông Cao Thắng, ông Hầu Năm...), những chuyện về hiện tượng thiên nhiên như Vũ Môn cá chép hóa rồng, chuyện về các địa danh “Khe Tiền”, “Giếng vàng”... đã góp phần tạo nên đặc trưng riêng của mảnh đất Hương Khê. Có những câu chuyện có sẵn trong lịch sử nhưng cũng có những truyện vừa mới diễn ra trong thời kỳ chống Pháp, Mỹ. Sau đây, xin được trích dẫn một số câu chuyện đã được sưu tầm, biên soạn trong cuốn sách “Hương Khê văn hóa - danh thắng” của tác giả Nguyễn Bá Thành.
Vũ Môn Cá chép hóa rồng[10]
Câu chuyện cá chép hóa rồng không biết có từ thời nào, nhưng sách Đại Nam nhất thống chí đã ghi lại là “tương truyền hàng năm, cứ đến ngày Tám tháng Tư, cá chép vượt suối này, và con nào vượt được thì hóa rồng. Phường chài thường bảo nhau mấy ngày trước không buả chài lưới. Đúng ngày ấy thì chỗ này mây mù dày đặc, không ai dám đến gần”. Theo Đào Duy Anh thì ở Trung Quốc cũng có câu chuyện nói về một khúc nuí có tên là Vũ Môn ở miền thượng du sông Trường Giang (Tứ Xuyên), dưới chân núi có vực sâu, đến mùa nước lớn cá đua nhau đến đó nhảy thi, con nào nhảy được thì hóa thành rồng. Điều khác biệt ở đây là, câu chuyện Hương Khê nói rõ vào ngày tháng cá vượt thác, và “đặc điểm mây mù dày đặc”.
Điều quan trọng là huyền thoại cá chép hóa rồng gắn với điều kiện thời tiết, thiên nhiên và do đó gắn với đời sống người dân nơi đây. Nêú vào ngày đó trời mưa, nước thác về nhiều thì cá vượt thác và hóa rồng được, đồng nghĩa với mưa thuận gió hòa, được muà năm đó. Nếu không có mưa, cá không vượt thác được, có nghĩa là một năm đại hạn, khốn khó, phải phòng bị:
Mồng tám tháng tư có mưa
Cha con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng tám tháng tư không mưa
Cha con sắm sửa sọt sưa đi Lào
(Ca dao)
Nói đến vùng đất địa linh trước hết là nói đến một nơi có địa hình sông núi tôn nghiêm, yếu tố phong thủy đặc thù, gắn với những huyền thoại, những cổ tích dân gian và là nơi hiểm yếu đã để lại nhiều dấu ấn lịch sử. Vùng đất Hương Khê xa xưa vốn có một phần thuộc huyện Thâm Nguyên cũ mà Ngũ man phong thổ ký đã nói đến: Huyện Thâm Nguyên, dân cư 36 bạn (thổ âm gọi thôn là bạn), rộng đất và khe động xen lẫn nhau, ruộng nhiều người ít, không cày cấy hết. Đường đi bốn phía: một đường về phía Đông Bắc đi một ngày thì đến Dịch Động... trông sang núi Giăng Màn, thấy có một xứ vách đá tường gạch và nhà ngói, màu đỏ màu trắng xen nhau, tục gọi là “Thần phá đảng”, ai đi qua đấy cũng phải kính sợ không dám trông lên” (Đại nam nhất thống chí, T.II, tr.138). Ngày nay chúng ta không tìm thấy cái kiến trúc cổ “vách đá tường gạch” trên núi Giăng Màn, nhưng nếu đi lên thác Vũ Môn, đi vào khu vực “Trìm, Trẹo” thì quả nhiên là rất “kính sợ” vì vẻ hoang dã, tôn nghiêm và hoành tráng của toàn bộ công trình thiên tạo ấy. Những vách đá, những vòm cây cao vời vợi hiện ra trong âm thanh trầm hùng của những cột nước từ trên trời cao dội xuống càng làm cho núi rừng tăng thêm sức mạnh chế ngự. Địa hình, địa vật núi sông, nguồn mạch của Hương Khê là rất trữ tình nhưng cũng rất hùng vĩ.
Gần đây, các nhà địa chất học đã phát hiện ra núi Trường Sơn (Giăng Màn) chính là một nhánh rễ của dãy Hymalaya - mái nhà thế giới. 
Thiên Muội ở đền Trầm Lâm[11]
Trong số các đền miếu thờ ở Hương Khê thì miếu Trăm Năm được coi là tối linh. Miếu Trăm Năm hay còn gọi là miếu Trầm Lâm được xây dựng để thờ Đức thánh mẫu Trầm Lâm kiêm lục quốc. Người địa phương cho biết đã có 6 đời vua ban sắc, từ vua Tư Đức đến vua Khải Định. Đại Nam nhất thống chí gọi là “Đầm Bách niên”, “Đồng khánh địa dư” thì giải thích tên chữ của đầm là “Bách Linh Đàm”. Trên bờ có miếu thờ thần tục gọi là miếu Trầm Lâm, “Bốn mặt là núi đất, trong đó có cái ao chừng nửa mẫu, sắc nước như chàm, sâu không lường được, mưa lũ không đầy hơn, hạn hán không vơi cạn, trên đầm có miếu thờ thần Bách Niên”[12].
Roland Bulateau, một học giả người Pháp viết về đền này như sau: “Mỗi khi hạn hán đe dọa, dân trong vùng đưa lễ vật đến cúng đền thì khắc có mưa to. Cảnh đền này khá đẹp. Tứ phía có nhiều cau và các loại cây cối khác rất râm mát. Trước đền có một cái hồ không rộng lắm nhưng rất sâu. Người ta kể rằng cứ đến ngày cúng tế thì bát đĩa nổi lê mặt hồ. Tế lễ xong, bát đĩa lại chìm xuống. Người ta còn kể rằng có một người Âu muốn khám phá chiều sâu cái hồ, đã lặn xuống nhưng không nhìn thấy đáy, sau đó ít lâu ông ta bị ốm rồi chết”. (La Province de Hatinh). Về vị thần được thờ ở miếu Trăm Năm, có tài liệu nói rằng vị thần ấy đời Lê triều được phong là “Bản xứ Thánh Mẫu Trầm Lâm kiêm lục quốc, thượng triều kim khuyết, hạ thấu long cung, thanh y anh linh hiển ứng diệu ngọc thánh vương thiên thần”, trong miếu lại có thờ một vị hiệu là Mã Vòng công chúa và Thập nhị Thiên tiên nương.
Trước thời chiến tranh chống Mỹ, khi miếu còn nguyên trạng, bốn bề cây cổ thụ xanh týõi, không khí trong miếu mát lạnh, hồ nýớc trầm mặc uy nghiêm. Trong miếu còn có câu liễn đối khắc của quan đại thần thái tử Thiếu bảo Nguyễn Chính cúng rằng: “Công phù đại địa Trung hưng thánh, danh trấn nam thiên thượng đẳng thần” và ba chữ hoành phi: Nghiễm thiên muội (Em gái nghiêm minh của nhà trời). Trong chiến tranh phá hoại, Phú Gia là địa điểm oanh tạc rất dữ dội của máy bay Mỹ. Khu vực miếu cũng bị ảnh hưởng của bom đạn. Các trận địa pháo phòng không ở xung quanh khu vực miếu đã trở thành những bãi chiến trường. Cho đến những năm 1996, khu vưc miếu Trăm Năm vẫn còn hoang vu.
Gần đây giếng được be bờ bằng gạch và xi măng, đồng thời một ngôi nhà bái đường bằng gỗ lợp ngói đã được dựng lên thay thế cho túp lều tranh. Giếng Trăm Năm vẫn xanh trong như trước và những huyền thoại về hồ vẫn được nhân dân địa phương truyền tụng. Sách Lễ Ký nhà Minh có ghi rằng, giếng Trăm Năm là một trong sáu ngọn nước thiêng của An Nam, năm Hồng Vũ thứ ba (1370) Vua Minh Thái tổ đã sai sứ sang tế ở chỗ này (Theo Trần Tấn Hành).
Voi vàng trong ngôi nhà lá[13]
Tinh thần yêu nước và cách mạng của nhân dân Hương Khê thể hiện ở tấm lòng của mỗi người dân đối với vua Hàm Nghi. Nhân dân đã phò vua đánh giặc, đã bán ruộng bán nương để nuôi quân, đã xông lên trong lửa đạn để đánh nhau với quân giặc, khi nhà vua đã bị địch bắt, nhân dân vẫn thờ phụng, vẫn nâng niu các kỷ vật được nhà vua ban tặng. Ghi nhận sư đóng góp của nhân dân Hương Khê trong sư nghiệp Cần Vương, vua Hàm Nghi đã ban tặng cho nhân dân địa phương nhiều báu vật, kỷ vật, sắc phong...những báu vật đó vẫn được nhân dân Phú Gia nâng niu, cất giữ trên 120 năm nay, trong những mái nhà tranh, tre dột nát, dưới mưa bom bão đạn, lũ lụt, đói nghèo. Năm sáu đời người dân Phú Gia, Hương Khê đã chuyền tay nhau giữ gìn các báu vật vua ban. Có những con voi bằng vàng thật đã được cất dấu, ấp iu trong túp nhà tranh, cho dù hạn hán, lụt bão, đói nghèo, bom đạn đã hoành hành ở xứ này một cách khốc liệt. Hãy tưởng tượng có những con voi bằng vàng mà vua Hàm Nghi tặng dân Phú Gia vẫn nằm yên ổn trong nhà dân khi nạn đói năm 1945 ở Hương Khê có 2.500 người bị chết (trên tổng số gần 50.000 người). Trong đó xứ Làng Truông chết 142 người, xứ Thổ Hoàng chết 167 người, xứ Tân Hội (Hương Trạch) chết 74 người, Tri Bản chết 71 người. Có nhiều gia đình chết không còn một ai. Nhiều xóm làng xơ xác, tiêu điều, dân bỏ làng đi vào rừng đào củ mài, củ nâu, nhiều người sang Lào, sang Thái Lan, ra Bắc, vào Nam tha hương cầu thực. Hãy tưởng tượng bản thân người giữ vàng đó đang đào củ mài, củ chuối, anh em trong họ tộc phải tha phương cầu thực. Hội đồng họ tộc và thôn xã đã tìm được những con người thực sự có tấm lòng vàng. Nhân dân biết và nhân dân gìn giữ, đó là tấm lòng của người dân Hương Khê. Hãy nghe cụ Trần Văn Nhung kể lại những đợt bom tấn của Mỹ đã ném xuống khu vườn nhà của cụ trong những năm chiến tranh 1965-1972 như thế nào. Nhiều học sinh đi học trường cấp III Hương Khê, trên đường từ hạ huyện qua Hương Long và Hương Phú để đến Hương Vĩnh thời ấy vẫn còn nhớ những hố bom sâu hoắm trên đường, ngay trước cửa nhà cụ Trần Văn Nhung bây giờ. Theo lời cụ, hình như có một phép màu nào đó đã làm cho bom Mỹ đi lệch và không bao giờ rơi đúng được vào căn nhà có gian thờ vua Hàm Nghi. Phép màu đó phải chăng chính là tấm lòng cao quý của nhân dân đối với quê hương đất nước, luôn luôn trân trọng, bảo tồn, lưu giữ những gì linh thiêng nhất mà cha ông truyền lại?
Sự tích chùa Diên Quang[14]
Về cuối đời nhà Trần, vua Duệ Tôn (1373), lấy một người con gái ở làng Tri Bản, xã Thổ Hoàng, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, tên là Trần Thị Ngọc Hào (con ông Trần Công Thiệu) tài sắc đoan trang. Vua phong làm Bạch Ngọc Hoàng hậu, sau sinh hạ được bà Công chúa Huy Châu tên là Trần Thị Ngọc Hiên. Đương thuở ấy, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh bên Tàu muốn nhân cơ hội ấy để lấy nước Nam, bèn mượn tiếng giúp nhà Trần đánh nhà Hồ mà kéo quân sang chiếm lấy nước ta. Lúc ấy bà Hoàng hậu cùng cung nhân và tôi tớ gồm 573 người, giả cách ăn mặc theo lối thầy tu, bỏ Kinh chạy về quê hương, đi mất 50 ngày mới về tới địa phận phủ Đức Thọ, huyện Hương Sơn, Hương Khê bây giờ. Cung nhân và tôi tớ chạy tản mất mát nhiều, chỉ còn lại 172 người. Thấy đất xứ ấy phần nhiều còn là rừng rậm bỏ hoang, chưa có dân cư, chưa thành làng xóm, vậy nên bà đã cùng cung nhân tôi tớ ở ẩn lại dọc dãy núi Cốc và núi Trà (về địa phận Đức Thọ), chiêu mộ nhân dân được hơn 3.000 người sáng lập trang trại được nhiều làng xóm (trên từ Lâm Thao, Hòa Duyệt thuộc huyện Hương Khê, Thượng - Hạ - Bồng thuộc huyện Hương Sơn giữa đến Lạng Quang, Du Đồng và Đồng Công thuộc phủ Đức Thọ, dưới đến Thường Nga, Lai Thạch thuộc huyện Can Lộc bây giờ) và khai khẩn ruộng đất được 3.965 mẫu. Thời ấy tuy quân nhà Minh lập đồn ải khắp cả mọi nơi để canh giữ nhưng vì chỗ bà ở cách trở rừng núi nên quân nhà Minh không biết tới. Đến lúc có quan đại tướng tên là Bùi Bị phụng mệnh ông Lê Lợi (tức vua Thái Tổ nhà Hậu Lê, trốn tránh ở Ai Lao để mưu khởi nghĩa) về đánh giặc Minh ở vùng Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ. Khi đánh dẹp được giặc Minh ở vùng ấy rồi, ông Bùi Bị mới tiến vào rừng núi tình cờ tìm thấy bà Hoàng hậu, Công chúa và dinh cơ trang trại của bà. Ông Bùi Bị tới, bà kể tình trạng đầu đuôi cho ông biết. Lúc ông Bùi Bị trở về Ai Lao rước vua Lê và tâu chuyện bà ấy cho vua nghe.
Vua Lê mới đem quân về đóng ở thành Lục Niên trên núi Thiên Nhẫn (núi này ở giáp với tỉnh Nghê An và Hà Tĩnh), ông Bùi Bị mới dẫn bà Hoàng hậu và Công chúa Huy Chân ra yết kiến vua Lê. Vua thấy công chúa có sắc đẹp, lấy làm cung phi và lập điện Phượng Hoàng ở làng Kính Kỵ cho bà Hoàng hậu ở. Bà Hoàng hậu xin hiến những tiền, lúa đã tích trữ để làm lương thưc cho quân sĩ và những trang trại bà lập ra cho vua Lê. Sau lúc bình Ngô rồi, bà xin phép dựng chùa Diên Quang tức chùa ở Am Sơn thuộc xã Phụng Công và bà đã tu hành ở đó. Sau công chúa Huy Chân lấy vua chỉ sinh hạ được một công chúa Trang Từ, hiệu là Ngọc Châu, rồi cùng xin về ở chùa tu hành với mẹ. Vua ghi nhớ công đức của ông tướng Bùi Bị mới phong làm Mâu Quận công, Bảo Chính công thần và gả công chúa Trang Từ cho con trai ông Bùi Bị là Bùi Ban. Sau khi Bùi Ban làm tướng đi đánh giặc nhà Minh lập được nhiều công trạng, được phong Minh Quận công, rồi ông đi đánh giặc Chiêm Thành bị thương nặng về đến xứ Đồng Bụt thuộc huyện Hương Khê thì mất, hiện có đền thờ ở đó. Công chúa Trang Từ mới nuôi một người con trai tên là Bùi Văn Khánh và một người con gái tên là Bùi Thị Hoàng để ở lại giữ trại của ông Bùi Ban. Hết tang chồng rồi bà lại lấy ông Khôi Quận công tên là  Trần Hồng, người ở làng Đông Lạc. Hai ông bà lấy nhau được năm năm rồi bà công chúa xin về ở tu hành cùng mẹ ở chùa Am. Ba người tu hành ở đấy hơn 20 năm. Bà Bạch Ngọc Hoàng hậu mất ngày 22 tháng 6 vào khoảng niên hiệu Hồng Đức, bà Công chúa Huy Chân mất ngày 23 tháng 3 cũng về niên hiệu Hồng Đức (1470), còn Công chúa Trang Từ mất ngày mồng 5 tháng Chạp khoảng niên hiệu Cảnh Hưng (1478).
Trước kia có hai chiếc bia đá lập ở hai chùa kể trên và có nhiều sắc chế của vua Lê để ghi chép những sự tích lập những đền chùa, lập các chợ, các làng và công đức của bà Thánh Mẫu (Bạch Ngọc Hoàng hậu). Nhưng sau đến đời vua Lê Trang Tôn, có ông Khôi Quận công Trần Hồng (người chồng sau của công chúa Trang Từ) cậy quyền thế, muốn chiếm đoạt ruộng đất. Đến đời vua Hiển Tôn (1498) người con nuôi của bà Công chúa Trang Từ là Quận công Bùi Văn Khánh mới đem việc chiếm đoạt ấy tâu đến tai vua. Vua Hiển Tôn mới biết và bắt chém gia nhân ông Quận Hồng, còn ruộng đất thì trả lại các làng, trước có 3.965 mẫu nhưng sau vì trải nhiều đời biến loạn, tôi tớ và nhân dân nhiều người chiếm cứ lấy ruộng đất làm của riêng mình nên chỉ còn 1.996 mẫu giao trả cho các làng, thứ làm ruộng đất của các đền, thứ làm ruộng đất công giao cho những người làng giữ lăng, giữ miếu hoặc quân cấp đồng dân.
2. Thơ ca dân gian[15]
Theo dư địa chí của Nguyễn Trãi từ thế kỷ XV và Khân định Việt sử thông giám cương mục (thế kỷ XIX) thì xứ Nghệ An (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh) từ thời Lý trở về trước được gọi là Trại. Nghệ Tĩnh được coi là phên dậu của quốc gia Đại Việt ở phương Nam (từ dùng của Nguyễn Trãi). Phên dậu là xứ bên lề, xứ ngoại vi xa trung tâm. Nghệ Tĩnh lại là phên dậu thứ 3. Nghệ Tĩnh là phên dậu của quốc gia Đại Việt còn Hương Khê lại là phên dậu của Nghệ Tĩnh. Nghệ Tĩnh là xứ trại của quốc gia, Hương Khê là xứ trại của Nghệ Tĩnh. Vậy thì Hương Khê là phên dậu của phên dậu, trại của trại. Tính chất trại và tính chất phên dậu về phương diện địa lý thời cổ ấy đã phần nào chi phối các yếu tố cấu thành văn hóa bản xứ Hương Khê.
Ngày nay, ở Hương Khê, danh từ trại vẫn còn khá phổ biến. Có ít nhất là trên một trăm địa danh có từ trại: Trại Trụ, Trại Cuồi, Trại Trá, Trại Đưng, Trại Công, Trại Động, Trại Tuần, Trại Nại...là những cái tên rất quen thuộc đối với người Hương Khê. Khi một người con gái khác xứ về làm dâu ở Hương Khê thì sẽ bị chất vấn “về mần chi” (sao lại về, về làm gì).
Em về Truông Bát mần chi
Ruộng nương thì ít, rú ri thì nhiều
Đau lòng hơn, có những người phụ nữ đã thề “cạch” không bao giờ gả con gái về Hương Khê hay lấy người Hương Khê. Ngay cả khi có ế, có thừa thì cũng không nên:
Thừa ấy thì gác ngược tra
Lấy ngài Chu Lễ tội ba mươi đời
“Ngài Chu Lễ” ở đây chính là người Hương Khê nói chung. Tội ở đây không phải là tội ác mà là tội nghiệp, nghĩa là khổ cực mãi mãi (30 đời vẫn khổ). Truông Bát là một địa danh của Hương Khê, địa phận giáp với huyện Thạch Hà. Từ thành phố Hà Tĩnh đi lên, ta bắt gặp ngay những truông, những động, những dãy núi nhấp nhô trùng điệp, cây cối bạt ngàn, suối khe thăm thẳm với những tên riêng vừa chỉ địa danh, vừa chỉ địa hình, những hói, những hác, những vũng, những vực, đập, lèn...
Giữa một vùng rú ri như thế, người Hương Khê thuở xưa sống chủ yếu bằng săn bắt, hái lượm, sau đó là khai khẩn ruộng nương, khai thác lâm sản. Sản phẩm chủ yếu của các trại là sắn khoai, chuối, mít...Thức ăn chính không phải là lúa gạo mà là rau quả
Em về xóm Trại mần chi
Chuối xeeng (xanh) mít loọc (luộc) xà rì (xài) cả ngay (ngày)
Xóm Trại trong câu ca dao trên đây thuộc xóm Bình Thái, xã Hương Bình ngày nay. Ngoài ra, Hương Khê còn có nhiều xóm Trại khác. Không chỉ xóm Trại mà ngay cả những làng giàu hay xứ giàu của Hương Khê thì cuộc sống cũng rất vất vả. Phú Gia là một làng nổi tiếng của Hương Khê. Đây chính là nơi vua Hàm Nghi chọn làm điểm xây dựng căn cứ chống Pháp. Phú Gia là nhà giàu theo nghĩa từ nguyên, thực tế là người Phú Gia cũng khấm khá hơn các nơi khác trong huyện, nhưng ngày xưa cũng nổi tiếng vất vả:
Phú Gia nổi tiếng long đong
Ngày ba tháng tám chờ chồng đốt than
Công việc đốt than, lấy củi là công việc nặng nhọc, gian khổ nhưng là công việc phổ biến của người Hương Khê xưa. Than củi để đun, than củi để sưởi ấm những ngày đông giá rét, than củi để phây hơ cho các bà, các mẹ “nằm bếp” (ở cữ). Than củi để “hầm” (hong khô) các loại thổ sản như cau, sắn, khoai... Cau khô, sắn khô, khoai khô là những sản phẩm dự trữ rất quan trọng của người dân Hương Khê thuở xưa. Đốt than trở thành một nghề kiếm sống phổ biến của người dân nơi đây.
Ở Hương Khê “đi rú” là một công việc gần như quanh năm: vào rừng lấy củi, vào rừng đào củ, hái măng, hái nấm, hái rau... nhưng cũng có khi vào rừng đi lấy ong, lấy trầm, chặt gỗ là những công việc dài ngày khó nhọc hơn. Người Hương Khê thường đi bè, chở gỗ, nứa dọc theo sông Ngàn Sâu về xuôi bán lâm thổ sản cho người các huyện đồng bằng. Người Hương Khê dùng từ “xuôi bè” hay “chạy bè” để chỉ các cuộc đi rừng dài ngày sau đó về xuôi như thế.
Một trong những công việc nặng nhọc nhất của nghề đi rừng có lẽ là nghề sơn tràng, nghề khai thác gỗ. Thợ sơn tràng ngoài sức khỏe và kỹ thuật ra còn cần đến kinh nghiệm, sự từng trải. Để tránh những rủi ro trong quá trình khai thác, vận chuyển gỗ, người thợ sơn tràng thường cầu mong sự phù hộ của các lực lượng siêu nhiên, trước hết là “ma rú”. Ma rú là những hồn ma của “kẻ trèo ong đứt chạc (dây)”, người đi rú lạc đàng (đường), kẻ hùm tha khái (hổ) bắt, người tử trận binh đao... Thợ sơn tràng thường cúng ma rú trước khi ăn cơm:
Ở trong ma ra, ở ngoài ma vô
Ở trước ma lên, ở trên ma xuống
Đầu bại lại nác, đầu thác cuối khe
Náu lặng mà nghe, nghe con khuyến mời
Vừa mời vừa thỉnh, nhất động nhất tĩnh
...
Mời ông tra bà chúa, đỏ lửa thì lại
Mời ông bà mụ trại
Mời lại ăn cơm.
(Nguyễn Văn Thơi sưu tầm)
Hương Khê là xứ sở có nhiều thú rừng, thú hoang. Từ xa xưa, người Hương Khê đã biết sử dụng nhiều loại bẫy để săn bắt thú rừng như bẫy treo, bẫy sập, bẫy đò ho (bẫy đâm), bẫy hầm chông... Ngoài bẫy ra, người ta còn đi săn. Lợn rừng, hươu, hoẵng, chồn... là những mồi săn chính của người Hương Khê. Người Hương Khê đi săn có hội, có phường, có khi gọi đi săn là “đi mái”, “đi đòi”, “nậu”, “nậu đòi”. Người đi săn thường chọn những ngày đẹp trời, vào những cánh rừng không rộng lắm, bủa lưới và xua “chó đòi” vào đánh hơi rồi lần theo vết tích của thú hoang. Tiếng chó “đánh”, tiếng người hò la làm cho thú hoang hoảng sợ, chạy ra khỏi nơi trú ẩn, lao thục mạng vào những nơi đã chăng lưới sẵn. Khi săn được thú, người ta chia phần cho tất cả những kẻ đã tham gia, kể cả những người đi rừng gặp cuộc săn. Thành ngữ “đọc đàng mang chạy” có lẽ là một thành ngữ xuất hiện ở một vùng Nghệ Tĩnh như ở Hương Khê. Thành ngữ đó sau này được phiên ra là “vạch đường cho hươu chạy”. “Mang” chính là từ địa phương chỉ con hoẵng. Ở Hương Khê còn có một thành ngữ khác để chỉ tình huống bất cập, nghịch lý giữa trước và sau là “chó chạy trước mang”. Thành ngữ chó chạy trước mang là từ ngữ của người đi săn để chỉ những con “chó đòi” quá hăng hái mà không tinh, không sọi, không biết phương hướng và nhanh nhảu không phải cách. Thành ngữ “đập bụi cho người ta ăn chồn” là chỉ sự đối đãi, phân chia không công bằng. Người có công thì không được hưởng, kẻ được hưởng thì không có công.
Hương Khê trước những năm 50 của thế kỷ XX trở về trước là xứ sở của hổ beo, thú dữ. Rất nhiều câu ca hiện nay còn ghi lại những địa danh nhiều ma lắm hổ. “Ma đồng vại, khái đồng Nghèn” (Nam Trạch, Hương Bình); “Khái động Dè, chè Phúc Ấm” (Hương Long); “Ma trại nại, khái rú Thờ” (Lộc Yên); “lắm ma thì ở Trại Nại, lắm khái thì ở Trại Tuần” (Lộc Yên, Hương Vĩnh). Hương Khê thế kỷ XIX được coi là xứ lam chướng, nước độc. “Thịt tru (trâu) bạc, nác (nước) La Khê” là câu phương ngữ nói về nước độc ở vùng Khe Ác. Người Hương Khê xưa sống cuộc sống đơn sơ, không cầu kỳ, không tham vọng, chỉ mong những điều giản dị nhất, bình thường nhất:
Sống cơm cu nước chè
Chết cây tre đòn rồng
Cơm cu là cơm gạo lúa cu, cơm gạo lúa cu và nước chè xanh là những thức ăn, thức uống cơ bản nhất, nhưng không phải bao giờ người Hương Khê cũng có sẵn. Ngay cả những vùng Chi Nại, Xuân Lũng là những vùng lâu đời nhất, văn hiến nhất của Hương Khê thì thời trước Cách mạng tháng Tám, nhân dân vẫn rất lam lũ, tằn tiện. Nhưng trong cái khó khăn, lam lũ ấy, hình ảnh người con gái đất Hương Khê vẫn hiện lên rất chịu khó, chịu thương:
Con trai Chi Nại gieo neo
Con gái Chi Nại dậm đèo meo nuôi chồng
Đi dậm đi xúc cá là một công việc kiếm rau canh tần tảo của nhiều thế hệ phụ nữ. Nhưng dậm cá đèo meo, một loại cá trơn, cá bống nhỏ ở suối đá để về nuôi chồng thì đó là một việc làm có lẽ là đặc thù của người phụ nữ Hương Khê.
Để kiếm sống, ngoài những công việc như đốt than, chạy bè, đi săn, đánh bắt cá, người Hương Khê ngày xưa còn có một hoạt động tiêu biểu nữa, gọi là “đi Lào”. Đi Lào là con đường kiếm sống bất đắc dĩ của người dân Hương Khê xưa. Đa số các xã của Hương Khê có địa giới giáp với nước Lào. Chúc A, Hương Vĩnh, Phú Gia, Hương Long, Hòa Hải đều là những địa phương giáp giới đất Lào. Thưở xưa, người Hương Khê đi sang Lào còn quen thuộc hơn xuôi thị xã hoặc ra Vinh. Rất nhiều gia đình có người đi Lào. Có khi trong nhà có có 3, 4 người cùng đi. Đi Lào cũng đơn giản, nhẹ nhàng như “đi rú”, nhưng dài ngày hơn, gian khổ hơn, việc đi Lào phụ thuộc vào thời tiết, mùa màng:
Mồng tám tháng tư có mưa
Cha con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng tám tháng tư không mưa
Cha con sắm sửa sọt sưa đi Lào
Mồng tám tháng tư âm lịch là ngày Phật đản. Ở Hương Khê, ngày đó là ngày “cá vượt Vũ Môn”, cá chép hóa rồng. Nếu vào ngày đó mà chưa có mưa thì có nghĩa là báo hiệu một vụ hè đại hạn, mất mùa. Đi Lào không phải là công việc dề dàng mà đầy chông gai, ghềnh thác hiểu theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Nhiều người bỏ xác trên rừng Lào thăm thẳm. Đây là phương cách cuối cùng để cứu  đói cho gia đình và bản thân. “Bài ca ði Lào” của ngýời Hýõng Khê ðã thể hiện rất rõ điều đó. Bài ca mang dáng dấp của một bài hát dặm nhằm nói lên nỗi cực nhọc của những chuyến đi vì quê hương quá kiệt quệ, hy vọng sang Lào sẽ có lúa, ngô:
Ba tháng ròng mùa hạ
Trời đại hạn không mưa
Thấy khoai ló môn nưa
Đều bạc đồng đi cả
Đêm nằm bắt tay qua dạ
Nghĩ đáo cực vô phương
Nghe đồn đại trên mường
Họ được mùa lắm sạu[16]...
(Trần Văn Quý sưu tầm)

Bài ca đi Lào mô tả cảnh “chiếu đất màn trời” trèo đèo lội suối, vượt Trường Sơn, vượt núi Giăng Màn trong tiếng chim kêu vượn hót, gồng gánh nặng vai của những kẻ đi cầu thực. Dẫu biết rằng đất Lào man di, mọi rợ, ngôn ngữ bất đồng nhưng vẫn hy vọng có thể đổi chác, mua bán, tìm kiếm ngô lúa khoai sắn
Giừ gắng sức một đoạn
Thì đến được Rào Mòi
Ba mươi sáu tắt hẳn hoi
Ta nhớ từng tên tuổi
Nước Xăn Mòi đã tới
Thì đến bạn (bản) Mà Ka
Nghe tiếng Lào vọng ra
Người nói cười lố xố
Đất man di moi rợ
Tiếng ngôn ngữ bất đồng
Ta nỏ biết chi không,
“Bọ mi u mừng tắc bét”
(Trần Văn Quý sưu tầm)
Hương Khê cũng là một địa phương có nhiều bài hát ví rất hay. Hát ví của Hương Khê gắn với những biểu tượng núi sông, sản vật địa phương. Có những câu hát rất tình tứ thiết tha nhưng rất chua chát:
Cau khô ăn với hạt hèo
Anh muốn mần quen với bạn mà bạn chê nghèo thì thôi
Xưa kia người dân Hương Khê đa số là ăn trầu cau. Cau Hương Khê nhiều và ngon nổi tiếng. Nhưng hết mùa cau tươi thì chỉ còn cau khô. Cau khô ăn với hạt hèo (mây hèo) là “xứng đôi vừa lứa”, bên thì chát bên thì khô. Tuy vậy, ở đây “lươn ngắn đã chê chạch dài” và người con trai tự rút lui bởi sĩ diện. Người Hương Khê tuy nghèo nhưng rất sĩ. Họ không giống với người con trai ở xứ khác là dù bị chê nghèo, anh ta vẫn đeo đuổi tình yêu. Khi người con gái chê nghèo:
Yêu anh em cũng muốn yêu
Em sợ anh nghèo anh bán mất em
Người con trai các nơi khác thường cự lại:
Nghèo thì bán cột bán kèo
Bán nương bán ruộng chứ ai bán người yêu bao giờ
Người Hương Khê cũng có tâm hồn lãng mạn, ước mơ bay bổng, chinh phục tự nhiên:
Trèo lên khúc rú Giăng Màn
Bắt con voi ta cưỡi, bẻ cơn tàn ta che
Ước mơ thiên địa xoay vần, ước mơ đổi đời là ước mơ lớn nhất của người Hương Khê xưa. Cho dù chỉ là một người dân thường làm nghề đi câu cá, đi bắn chim nhưng nếu có cơ hội thì anh sẽ thử sức mình, chinh phục cả thiên nhiên và cả thánh thần:
Một mai thiên địa xoay vần
Chim trời anh cũng bắn, cá thần anh cũng câu
Cơ hội đến với nhân dân Hương Khê từ khi có Đảng, có chính quyền cách mạng. Thiên địa xoay vần nhân dân Hương Khê đã thực sự đổi đời, họ đã trèo lên khúc rú Giăng Màn” đào núi lấp sông xây dựng nên nhiều công trình vĩ đại, làm thay đổi bộ mặt xứ sở mà ngày xưa ta quen gọi là thâm sơn cùng cốc (Ngàn Sâu), nước độc ma thiêng.
  Việc xây dựng thành Sơn Phòng ở xã Phú Gia được coi là một gánh nặng đối với người dân Hương Khê. Hạn xây dựng Sơn Phòng chỉ có 3 tháng, do ông Cai Ngoạn (Trần Công Toản sinh năm 1843 ở làng Nam Trạch) là chánh tổng Chu Lễ lúc đó chỉ huy. Dân Phú Gia phải phá lúa, phá khoai để xây thành, phải bỏ việc đồng việc nhà để đi làm dinh làm trại. Bài vè “Xây dựng thành Sơn Phòng” đã phần nào nói lên tinh thần tham gia của người dân Hương Khê trong phong trào Cần Vương:
Về bán roọng (ruộng) bán nương
Tru (trâu) ba con bán một
Bò ba con bán một
Chộ đồng điền lúa tốt
Nhủ (bảo) gặt rẹ (rẽ) chia ba
Lúa đồng vại Phú Gia
Để làm dinh, làm phố
Lập chợ tỉnh Sơn Phòng
Hào lũy đắp chưa xong
 (Trần Văn Quý sưu tầm)
Trong cuộc sống vật chất nghèo khổ nhưng cuộc sống tinh thần của người Hương Khê rất phóng túng, hào hoa. Người Hương Khê rất yêu vật nuôi
Me me…
Con me con con
Như bông như hoa
Như búp mới nở
Như nụ hoa cà
Lên một bạo cày
Lên hai bạo bừa
Lên ba đi sớm về trưa
Cày thay cho mẹ
(Nguyễn Văn Thơi sưu tầm)

Hương Khê còn nổi tiếng lối hát dân gian như múa hát sắc bùa. Mỗi tổ sắc bùa thường có 6 đến 10 người với bộ nhạc cụ gồm 01 trống con, 4 trống dài gọi là trống tầm vinh, 1- 2 nhị, 1- 2 sinh tiền. Đội Sắc bùa thường đi hát, chúc tụng nhau vào dịp đầu xuân, nhà nào có sắc bùa vào chúc đêm giao thừa là coi như điềm lành của một năm mới sắp đến. Điều rất hấp dẫn của múa hát sắc bùa, là lời hát không có sẵn, người lĩnh xướng "tuỳ cơ ứng biến", nói dân giã là hát "bắt xắp". Vì vậy lời hát phải hợp với hoàn cảnh cụ thể. Mỗi khi có đoạn hát hay, người xem vỗ tay reo hò nhiệt tình. Một điều hấp dẫn nữa là khán giả cũng có thể trở thành diễn viên, nhiều khán giả say mê quá thế là cùng vào mang trống múa hát, họ thay nhau như vậy cho nên hát sắc bùa có khi diễn ra đến 11, 12 giờ đêm chưa nghỉ. Cái khó là người lĩnh xướng có khả năng "xuất khẩu thành thơ", làm cho lời hát vừa đúng giai điệu, nhịp múa, vừa phù hợp với đối tượng mà mình đưa ra. Nổi tiếng tục hát sắc bùa như Phúc Trạch, Phú Gia. Một số câu hát sắc bùa còn tồn tại trong trí nhớ của các cụ cao tuổi như:
“Chén úp lại chờ rượu
Đĩa úp lại chờ xôi
Em đã lấy ai rồi
Cho các anh biết với”

   “Đèn hết dầu lu ngọn
Trăng mây khỏa lơ mơ
Em đang nhỏ đang thơ
Chưa có ai lấy cả”
    
   “Kẻ ưa cá đồng nấu khế
Kẻ ưa cá bể nấu dưa
Dù ai ghét ai ưa
Cũng mặc lòng thiên hạ”

“ Nước suối, nước khe ở rừng
Muốn tưới nước ruộng thì cùng làm xe”

          Như vậy, thơ ca dân gian lưu truyền ở Hương Khê hay do người Hương Khê sáng tác đã góp phần khắc họa rõ nét đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Hương Khê. Tuy chưa thật sự đầy đủ song đó là nguồn tư liệu quý giúp ta hiểu thêm về đất Hương Khê, làng xã Hương Khê và con người Hương Khê trong quá khứ cũng như hiện tại. 
3. Văn hóa của người Mã Liềng (người Chứt)
Truyện cổ dân gian
Truyện cổ của người Mã Liềng cũng thường lấy các đề tài về sự tích các hiện tượng tôn giáo tín ngưỡng như sự tích thờ bếp lửa (truyện “ Hai ông và một bà ma bếp”), sự tích cây thuốc lá, cây chè hoặc sự tích về các công cụ săn bắn như nỏ, lao, bẫy...
Truyện cổ của người Mã Liềng còn lấy hạnh phúc con người, lấy tình yêu lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng làm cốt lõi. Trong đó, qua tâm hồn lãng mạn của các tác giả dân gian, những mối tình say đắm được nảy nở ngay trong cuộc sống gian nan, vất vả như truyện “kơi lụ ma” kể về mối tình oan trái của đôi trai gái, nhưng họ vẫn một lòng chung thuỷ yêu thương.
Bên cạnh đó, truyện cổ người Mã Liềng còn lấy loài vật làm nhân vật chính - dưới hình thức truyện ngụ ngôn. Truyện ngụ ngôn bao giờ cũng có hai tuyến nhân vật “con cọp, con rắn” tượng trưng cho kẻ độc ác, xảo trá nhưng ngu dốt còn con người đại diện cho sự thông minh, lanh lợi, hiền lành. Loại truyện này bao gồm những yếu tố khôi hài, hóm hỉnh nhưng có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Truyện cổ của người Mã Liềng còn lấy thế giới thần linh bao la đầy quyền uy làm đề tài miêu tả. Đó là những câu chuyện mô tả về “thần sấm, thần mây”, về “thần gốc cây”, “thần  núi”. Những vị thần đó có sức mạnh vô biên có thể gây hại người này và phù hộ cho người khác.
Dân ca
 Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Mã Liềng, những làn điệu dân ca nổi lên như một loại hình đặc sắc đượm tính chất trữ tình. Với nội dung phong phú, dân ca được sử dụng trong nhiều khung cảnh. Bằng lời ca dịu ngọt, giai điệu trầm lắng, dân ca đi vào tâm thức của con người, phản ánh tình yêu lao động, yêu tự do và tình yêu lứa đôi tha thiết. Dân ca gắn bó một cách tự nhiên với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào. Đó là làn điệu kà tơm - tà lênh nghĩa là con trâu đi cày (kà tơm là con trâu, tà lênh là cày đất). Điệu này bắt đầu bằng điệp khúc là “ Kà tơm - tà lênh” hai lần và sau đó là nội dung bài hát. Làn điệu này thường dùng để hát đối nam nữ trong lao động sản xuất, trong vui chơi (cũng có thể hát một mình hoặc có thể hát hai nam, hai nữ). Rất có thể điệu hát này bắt nguồn từ tiếng gọi nhau đi làm từ lúc sáng sớm, hoặc theo đồng bào trước đây còn có điệu “ Kà răng - tà nên” nghĩa là chiều về trên đỉnh núi, là tiếng gọi nhau đi về lúc trời đã chiều. Điệu dân ca này không chỉ tạo nên không khí vui nhộn, hăng say lao động sản xuất mà thông qua đó các chàng trai, cô gái còn gửi gắm tâm tình cho nhau: “ kà tơm - tà lênh, kà tơm - tà lênh, bới chị mới, chiềng chiêng kdang, kói, Tihal, bới chị mới, kà tơm - tà lênh, kà tơm - tà lênh che phướng li nơ, phi co chô, che hel vấng tược...”
Không chỉ trong lao động sản xuất, điệu kà tơm - tà lênh còn được hát trong các dịp cưới, lễ tết và nó còn là tiếng ru con của các bà mẹ. Nội dung bài hát có thể sáng tác tuỳ hứng, thường là những câu hát trao duyên kín đáo, tình tứ hoặc là những câu trêu ghẹo nhau nghịch ngợm, hóm hỉnh và có khi là những lời răn dạy dỗ con người. Ở đây điệu Kà tơm - tà lênh có vần điệu rất thô sơ giống như những điệu cổ sơ của các điệu hát ví và hát dặm Nghệ  - Tĩnh.
Nhạc cụ
 Nếu nói rằng sự phong phú về âm nhạc của một dân tộc, một phần thể hiện ở loại hình nhạc cụ hay ở những làn điệu thể hiện qua các nhạc cụ đó, thì nhạc cụ có trong sinh hoạt tinh thần của người Mã Liềng cũng khá phong phú. Tuy nhiên hiện nay, những loại hình nhạc cụ ở đồng bào lại bị mai một, rơi rụng dần, chỉ còn thấy được bóng dáng một vài nhạc sau đây:
- Đàn ống (tờ rơ bon): Ở người Mã Liềng có đàn ống dành cho đàn ông và có đàn ống dành riêng cho đàn bà. Cả hai loại đàn này đều làm bằng ống lồ ô, một đầu có mắt của cây đàn bịt kín và một đầu không. Hai đàn đều cấu tạo có một dây nối từ trục đàn đến thùng đàn. Đàn nam giới có cần kéo. Theo một số nhà nghiên cứu loại đàn ống của người Mã Liềng gợi lên hình ảnh nguyên thuỷ của đàn nhị. Loại đàn ống dùng cho phụ nữ lại có thanh gỗ gắn ở đầu đàn để nâng dây đàn lên. Khi chơi, nghệ nhân dùng ngón tay gảy dây đàn.
- Đàn môi: Đây là một loại nhạc cụ của người Mã Liềng, được làm bằng thanh sắt uốn cong, mài nhẵn, nhìn cây đàn ở trạng thái rất đơn sơ như hàng ngàn năm trước. Người đàn ông thường thổi đàn môi vào những ngày lễ trong năm.
- Sáo ( pi ) của người Mã Liềng được làm bằng ống nứa nhỏ, hai đầu cắt rỗng. Trên thân sáo có 6 lỗ, một đầu sáo gắn lưỡi gà dùng để thổi. Khi thổi, nghệ nhân dùng nghệ thuật điều khiển sáu ngón tay đặt trên các lỗ sáo để tạo thành âm điệu cần thiết.
- Đàn ống và sáo được diễn xướng lúc cưới xin, dịp tết và còn dùng cho các cặp trai gái thổi để trao duyên, gửi gắm tâm tình. Điều đặc biệt là nội dung các bản nhạc của đàn và sáo đều phổ nhạc theo điệu kà tơm - tà lênh.
- Đàn đá: Người Mă Liềng c̣n dùng đá, kết hợp với ống nứa để tạo nên một loại nhạc cụ riêng cho mình.
- Mạ gường được ông mo dùng lúc tế lễ.
Phong tục, tập quán
Tục Kloống: Là lễ tìm đất để làm nương rẫy. Khi đi tìm đất, chủ nhà mang theo một ít lễ vật như rượu, thịt rừng, gạo. Đến đám đất vừa ý, chủ nhà đặt lễ vật xuống một gốc cây to hoặc trên một hòn đá lớn để cúng thần đất, thần núi phù hộ cho mùa màng được tốt tươi. Cúng xin thần linh xong, chủ nhà phát một đám nhỏ để làm dấu. Nếu như vài đêm sau, họ nằm mộng thấy điều tốt thì tiếp tục phát đất tiếp.
Tục xuống đồng: Đối với người Mã Liềng ở bản Rào Tre khi làm quen với cây lúa nước là lúc họ có nghi thức thờ cúng thần lúa. Bắt đầu bước vào vụ sản xuất các gia đình chuẩn bị lễ vật là rượu, gạo để cúng thần lúa. Trưởng bản chủ trì mời vị thần lúa về chứng giám lễ cúng và nhận lễ vật. Trong bài cúng, trưởng bản nói lên mục đích là mong cây lúa được tốt tươi, nắng mưa hòa thuận.
Tục thờ cúng tổ tiên
Bàn thờ của người Mã Liềng đặt ngay trong buồng sát mái nhà. Đó là nơi linh thiêng nhất trong nhà người Mã Liềng. Họ có những bài cúng khấn ma. Hàng năm mỗi kỳ tế thần, mỗi nhà trong bản đều mang mâm cỗ của mình tập trung đặt ở mỏm núi cao gần bản để tế ma. Nếu tế bằng lễ vật thì thường có hai con một con to giết thịt để ăn, một con nhỏ đem dìm nước chết để tế thì ma mới nhận được. Khi tế lễ người Mã Liềng đánh cồng chiêng và đốt hương bằng “nến đất” vốn là sản phẩm do nhựa cây trám trong rừng nhỏ xuống đất kết lại, khi đốt có mùi thơm.
Hôn nhân, tang ma
 Người Mã Liềng lập gia đình sớm, con trai 16 tuổi, con gái 15 tuổi được bố mẹ cho tự do tìm bạn đời. Trai gái khi tiến hành hôn nhân có 1 thời gian tự do tìm hiểu. Việc chọn người yêu được gắn liền với quan điểm thẩm mĩ bắt nguồn từ lao động. Người con trai đẹp là người khỏe mạnh, biết làm rẫy giỏi, đi săn giỏi. Người con gái đẹp phải biết đeo giỏ đi hái rau, bắt ốc.
Quan hệ hôn nhân hiện nay phổ biến là quan hệ nội hôn tộc người (chỉ kết hôn với người cùng dân tộc Mã Liềng) rất hiếm thấy hôn nhân ngoại tộc (chỉ có một số trường hợp). Hôn nhân của người Mã Liềng là hôn nhân 1 vợ, 1 chồng rất bền vững, không có hiện tượng bất hoà. Do sống giữa vùng rừng núi cách biệt, điều kiện kinh tế - văn hóa lạc hậu, thanh niên Mã Liềng chỉ biết kết hôn với nhau trong nội bộ bản hay người đồng tộc. Cụ thể các bước cưới hỏi gồm: Lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới.
 Khi trong nhà có người chết, người ta lấy nứa hoặc vỏ cây bó người chết lại rồi để người chết nằm ngang ở gian nhà giữa, quay đầu về cửa sổ gian khách. Nếu người mất đi là người có tuổi thì các con gái, con dâu và con rể ngồi cúng người chết ở phía chân còn các con trai thì ngồi cúng ở hai bên người chết bắt đầu từ vai trở xuống. Người Mã Liềng chỉ lưu giữ người chết lại trong nhà nhiều nhất là một đêm (nếu là người già đông con nhiều cháu). Đối với người chết trẻ, họ lo chôn cất ngay ngày hôm ấy. Người cúng thường là người già trong bản, đứng ở ngang vai người chết.
Người Mã Liềng đưa người chết ra khỏi nhà qua cửa sổ ở gian nhà khách. Vì thế cửa sổ này được gọi là cửa sổ ma. Mái tóc của người phụ nữ được dùng để đánh dấu (thông báo) gia đình họ có người mới mất, giống như cách người Kinh để tang người chết. Chẳng hạn khi một nhà nào đó có người chết, tất cả phụ nữ của gia đình ấy phải búi tóc thành một búi ở phía phải hay phía trái mái đầu mà không được búi lại ở phía sau. Họ búi như vậy trong vòng 5 ngày thì thôi không búi tiếp nữa và từ đó mọi sinh hoạt trong gia đình trở lại bình thường.
Sinh hoạt ăn uống, trang phục, nhà ở
Ăn uống: ngày xưa bữa ăn của người Chứt, lương thực chủ yếu là sắn, lúa và các loại rau, quả, động vật nhỏ trong rừng, dưới suối. Thời kỳ giáp hạt, bà con có khi ăn củ mài, củ nâu và các loại rau, quả, thịt thú rừng.
          Thường trong một ngày, bà con người Chứt ăn hai bữa chính: Bữa sáng và bữa chiều. Thường ngày, bà con đi hái lượm, săn bắn hay làm rẫy ở xa nhà nên chỉ nấu ăn vào buổi sáng (trước khi đi làm) và bữa chiều (sau khi đi làm về), bữa chiều thường chu đáo hơn.
          Trước đây, người Chứt có thói quen nấu ăn trong các ống bương. Tập quán ăn bốc (ăn bằng tay) có từ lâu đời và được giải thích với ý nghĩa kính trọng thực phẩm làm ra. Hiện nay, bà con đã dùng bát đũa, dụng cụ nấu ăn phổ biến là xoong, nồi, tuy nhiên việc ăn bốc vẫn chưa mất hẳn.
          Trang phục của đồng bào dân tộc Chứt còn thô sơ. Trước đây, do hoàn cảnh sống khắc nghiệt, bà con để tóc dài, búi tóc sau gáy, trang sức không có gì đặc biệt, còn trang phục hết sức nghèo nàn, đơn giản. Đàn ông, đàn bà đều lấy vỏ cây làm áo khố, cây thường chọn để lấy vỏ làm áo là cây sui, cây si.
Hiện nay, với việc thực hiện định canh, định cư để hòa nhập với cộng đồng, trang phục của người Chứt chịu sự tác động mạnh mẽ của người Kinh. Những ngày lễ, người phụ nữ thường mang loại váy kín màu đen có hoa văn, có dây rút ở đầu váy (giống như váy của người Kinh trước đây), ngày thường phụ nữ, đàn ông, thanh niên, trẻ em mặc quần áo giống người Kinh. Một người như vậy chỉ có 1 - 2 bộ đồ, họ mặc 5 hoặc 6 ngày mới thay. Tình trạng mặc thiếu, mặc bẩn còn khá phổ biến.
Nhà ở: Đối với người Chứt, nhà cổ truyền chủ yếu là nhà sàn, có khi những túp lều tạm bợ, lợp bằng lá cây rừng hay những ngôi nhà sàn nhỏ được làm bằng gỗ, tre, tranh,... sẵn có trong rừng. Kỹ thuật làm nhà đơn giản, chủ yếu là gán lắp lợi dụng các ngàm dở.
Hiện nay, nhà của người Chứt chủ yếu do sự đầu tư của Nhà nước thông qua chương trình định canh - định cư và hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, việc xây dựng nhà tuỳ thuộc vào sở thích của đồng bào. Nhà ở của người bà con đã được lợp ngói. Do ảnh hưởng tập quán làm nhà của người Kinh, nên người người Chứt ở bản Rào Tre có xu hướng muốn chuyển nhà sàn xuống nhà trệt.
IV. ẨM THỰC, TRANG PHỤC, NHÀ Ở
1. Ẩm thực
          Hương Khê là huyện miền núi nên ẩm thực của người dân nơi đây cũng có những nét riêng mang hương vị của núi rừng và thói quen sinh hoạt của người dân bản địa.
          Ngày thường ăn ba bữa, hai bữa chính, một bữa phụ. Hai bữa chính là bữa trưa và bữa chiều tối, bữa phụ là bữa sáng. Một số nơi, bữa chính lại là sáng và chiều, bữa trưa là bữa phụ bởi dân thường phải đi làm trại, đi rú, họ thường ăn cơm từ lúc gà gáy rồi đem theo cơm vắt để ăn phụ vào buổi trưa, chiều tiếp tục làm việc đến gần tối mới về.
          Bữa chính thường cả nhà cùng ăn, dù ngô, khoai hay cơm đều ăn no, thức ăn ngoài canh, cà, nhút thường có thêm vài món khác như rau, cá. Bữa phụ đơn giản hơn, trước đây chỉ có ngô, khoai, sắn hoặc nồi cháo kê.
          Về lương thực gồm gạo, ngô, khoai, sắn, môn, đỗ, kê,...; còn thực phẩm thì chủ yếu từ sản vật địa phương; thịt gia súc có: thịt bò, thịt lợn, thịt dê, thịt chó,... Trước đây, còn có thịt thú rừng: lợn rừng, hươu, nai, chồn, cáo, nhím...; thịt gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng..., trước đây, còn có thịt các loại gà rừng, chim rừng, chim cò, chim cói, chim cuốc...
          Sông suối ở Hương Khê cung cấp cho người dân địa phương nhiều loại thủy sản tự nhiên ngon mang hương vị riêng như các loại cá: cá mát, cá mương, cá đục, cá chiệc, cá lúi, cá giếc, cá trê, cá chạch (suối), cá bò, cá bống, cá rô, cá tràu, mụ hềm...; trước đây còn có rùa, ba ba... Ngoài ra có cá nhét, lươn, tôm, cua đồng, ốc, ếch.... Người dân nơi đây có nhiều món ngon có thể coi là đặc sản như: cá mát nướng kho nghệ, cá kho cà, cá nấu nhút, cá đồng kho khế... Trong đó, cá mát là món tiêu biểu nhất.
          Cá mát là loại thực phẩm đặc sản của Hương Khê, sống ở các dòng suối trong rừng sâu. Cá mát có vảy trắng, giống cá chày, nhưng thân hình thon hơn, đầu và lưng đen. Ở những đoạn suối sâu có nước chảy, cá mát bơi đi thành từng đàn, gọi là tía cá. Khi cá mát ăn dưới lòng suối, chúng thường dùng miệng húc vào cát để tìm mồi - thường là những con sâu đá màu đen. Người đi câu gọi hiện tượng đó là cá mát liếc (như liếc dao). Đứng trên bờ nhìn xuống làn nước trong thấy giống như những tia chớp nhỏ dưới đáy suối. Loại cá này không lớn, con to nhất cũng chưa tới 1 kg, trong khi đó loại cá lấu có con tới vài kg. Cá mát rất ngon và bổ, có thể nói là loại cá tự nhiên sạch nhất ở vùng núi cao vì chúng thường sinh sống ở nơi nước trong, sạch nhất.
          Ở Hương Khê, cá mát sống nhiều nhất ở Phú Lâm (xã Phú Gia), xã hương Vĩnh, xã Hương Lâm, xã Hương Liên, xã Hương Bình, xã Hòa Hải... Cá mát thường được kho nghệ hoặc nướng chín sau đó kho với nước mắm, ăn với cơm nếp hoặc xôi đều rất ngon. Cá mát cũng được nấu với nhút thành canh cá mát; ruột cá mát nấu với dưa ăn có vị đắng, thơm của mật cá, rất ngon và bổ dưỡng.
          Ngày nay, ở Hương Khê loại cá nuôi đã nhiều hơn cá tự nhiên. Ngoài chợ thấy có bày bán các loại cá trắm, trôi, rô phi, chuối, diêu hồng... Tuy vậy, cá tự nhiên vẫn được bà con ưa chuộng, nhất là khi tiếp khách, làm cỗ bàn.
          Trong cơ cấu bữa ăn của người Hương Khê trước đây thường có cơm, canh, cá, cà, nhút. Canh rau giữ vai trò quan trọng trong bữa ăn. Những năm khó khăn, mất mùa, trong bữa ăn của bà con, rau là chính. Rau ở Hương Khê có hai loại: rau tự nhiên và rau trồng. Rau tự nhiên có nhiều loại: rau má, rau tàu bay, rau đún (dún), lộc mưng (lộc vừng), rau đợi (mọc bên suối)... Trong đó, rau má là loại thức ăn đặc thù, phổ biến. Rau trồng có: rau muống, rau khoai, các loại rau đậu (ngọn đỗ), rau bầu, rau bí, rau cải các loại... Trước đây, người Hương Khê có một cách nấu canh rất phổ biến gọi là nấu canh bồi. Canh bồi nấu bằng các loại rau nấu với tấm (hoặc bột gạo), như một loại cháo rau, rau nhiều cháo ít, nước nhiều, cái ít. Rau khoai lang thường dùng nấu canh bồi nhiều nhất.
          Xáo gà cũng là món ăn đặc sản của Hương Khê. Người Hương Khê ít ăn gà luộc, mà chủ yếu làm cỗ cùng giỗ, tết, khi có việc họ, việc làng thì làm cỗ xôi, con gà. Khi có việc hiếu, hỉ, gà nấu xáo là món không thể thiếu của các gia đình. Đất Hương Khê rộng, mật độ dân số thưa nên hầu hết gia đình nào cũng có đàn gà thả vườn. Gà thường không lớn, thịt săn và thơm; còn loại gà ác (gà đen) thường làm thuốc hoặc nấu cháo khi đau ốm.
          Món ăn đạm bạc và phổ biến ở Hương Khê là nhút. Ở Hương Khê có trên 10 loại nhút khác nhau, bao gồm: nhút măng (măng nứa, măng tre, măng hóp, măng chằng phày - loại tre đặc ruột), nhút ngọn đỗ (đỗ xanh - đỗ rẽ), nhút xơ mít xanh, xơ mít chín (mít dai và mít mật - mít mùa), nhút tro (quả tro - cọ), nhút bèn nưa (cây khoai nưa), nhút bèn môn (cây khoai môn), nhút trám (quả trám), nhút choóc (cây choóc), nhút sắn sục (cây sắn sục), nhút hổ lốn (lẫn lộn nhiều loại). Trong đó, nhút ngọn đỗ trộn với mít được biết đến nhiều nhất.
          Cách làm nhút ngọn đỗ đơn giản, vật liệu sẵn có trong vườn, không mua gì ngoài muối trắng. Sau khi gọt vỏ, mít được thái ra băm nhỏ bằng sợi miến hoặc to hơn một chút, loại cà quả giống như cà pháo, nhưng quả già màu vàng ươm, sau khi rửa sạch, bỏ bớt hạt, cà được thái nhỏ, trộn đều mít, cà và ngọn đỗ cùng với muối rồi bóp kỹ và nén vào vại, trên có vứng tre đặt ngang và đè một hòn đá nặng lên trên. Ngọn đỗ chỉ dùng ngọn đỗ đen hoặc ngọn đỗ chiền chiện hay o hươu (màu da hạt đỗ loang lổ, đậm nhạt khác nhau như màu lông chim chiền chiện hay o hươu) nhìn non mơn mởn. Sau khi hái về, ngọn đỗ được thái nhỏ, phơi khô, rửa sạch, vắt kỹ hết nước rồi trộn đều với mít và cà ở trong vại. Đó chính là cách làm món nhút ngọn đỗ. Sau một tháng, nhút tỏa ra mùi hương thơm ngon. Để nhút thơm ngon và giữ được lâu, cứ 5 - 7 ngày dùng khăn sạch lau kỹ miệng vại và hòn đá nén vứng tre. Nhút ngọn đỗ lấy ra ăn phải vắt thật khô nước, đem chấm với nước kho thịt lợn hoặc nước kho cá nục nướng đều ngon.
           Món nhút ngọn đỗ tuy đạm bạc nhưng từ người giàu sang phú quý đến nghèo hèn đều rất thích ăn. Trong mâm cơm người Hương Khê tiếp đãi khách không thể thiếu món ăn này. Khi khách đến nhà, chủ nhà thường mời "ăn cơm nhút", đương nhiên ngoài nhút có gà, có cá nhưng miệng vẫn nói "cơm nhút".
          Cơm nhút đã trở thành thói quen, thành phong cách ẩm thực của người Hương Khê. Những ngày giỗ tết, hội hè, lượng thịt cá nhiều thì món nhút ngọn đỗ thanh đạm thật ngon miệng và hấp dẫn. Do vậy, nhút ngọn đỗ là món ăn đặc trưng của người dân Hương Khê.
          Ở Hương Khê có nhiều loại khoai: khoai lang, khoai vạc, khoai từ, khoai môn, khoai sáp, khoai chuối (môn chuối), khoai dong (môn dong), khoai sọ...; trong đó, khoai lang chiếm tỷ lệ nhiều nhất và các món ăn được chế biến từ khoai cũng phong phú: khoai luộc, khoai deo, khoai xéo...
          Khoai luộc là món phổ biến nhất, có ở nhiều vùng. Người Hương Khê thường luộc khoai bằng nồi bù (nồi đất). Vào tháng giêng, tháng hai, khoai lang không bở nên luộc chín phải để cạn hết nước, nhựa khoai chảy ra một lớp dưới nồi như mật mía, lớp dưới cùng hơi sém thì củ khoai mới ngọt. Khi thời tiết nắng, luộc khoai cho nhiều nước.
          Khoai deo: Khoai thu hoạch về, để trên sàn đất cho khô bớt lượng nước bên trong, sau đó rửa sạch, luộc lên củ khoai sẽ trong, không còn thấy tinh bột màu trắng nữa. Khoai được bóc hết vỏ, thái ra phơi khô. Có gia đình cất dành cả chum, mùa mưa lạnh món khoai deo rất có giá trị bởi tiện lợi, vừa ngọt vừa dai. Sáng sớm trẻ con ăn đi học, người đi làm đồng bỏ túi vài miếng vừa đi vừa ăn không phải nấu nướng, tiết kiệm thời gian. Khách đến nhà thì khoai deo được rang lên ăn với lạc rang. Hai món ngọt bùi dân dã ấy mọi người đều thích. Trước đây, khoai deo, khoai khô là những món lương thực dự trữ lâu dài đề phòng khi có lụt, bão, mất mùa đói kém.
          Khoai xéo: khoai sau khi thu hoạch, rửa sạch rồi thái phơi khô. Khoai khô nấu với đỗ trắng, sau khi chín dùng đũa bếp xéo kỹ rồi nén chặt xuống. Dùng chiếc "vẹm" (vỏ trai to) xắn những lát thật mỏng bỏ vào bát tơi ra như xôi vò. Món khoai dỡ thơm, ngon, dễ ăn và ăn được nhiều. Một số nơi, khoai xéo được nấu bằng khoai tươi.
          Ngoài phơi khô, người ta còn chọn những củ khoai to buộc túm treo lên trên trần nhà. Khi hết mùa khoai, hoặc khi có mưa bão, khoai treo (khoai túm) mới được mang xuống luộc, ăn ngọt, rất thơm ngon.
          Ngoài ra, khoai lang có thể làm món khoai rang, khoai nướng, khoai rán. Khoai có thể ăn sống, làm bánh khoai luộc lên trộn vừng đen hoặc lạc rang (gọi là món rau thấu)[17]. Một số nơi còn nấu canh bằng khoai lang tươi.
          Ngoài những món thông thường trên, ở Hương Khê còn nhiều món ăn đạm bạc nhưng hấp dẫn như: "canh đỗ với cà muối", "mắm bôi", "bèn môn nấu chua", "mít luộc", "thịt lợn rang cháy cạnh" (xào cong), "thịt rim" (thịt bò rim), "cháo hành", "ngô bung", "cá đồng kho vỏ tắt", "nước dam",...
          Hương Khê cũng có nhiều loại bánh, kẹo: bánh chưng, bánh tày, bánh đúc, bánh ngô, bánh nếp, bánh sắn, bánh khoai, bánh tráng vừng đen, bánh ngào, bánh gai; kẹo lạc, kẹo bột.... Gia vị chế biến món ăn so với các vùng khác cũng có vị riêng như: hành tăm, vỏ tắt, lá tắt.
          Sau bữa ăn có món tráng miệng: cam, quýt, bưởi đào, bưởi đường, bưởi Phúc Trạch, chuối, kẹo, bánh. Trong đó, bưởi Phúc Trạch và cam Khe Mây là hai sản vật nổi bật nhất của địa phương.
2. Trang phục
Trang phục nam nữ của người Kinh ở Hương Khê trước đây không khác biệt so với các nơi khác, bà con thường dùng màu nâu thâm để tiện lao động, sinh hoạt. Sau những năm 70 của thế kỷ XX, khi kinh tế phát triển, trang phục của người dân phong phú hơn, không chỉ đáp ứng yêu cầu “Ăn chắc mặc bền”, mà phải đẹp, bởi "Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, chân tốt vì hài, tai tốt vì hoa.
2.1. Nam giới
Áo đàn ông trước đây mặc áo tứ thân, khuy cài trước ngực. Ngoài ra còn có áo cánh ngắn, may bằng vải chuông, nhuộm nâu. Ống tay, cửa tay rộng, có thể dài hay ngắn, vạt áo không gặp nhau ở trước bụng mà thường gài về phía bên phải, có các khuy bằng vải tết hoặc bằng giải để buộc với nhau. Không có áo nào may cổ cao, cổ đứng hay cổ gấp như áo sơ mi bây giờ. Do được may bằng vải nâu bầm nên áo rất bền, mặc được lâu.
Những khi tế lễ, hội hè, người ta mặc áo dài năm thân. Giàu thì áo lụa, mùa rét có lót nhung bên trong; nghèo thì áo vải nâu bùn.
Quần của đàn ông thường bằng vải hoặc lụa màu trắng. Quần đũng rộng, màu nâu chỉ mặc ở nhà hay khi lao động. Vải nâu được nhuộm bằng củ nâu trát bùn. Các cụ già vào tiệc thọ, tiệc yến mới mặc quần lụa điều. Quần không may lối giải rút mà là may cạp rộng, có thể vận quần buộc ra trước bụng một cách đơn giản. Ngoài ra, các cụ thường mặc theo kiểu buông lá tọa mỗi khi cần xắn ống lên cao. Nho sĩ, những nhà giàu có ngày thường cũng quần nâu áo vải đơn giản, chỉ khác là lành lặn và dài hơn.
Trước đây, đàn ông cũng để tóc dài như đàn bà và búi tóc ở sau bởi quan niệm “cái tóc là khí huyết của cha mẹ, cắt bỏ đi là bất hiếu”.
Cùng với việc búi tóc, là chít (vấn) khăn. Khăn chít đầu thường bằng vải thâm, xanh thẫm hoặc nhiều màu. Khăn thường xếp nếp cẩn thận, chít kiểu chữ nhất hoặc chữ nhân, quấn bốn năm vòng, trong đó có một vòng bọc lấy búi tó phía sau. Người lao động thường đầu trần, khi đi cúng lễ, đi dự việc hiếu hỉ mới chít khăn (vấn khăn đen, bao cả búi tóc), giàu thì khăn lượt, khăn nhiễu. Người có tang thì vấn khăn vải trắng.
Đàn ông xưa nhiều người đóng khố. Khố bằng nửa khổ vải hẹp gọi là khố chạc (dây) hay khố chạc kẹo. Có khi người nghèo vá hai ba đoạn lại với nhau thành khố, gọi là khố nối. Đàn ông léo (đóng) khố đuôi lươn là "đẹp và sang" hơn. Khố đuôi lươn dài, vấn để chừa ra một đoạn rủ xuống tận lè, như cái đuôi.
Hai tiếng khănkhố đi liền với nhau vì là hai thứ phục trang tối thiểu của đàn ông. “Đầu không khăn, đít không khố” là câu chỉ là lớp người nghèo.
2.2. Nữ giới
Phụ nữ xứ Nghệ nói chung, Hương Khê nói riêng đều mặc mấn (váy). Loại váy phổ biến là “váy ống” không có giải rút, khi mặc phải cột vận lại cho chặt. Loại váy có dải rút gọi là váy nơm, xuất hiện muộn hơn, vào đầu thời cận đại.
Con gái nhà khá giả thì váy lụa đen dài đến cổ chân, có khi phủ tận mắt cá. Con nhà nghèo váy chỉ dài quá gối, đến khoảng nửa bắp chân là cùng, nhưng còn phải xắn cao theo lối quai cồng khi lao động. Vào dịp lễ hội, họ cũng sắm chiếc váy dài để mặc và đi chơi. Váy được trau chuốt bằng việc nhuộm nâu bầm sao cho phía ngoài láng mướt (hoặc mua vải thâm thì cũng chọn mặt ngoài đen nhánh và loại vải bền màu).
Đầu thế kỷ XX, đàn bà con gái thích mua vải thâm về may, váy vừa nhẹ vừa đẹp hơn.
Đi cùng với váy là cái ướm (yếm). Yếm vốn dĩ là mảnh vải vuông bằng sồi hay lụa, đặt chéo che ngực phụ nữ, góc trên khoét hình bán nguyệt, đính hai sợi dây vải buộc ra sau cổ, màu nâu sồi hay nhuộm màu nâu non. Ở hai góc đối diện nhau vắt sang hai bên sườn đính thêm 2 sợi dây nữa buộc ra sau lưng. Bốn sợi dây này gọi là dải yếm. Có hai kiểu cổ là cổ đuôi én, cổ tròn có dải kiểu bơi chèo bằng chiếc đũa, đồng màu với yếm dính vào dùng để cột yếm vào cổ. Kiểu cổ tròn mới ra đời vào thời cận đại, may nó đòi hỏi phải khéo tay, gọi là xây cổ ướm. Sang thì dải yếm bằng lụa trắng, hoặc hoa lý, rất dài vấn từ sau lưng ra phía trước, rủ xuống tới gần đầu gối.
Kết hợp với dải yếm còn có một dải thắt lưng rời với tác dụng là trang sức. Thắt lưng thường là sồi hay lụa mỏng (đôi khi nhuộm màu điều hay màu ngải để dùng trong ngày tết, ngày hội…). Thắt lưng buộc vào ngang lưng cùng với dải yếm làm thành một cặp giải màu sắc tương phản, nhún nhảy theo từng bước đi, tôn thêm vẻ đẹp uyển chuyển của người phụ nữ.
Áo cánh của phụ nữ ở Nghệ Tĩnh nói chung, Hương Khê nói riêng có đặc điểm là ngắn, thường chỉ đến mấp mé eo lưng và bó sát người. Hai ống tay rất nhỏ. Cổ áo may cổ viền hoặc cổ đứng, ngày xưa thì phổ biến kiểu cổ thừa, trông tựa như cổ áo gi lê của âu phục. Dù cổ nào thì hai vạt đằng trước chỉ có vài khuy hay một vài cặp giải.
Do yếm và áo đều ngắn nên để hở một khoảng bụng, gọi là hở lườn. Về sau áo cánh được may dài, rộng hơn, nhà giàu ngày thường cũng mặc áo vải to, để trắng hay nhuộm nâu như người nghèo, chỉ khi đi chợ, đi đình đám mới diện dồ tơ lụa. Con nhà nghèo thì suốt đời chỉ mặc áo nâu - xưa nhuộm nâu bầm, về sau nhuộm nâu non, màu sáng hơn một chút. Ngoài ra, nhà giàu sang ai cũng có bộ áo dài “mớ ba” bằng lụa mỏng, gồm ba chiếc, ba màu tím nhạt, xanh ngại, hồng nhạt, mặc khi đám đình, hội hè.
Nhà trung lưu trở lên, nhất là nhà có học, ngày thường phụ nữ cũng mặc áo dài năm thân cổ đứng, thường may bằng vải nhỏ nhuộm nâu non, hoặc vải thâm, hai vạt trước buộc chéo rủ xuống, trông rất duyên dáng, khi làm việc thì vấn ra sau .
Con gái lớn thì búi tóc, chít (vấn) khăn. Người khá giả thì dùng khăn nhiễu, khăn nhung, nghèo thì khăn vải nâu, vải thâm. Chít khăn bằng cách chải tóc, nắm thành một lọn, quấn khăn bên ngoài rồi vấn lên đầu, chừa một đoạn mút cuối, gọi là “seo gà”.
Ngoài quần áo thì phụ nữ thường làm đẹp bằng đồ trang sức. Phổ biến nhất là đeo trằm, nhà giàu thì trằm vàng, vừa thì trằm bạc, trằm mã não có khi là trằm đồng đỏ. Nhà sang thì sắm khuyên vàng, nhẫn vàng. Các bà, các chị khi đi chợ, đi dự đám đình thường đeo bộ xà tích bạc hay mạ bạc ở thắt lưng vừa để trang sức, vừa đeo ống vôi ăn trầu, còn trầu thì gói vào khăn vuông, giắt ở giây lưng.
Bên cạnh váy và áo, trang phục của người phụ nữ còn đi kèm với nón (nón chóp, nón lá, nón dứa). Nón chóp lá có hình tròn nhọn là phổ biến nhất, được chia làm nhiều loại, căn cứ theo cỡ khuôn, theo loại lá, loại sợi khâu thắt và theo cách trang trí nón. Các loại nón đều có quai để giữ. Ngoài công dụng chính là che nắng, che mưa, nón còn là chỗ dấu gương để khi đang đi giữa đường, giữa chợ, các cô gái có thể dễ dàng dừng bước che mặt soi gương. Khi đi làm đồng về nghỉ chân dưới gốc cây, nón trở thành chiếc quạt phe phẩy xua đi cái nắng nóng. Khi đến bên giếng nước đầy, nón trở thành chiếc gàu múc nước uống và rửa mặt, rửa tay chân cho mát mẻ…
Trên đầu có nón che nắng, che mưa thì ở dưới chân có đôi guốc, đôi dép. Đàn bà nhà quan quyền, sang trọng xưa đi dép da mỏ cong và ngày thường cũng đi guốc sơn gót bằng, về sau mới đi dép guốc cao gót. Đàn bà nông thôn thì xưa không hề guốc dép. Chỉ những người đi đường xa, mới cắt hai mo cau buộc vào bàn chân, hoặc đi dép da mỏng, kiểu dép phu xe kéo nhưng có quai chéo, để đỡ nóng và rát bàn chân.
Đầu thế kỷ XX, các nhà sang trọng và vùng buôn bán, y phục phụ nữ (cũng như nam giới) bắt đầu có ít nhiều thay đổi. Con gái, trước hết là nữ viên chức, học sinh, phụ nữ trẻ ở huyện và các gia đình nhà quan, nhà viên chức... bắt đầu mặc quần áo dài.
Một trong những nét đặc trưng trong văn hóa của Hương Khê là cái nảy, được chằm bằng hai nửa lá cọ khô, có hình mai rùa, thường được đeo để che phần lưng, hoặc khi cần thì xoay ra trước che phần bụng (che nắng, che mưa).
3. Nhà ở
Trước đây, nhà ở hầu hết là cột tre kèo nứa, mái lợp tranh kè, phên thưng vách nứa hoặc trát đất trộn rơm và phân trâu bò. Chỉ một số ít nhà gỗ mái tranh vách nứa. Đến đầu thế kỷ XX, nhà gỗ mới phổ biến và có nhà lợp ngói, thưng ván hoặc xây tường gạch, đá.
Để phù hợp với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng, gió Lào, mưa to, bão lụt lớn, nhà ở Hương Khê có các kiểu thông dụng như:
- Kiểu nhà nạng: khác với các kiểu nhà trên đều được kè cột bằng các tảng đá lớn, nhà nạng thô sơ, đơn giản hơn. Cột được chôn xuống đất, kết nối các vì bằng kèo tre, buộc bằng sợi mây. Nhà nạng chủ yếu là nhà tạm trong khi chưa có đủ điều kiện kinh tế làm các loại nhà trên.
- Kiểu nhà tứ trụ: kiểu nhà này mỗi vì có bốn cột, 2 cột cái, 2 cột con (có thể thêm 1 hoặc 2 cột hiên trước và sau). Gọi là nhà tứ trụ vì gian giữa nhất thiết phải có 4 cột cái, còn các vì khác có thể thay một cột cái trước bằng một cột bồng kê lên cánh hạ. Kiểu nhà tứ trụ rất vững chãi, bề thế.
- Kiểu nhà lòng lẫm: có thể ba hàng cột hoặc lậm bốn hàng cột, trên là chạn để thóc lúa. Nhà lòng lẫm cũng vững chắc, bề thế và có phần thực dụng hơn nhà tứ trụ, vì kiểu nhà này đường xà ngang xuyên qua lỗ giữa cột cái ở mức thấp hơn, phía trên được cao, rộng làm sàn lẫm chứa thóc hoặc đồ đạc. Kiểu lòng lẫm còn phát triển thành nhà ba lòng, đường xà ngang xuyên qua hai cột cái, gác lên đầu hai cột con, chia thành ba khoang đều nhau, hoặc cải tiến thành nhà lòng chạn.
- Kiểu nhà chữ đinh: kiểu nhà này mỗi vì ba cột, cột giữa cao tận đòn dông, xà ngang luồn qua lỗ giữa cột cái và gác lên đầu cột con. Kiểu nhà này rất vững chắc nên trước đây phổ biến.
- Kiểu nhà xóc nách: nhà mỗi vì có một đường xà ngang gọi là xóc nách, gác lên đầu cột con phía trước và luồn qua cột cái phía sau. Từ cột cái đến cột con có một đường hạ nối liền gọi là con ngang. Kiểu nhà này xuất phát từ nhà chữ đinh nhưng cách tân hơn.
Ngoài ra còn có các kiểu nhà: tiền trụ hậu lậm, nhà mái tứ trụ (bốn phía như nhau), nhà tiền bong hậu bẩy (mái trước cao hơn mái sau), nhà tiền trụ hậu trồng rường, nhà tiền khách hậu chủ (hàng hiên rộng, là nơi tiếp khách, phía trong gian giữa thường đặt bàn thờ).
Về sau, kiểu nhà tứ trụ, lòng lẫm không được ưa chuộng vì tốn gỗ, trông lại nặng nề. Thường gia đình khá giả có nhà gỗ 3 gian hai hồi, nhà giàu thì có nhà năm gian. Gian giữa rộng hơn gọi là gian bảy; bên trái là gian trong, thưng gỗ hoặc vách. Gian bảy và gian ngoài đều mở cửa lớn. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc vách tre nứa, vách đất. Mái lợp tranh, chủ yếu là tranh lá tro, có thể là tranh mây. Nhà nghèo thường hẹp lòng, thấp mái, có khi ra vào phải cúi. Nhà nào cũng có sân vườn rộng.
Huyện Hương Khê có gần 150 di tích, trong đó 60 di tích đã được kiểm kê. Trong số đó có 18 di tích đã được xếp hạng: 01 di tích quốc gia đặc biệt, 4 di tích cấp quốc gia và  13 di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
1. Di tích Quốc gia đặc biệt
     Chỉ huy sở Tiền phương Tổng cục hậu cần Bộ tư lệnh Đoàn 559 - Đoàn 500 (xã Hương Đô)
     Hương Đô là xã giàu truyền thống. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hương Đô là nơi đóng quân, trú quân của Đoàn sông Chu, sông Hồng, đơn vị F320,... và các đơn vị thanh niên xung phong đảm bảo giao thông. Đặc biệt, trong những năm từ 1964 - 1971, xã Hương Đô là nơi đóng Sở chỉ huy của các Bộ tư lệnh của Bộ Quốc Phòng như Bộ tư lệnh Đoàn 559, Đoàn 500...
     Tháng 6 năm 1966, cơ quan Tiền phương Tổng cục Hậu cần được thành lập để tăng cường chỉ đạo tuyến Nam Quân khu IV và đảm bảo cho tuyến 559. Chỉ huy sở đóng tại xã Hương Đô; đồng chí Đồng Sỹ Nguyên - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần được cử kiêm Tư lệnh Tiền phương Tổng cục Hậu cần. Cuối tháng 6 năm 1967, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 kết hợp với tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động mùa khô 1966 - 1967 tại xã Hương Đô (thường gọi là Hội nghị Hương Đô).
     Ngày 28/10/1968, Quân ủy Trung ương quyết định giải thể Bộ Tư lệnh 400 đảm bảo giao thông vận tải Quân khu IV, thành lập Bộ Tư lệnh 500 làm nhiệm vụ trung chuyển cho Đoàn 559. Thiếu tướng Nguyễn Đôn - Phó Tổng tham mưu trưởng được cử làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy. Sở chỉ huy của Bộ tư lệnh cũng đóng ở Hương Đô.
     Từ giữa năm 1970 đến giữa năm 1971, Đoàn 500 sáp nhập với Đoàn 559 thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn, địa bàn phụ trách từ nam sông Lam tỉnh Nghệ An đến Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Hương Đô vẫn là bộ phận hậu cứ của Bộ tư lệnh Trường Sơn.
     Chỉ huy sở của các Bộ tư lệnh được bố trí tại ngôi nhà 3 gian bằng gỗ của vợ chồng ông Nguyễn Văn Nhuệ và bà Đinh Thị Khánh ở xóm 7 xã Hương Đô. Phía sau vườn có hầm hào trú ẩn an toàn với hệ thống giao thông hào và hầm chữ A. Đây là nơi ở và làm việc trong nhiều năm của các đồng chí chỉ huy cao nhất của các Bộ tư lệnh. Năm 1998, ông bà Nguyễn Văn Nhuệ chuyển đến thị trấn Hương Khê để sinh sống, ngôi nhà này bàn giao lại cho con trai là anh Nguyễn Văn Kỷ sử dụng. Năm 2002, các cựu chiến binh của Bộ đội Trường Sơn năm xưa đến và cho xây dựng một bia dẫn tích có diện tích mặt bằng 30 m2 lát gạch, bia cao 1,67m, bề ngang 1,2m, nội dung bia ghi như sau:
     Mặt trước:
     + Di tích lịch sử Quốc gia đường Hồ Chí Minh.
     + Chỉ huy Sở Tổng cục Hậu cần Tiền Phương 1966.
     + Chỉ huy Sở cơ bản của Bộ tư lệnh Bộ đội Trường Sơn năm 1966 - 1967.
     + Chỉ huy sở Bộ tư lệnh 500 năm 1968 - 1970.
     Mặt sau:
     + Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên - chủ nhiệm Tổng cục hậu cần Tiền Phương kiêm Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn.
     + Trung tướng Vũ Xuân Chiêm - Chính ủy Bộ đội Trường Sơn.
     + Trung tướng Nguyễn Đôn - Tư lệnh Đoàn 500.
     + Trung tướng Lê Quang Đạo - Chính ủy Đoàn 500.
     Hội trường hội họp, sinh hoạt văn hóa của bộ đội được bố trí tại vườn nhà ông Hoàng Văn Học và bà Đinh Thị Vỹ - xóm 7 Hương Đô. Hội trường được đào sâu 2m với diện tích 75 m2 (5 x 15m) xung quanh có đắp bờ lũy, có hầm hào trú ẩn liên hoàn. Đây là nơi đã diễn ra Hội nghị tổng kết vận chuyển mùa khô năm 1966 - 1967, cũng làm nơi sinh hoạt văn hóa - văn nghệ của cơ quan Bộ Tư lệnh. Nhiều đoàn văn công của bộ đội đã tổ chức biểu diễn tại đây phục vụ cho bộ đội và nhân dân địa phương. Hiện nay, chỉ còn dấu vết của hầm hào trên nền của hội trường cũ.
     Bộ phận Hậu cần phục vụ cho cơ quan Bộ Tư lệnh được đặt tại nhà ông Ngô Hạp và bà Nguyễn Thị Mịch, có bếp Hoàng Cầm, nhà ăn tập thể, kho dự trữ lương thực và thực phẩm cho Chỉ huy sở. Năm 1972, nhà ông Ngô Hạp bị bom Mỹ ném cháy hoàn toàn.
     Bộ phận Thông tin liên lạc đóng tại nhà bà Nguyễn Thị Nhỏ và ông Nguyễn Phận. Đây là nơi làm việc của bộ phận cơ yếu, có máy phát điện.
     Ngoài ra, còn một số bộ phận có liên quan đến Sở chỉ huy của các Bộ tư lệnh đã từng đóng quân như: bộ phận tác chiến, bộ phận quân y.
     Di tích Chỉ huy Sở Tiền phương Tổng cục Hậu cần Bộ tư lệnh 559 và Bộ tư lệnh 500 trong kháng chiến chống Mỹ được công nhận Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 42/2005/QĐ-BVHTT ngày 22 tháng 8 năm 2005.
     Năm 2013, di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2383/2013/QĐ-TTg ngày 9 tháng 2 năm 2013.
2. Các Di tích cấp quốc gia
     2.1. Di tích lịch sử Rôộc Cồn (lưu niệm phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931), xã Phú Phong
     Di tích lịch sử Rôộc Cồn nằm trên địa phận xã Phú Phong.
     Di tích Rôộc Cồn: Trước đây, Rôộc Cồn là vùng đồi, xung quanh được bao bọc bởi cây cối um tùm. Ngày 20/4/1931, nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh, biểu tình lớn của nhân dân trong vùng hưởng ứng phong trào cách mạng 1930 - 1931 dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng xã Phú Phong. Đây là cuộc biểu tình tiêu biểu cho phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở Hương Khê. Thực dân Pháp đã đàn áp đẫm máu những người tham gia biểu tình[18]. Để ghi nhớ sự kiện lịch sử này, làm cơ sở giáo dục thế hệ trẻ, Huyện ủy, Ủy ban nhân huyện đã tôn tạo, bảo vệ và xây dựng nơi đây thành Di tích lịch sử. Hiện Di tích Rôôc Cồn rộng 600m2, là một bãi đất trống, được Ủy ban nhân dân huyện quản lý, bảo vệ.
     Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin ra Quyết định số 321/QĐ-BT ngày 12/12/1994 công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
     2.2. Mộ và đền thờ Ngô Đăng Minh xã Hà Linh
     Mộ và đền thờ Ngô Đăng Minh[19] (hay còn gọi là lăng Quan Hầu, đền Quan Hầu, đền Đức Hầu thượng) ở xã Hà Linh là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng quan trọng của Hà Linh nói riêng và huyện Hương Khê nói chung thời kỳ 1930 - 1931.
     Toàn bộ khu di tích mộ và đền thờ Ngô Đăng Minh nằm trên sườn một quả đồi cao, xung quanh có rừng cọ (tro) bao bọc, thuộc xóm Trúc (xóm Bàu), xã Hà Linh. Mộ Ngô Đăng Minh nằm ở phía sau đền thờ và cao hơn đền thờ 15m theo sườn dốc, liền khoảnh với mộ song thân là ông bà Ngô Phúc Ngôn (Ngô Đăng Khản).
     Mộ Ngô Đăng Minh: Mộ Ngô Đăng Minh có chiều rộng 2,5m, chiều dài 3,24m, chiều cao 0,8m, được xây bằng gạch chỉ, vữa tam hợp, hình chữ nhật, phần trên đắp đất tự nhiên. Phía đầu mộ gối lên đỉnh đồi, chân hướng về phía đền thờ (hướng Tây). Khu đất đặt mộ có diện tích hơn 100m2. Xung quanh thành mộ được tạo các gờ nổi có chiều dày từ 8 - 10cm.
     Đầu mộ được đắp một án để đặt bát hương hình chữ nhật, cao so với mặt trên của mộ 86,6cm. Án đặt bát hương giống như một hậu bành tạc bằng gỗ đặt trong các điện thờ.
     Theo gia phả của dòng họ thì đây là là mộ hung táng vì sau khi được đưa bằng thuyền về quê hương, thi hài ông được táng ở đây, không có tư liệu nào nói đến việc cải táng về sau.
     Đền thờ Ngô Đăng Minh: Từ mộ đi lên 26 bậc tam cấp là đến đền thờ Ngô Đăng Minh. Chính giữa sân phía trước đền là tắc môn, xây gạch, trát vữa, hình chữ nhật.
     Hạ điện là ngôi nhà gỗ 3 gian, gian giữa treo bức đại tự sơn son chữ đen Quang tiền dư hậu, tiếp dưới là một bức đại tự sơn son chữ đen Vĩnh ngôn hiếu tư. Treo hai bên bức đại tự là một cặp cân đối: "Đức tháo thiên bồi Hồng Lĩnh tú, Phúc nguyên địa dẫn Trúc Giang thanh".
     Thượng điện là ngôi nhà gỗ, nằm ở vị trí trung gian, vuông góc với hạ điện, có cấu trúc 3 vì, hai gian: gian trước đặt hương án, chân đèn, mâm bồng; gian trong đặt một bệ thờ sơn son thiếp vàng.
     Trước thềm thượng điện xây một hương án bằng gạch trát vữa đặt bát hương để nhân dân và con cháu tiện thắp hương khi không có ông từ mở cửa.
     Kiến trúc đền thờ Ngô Đăng Minh hài hòa, cân đối, dáng vẻ cổ kính. Trải qua gần 300 năm vẫn giữ được khá nguyên vẹn. Đồ tế khí, đại tự, câu đối có giá trị nghệ thuật cao. Di tích lại liên quan đến một số sự kiện cách mạng thời kỳ 1930 - 1931 và Cách mạng tháng Tám (1945) nên càng có giá trị về mặt lịch sử.
     Di tích được Bộ Văn hóa - thông tin công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 460 QĐ/BT ngày 18 tháng 3 năm 1996.
     2.3. Quần thể di tích thành Sơn Phòng, đền Cộng Đồng, đền Trầm Lâm xã Phú Gia
     Thành Sơn Phòng: Thành Sơn Phòng là di tích gắn liền với tên tuổi của vị vua yêu nước Hàm Nghi và phong trào Cần Vương chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. Vì vậy, tòa thành này được gọi ghép thành Sơn Phòng Hàm Nghi. Đây là một tòa thành nhỏ, trên núi Ấu Sơn, thành được xây dựng từ khi lập đường Hà Trại - Quy Hợp do Chánh sứ Nguyễn Chánh trông giữ, trước tháng 9.1885.
     Thành Sơn Phòng được xây dựng theo hình chữ nhật, có diện tích 4.200 m2, trong đó chiều rộng 200 m, chiểu dài 210 m. Bốn mặt thành đều có cổng, các góc lồi tạo hình nửa bát giác để làm bốt canh, xung quanh có hệ thống giai thành và hào nước sâu.
     Tường thành ngoại là một vòng khép kín được đắp nối với nhau tạo dáng như một hình thang, cao từ 2 - 2,2m. Mặt ngoài tường gần như dốc đứng, rất khó có thể trèo lên được, ngược lại mặt trong ở những nơi trọng yếu lại thoai thoải, có thể lên xuống dễ dàng. Với cấu trúc tường thành như vậy, kẻ thù bên ngoài rất khó trèo lên nhưng quân đội trong thành lại dễ lên mặt thành để tiêu diệt kẻ thù. Tại 4 góc phía trong và phía ngoài của thành được đắp 4 ụ đất, có thể đây là 4 ụ súng hỏa hồi.
     Thành có 4 cửa được trổ tại 4 hướng của 4 cung thành, đó là các cửa Nam, Bắc, Tây, Đông. Trong đó, cửa chính thành quay về hướng Nam.
     Dưới chân thành có hệ thống hào nước sâu bao quanh. Ngoài ra, hào thành Sơn Phòng còn là đường giao thông thủy bộ quan trọng nối liền với các khu vực trong thành và cũng là con đường rút lui ra sông Tiêm để vào rừng núi khi có biến. Hiện nay, 4 dãy hào thành Sơn Phòng đã bị hư hỏng nhiều, chỉ dãy hào mặt tiền cơ bản giữ nguyên được trạng thái ban đầu.
     Lũy đất ngoài thành: Rải rác trên cánh đồng Phú Gia, đặc biệt là quanh khu di tích Thành Sơn Phòng còn lại một số gò đất, đó là một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc phòng vệ của Thành Sơn Phòng. Ngoài việc để tự vệ, các gò đất còn làm thành một hệ thống tiền vệ. Các gò đất này theo một số cụ già cho biết đó là gò giáo, gò bắn, gò dài…
     Đền Trầm Lâm: Đền Trầm Lâm có tên dân gian là miếu Trăm Năm, thờ Đức Thánh Mẫu, có từ thế kỷ XIV.
     Đền Trầm Lâm tọa lạc tại xóm Phú Thành, xã Phú Gia, có tổng diện tích 6.000m2. Trước đây, đền rộng lớn, linh thiêng, nằm giữa rừng cây cổ thụ u tịch. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (từ 1965 - 1973), bom, đạn Mỹ đã làm hư hỏng nên di tích chỉ còn ngôi Miếu, một nhà bái đường mới xây dựng vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
     Đền ngoảnh hướng Nam, phía trước là hồ nước sâu hình bán nguyệt. Sách Đại Nam nhất thống chí viết về hồ nước này như sau: Bốn mặt là núi đất, trong đó có cái ao chừng nửa mẫu, sắc nước như chàm, sâu không lường được, mưa lũ không đầy hơn, hạn hán không vơi cạn".
     Ngày nay, nhiều di vật của đền không còn nhưng hồ nước trong xanh cùng những huyền thoại xung quanh hồ vẫn được nhân dân địa phương giữ gìn và truyền tụng. Đền Trầm Lâm được coi là thắng cảnh linh thiêng bậc nhất ở Hương Khê.
     Đền Công Đồng: Đền Công Đồng ở địa điểm gần thành Sơn Phòng, thờ hai vị Đức Đại vương có công đánh giặc giữ yên bờ cõi, khai sơn phá thạch, chiêu dân lập ấp. Những năm 1930 - 1931, đền Công Đồng là nơi hoạt động bí mật của chi bộ Đảng Phú Gia; đền cũng là địa điểm để nhân dân Phú Gia tập trung kéo lên huyện đường đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.
     Đền Công Đồng được xây theo hướng Nam chếch Đông, tổng diện tích 2.100m2. Trước đây, đền gồm 2 tòa hạ điện và thượng điện, song thời chiến tranh phá hoại máy bay Mỹ đã làm hỏng phần nhà, chỉ còn nền. Sau năm 1975, đền được nhân dân xây dựng lại là ngôi nhà tranh, đến năm 2000 được đầu tư xây dựng lại như ngày nay. Đền Công Đồng được xem là nơi linh thiêng nhất của huyện Hương Khê, hiện đang lưu giữ 37 đạo sắc.
     Quần thể di tích thành Sơn Phòng - đền Công Đồng - miếu Trần Lâm mang giá trị lịch sử - văn hóa - nghệ thuật và giáo dục cao. Hàng năm, các trường học đều tổ chức cho học sinh đến tham quan, học tập.
     Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin ra Quyết định số 52/2001/QĐ-BVHTT ngày 28 tháng 12 năm 2001 công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia.
     2.4. Di tích lịch sử chứng tích tội ác chiến tranh trường Cấp 2 Hương Phúc xã Hương Phúc
     Di tích nằm trên địa bàn xóm 8 xã Hương Trạch. Tên gọi và vị trí của di tích từ trước tới nay không thay đổi, nhưng tên gọi hành chính cấp xã thuộc địa bàn có di tích thay đổi qua các giai đoạn lịch sử. Trước năm 1970, là xóm Tân Hào xã Hương Phúc; từ năm 1971 (do sự hợp nhất hai xã Hương Trạch và Hương Phúc), là xóm Quyết Tiến xã Hương Trạch.
     Trường cấp 2 Hương Phúc được thành lập tháng 9.1965, là nơi học tập của con em 3 xã vùng sâu của huyện Hương Khê (Hương Phúc, Hương Trạch và Hương Lĩnh).
     Do tính chất trường học trong thời chiến tranh nên trường chỉ có 3 lớp học (2 lớp 5 và 1 lớp 6). Các lớp học được làm sâu xuống lòng đất, có 3 hầm trú ẩn lớn, mỗi hầm cách nhau 200m. Mỗi lớp học có hệ thống hào chạy tỏa ra xung quanh khu vực dân cư. Hai bên hệ thống hào có hầm trú xen kẽ, mỗi hầm cách nhau 5m. Hệ thống hầm trú ẩn được làm kiên cố theo kiểu hầm chữ A (hình kèo chữ A).
     16h 30 phút ngày 9/02/1966, một tốp máy bay F4 của Mỹ ném 58 quả bom xuống khu vực dân cư xã Hương Phúc, có 6 quả bom rơi vào khu vực trường, trong đó có 2 quả rơi vào lớp 5A do thầy Thái Văn Nhậm đang giảng dạy. Toàn bộ lớp học 2 gian bị bom Mỹ phá hủy. Tổng số có 33 em học sinh bị chết tại chỗ. Số học sinh và thầy giáo bị thương được đưa về bệnh viện huyện Hương Khê cấp cứu. Các em học sinh bị giặc Mỹ giết hại và bị thương đều là con em của 2 xã Hương Trạch (Hương Phúc, Hương Trạch) và Hương Lĩnh, đang ở tuổi 12.
     Địa điểm trường cấp 2 Hương Phúc khi bị giặc Mỹ ném bom ngày 9/02/1966 có diện tích 504m2. Di tích gồm hố bom 1 (đường kính 10m, sâu 4,5m, cách tường bao sau đài tưởng niệm 1,4 m), hố bom 2 (đường kính 12m, sâu 5m, cách hố bom 1 là 8m).
     Để tưởng nhớ 33 học sinh bị giết hại và ghi sâu tội ác của đế quốc Mỹ đối với trường cấp 2 Hương Phúc, năm 1988 Đài tưởng niệm được xây dựng ở vị trí sát hố bom 1. Đài tưởng niệm có diện tích 10,6m x 9,6m, cao 3,8m. Mặt trước đắp nổi dòng chữ "Bia tưởng niệm". Trên đỉnh dòng chữ được đắp nổi ngôi sao năm cánh. Phía dưới là biểu tượng trang sách học trò. Dưới cùng là dòng chữ đắp nổi: "Nơi đây 33 em học sinh trường cấp 2 Hương Phúc bị giặc Mỹ giết hại ngày 9/2/1966".
     Toàn bộ di tích nằm trên địa hình bằng phẳng. Phía trước di tích là Quốc lộ 15A, phía Tây và phía Bắc là khu dân cư, phía Đông là đường làng. Hiện vật còn lại 3 cuốn vở học sinh.
     Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin ra Quyết định số 53/2001/QĐ-BVHTT ngày 28 tháng 12 năm 2001 công nhận là Di tích lịch sử địa điểm chứng tích tội ác chiến tranh tại trường cấp 2 Hương Phúc.
     3. Các di tích cấp tỉnh
     3.1. Di tích lịch sử nhà thờ họ Nguyễn Quốc (xã Hà Linh)
     Nhà thờ họ Nguyễn Quốc được xây dựng vào cuối thế kỷ XV, thờ 5 vị Tiên tổ có công tham gia đánh giặc Minh thời nhà Lê và thành lập làng ở Hà Linh. Đến cuối thế kỷ XVIII, dòng họ có ông Nguyễn Chân Châu, một võ quan dưới triều vua Lê Cảnh Hưng, có công đánh giặc, được vua phong 2 đạo sắc trong một ngày (Cảnh Hưng Tứ thập tứ niên, Nhị Nguyệt, Nhị thập Lục Nhật - tức ngày 26 tháng 2 năm 1783 ). Hiện nay, 2 sắc phong này vẫn được bảo quản trong Nhà thờ họ Nguyễn Quốc.
          + Đạo sắc thứ nhất (phiên âm): “Sắc Hương Sơn, Hà Linh xã. Đội trưởng Nguyễn Chân Châu, tả phụng sự vương sơ chính thôi cập chư quán, dực đái song nhị do trung trấn cơ ưu binh nhất tâm suy đại. tại khả tương lực duy kính kháng chuẩn ưng thăng chức nhất thử “ Bách hộ chức ” khả vi phấn lực tướng quân Hiệu mệnh Tư bách hộ hạ trật, cố sắc”.
          (Cảnh Hưng Tứ thập niên, Nhị Nguyệt, Nhị thập lục nhật, tức ngày 26/2/1783).
          + Đạo sắc thứ hai (phiên âm): “Sắc Hương Sơn huyện, Hà Linh xã, Bách hộ Nguyễn Chân Châu, Nhâm dần niên phụ, tá phụng tự vương niên phong vương vị, thôi cập chư quân dực đái song nhị do trung trấn cơ ưu binh nhất tâm suy đại tại khả tương lực duy kính kháng chuẩn ứng, thăng chức nhất thứ tái khăm thượng nhất chư ưng Thiên hộ chức. Khả vi tráng tiết tướng quân, hiệu mạnh xung kim tráng sĩ xiết kỵ, ủy khả thiên hộ trung liệt”.
          (Cảnh Hưng tứ thập tứ niên, Nhị Nguyệt, Nhị thập lục nhật, tức ngày 26/2/1783).
          Trải qua thời gian trên 500 năm, Nhà thờ họ Nguyễn Quốc đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Nhà thờ được làm bằng gỗ mít, ba gian, có chạm khắc hoa văn tinh tế. Vị trí nhà thờ ở chính giữa làng Hà Linh, xung quanh là nhà dân bao bọc, phía trước nhà thờ là đường quan, phía sau có dòng sông Ngàn Sâu chảy qua. Tháng 6 năm 1966, đế quốc Mỹ thả bom cháy xuống địa phương, thiêu trụi 30 nhà dân. Toàn bộ nhà thờ họ Nguyễn Quốc với các đồ thờ, gia phả cũng bị thiêu rụi. Đến năm 1977, theo chủ trương di dời nhà dân lên đồi để lấy đất sản xuất nông nghiệp, Nhà thờ họ Nguyễn Quốc được xây dựng lại trên triền đồi thuộc rú Cồn Chệnh, thôn 9 xã Hà Linh. Năm 1995, nhà thờ được tu sửa trên diện tích 2.500m2, kiến trúc kiểu chữ Nhị, mặt ngoảnh về hướng Đông Nam, gồm cổng vào, nhà Bái đường và Thượng điện, phía bên phải nhà Bái đường có xây một Am thờ bà mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Đích, có con độc nhất là Liệt sĩ Nguyễn Quốc Xán, hy sinh trong thời kỳ 1930 - 1931.
          Hiện nay, nhà thờ có tổng 40 hiện vật, gồm : Sắc phong (bản gốc), bài vị (còn tốt), lư hương (đồng và sứ), chân đèn, cọc nến, hoành phi, câu đối, trống, chiêng, cờ hội.
          Di tích lịch sử nhà thờ họ Nguyễn Quốc có giá trị lịch sử lớn, không những là nơi thờ cúng các vị tiên tổ dòng họ Nguyễn Quốc trên 5 thế kỷ, mà là nơi thành lập chi bộ đầu tiên của huyện Hương Khê và chứng kiến nhiều hoạt động yêu nước của các nhà cách mạng tiền bối tỉnh Hà Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp những năm đầu thế kỷ XX.
          Nhà thờ họ Nguyễn Quốc được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định 2176 QĐ/UB - VX công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ngày 26 tháng 11 năm 2004.
          3.2. Di tích lịch sử - văn hóa đền thờ Trần Phúc Hoàn và chùa Bảo Lâm (xã Hương Vĩnh)
          Đền Trần Phúc Hoàn (đền ông Quận) và chùa Bảo Lâm (Bảo Lâm tự) là quần thể di tích thuộc xã Hương Vĩnh.
          Theo gia phả họ Trần xã Hương Vĩnh và các văn bản gốc lưu giữ tại đền Trần Phúc Hoàn từ nhiều thế kỷ (gọi là “Hòm tư liệu Quy Hợp”) thì châu Quy Hợp (nay bao gồm cả phần đất thuộc huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình) hình thành từ thế kỷ XI,  thuộc vùng tây - nam của nước Đại Việt.
          Trần Phúc Hoàn là người có công quản lý địa bàn hành chính rộng lớn với nhiều bộ tộc quy phục quốc gia Đại Việt thời Lê - Trịnh. Ông là một cai quan, một chỉ huy tài giỏi, vừa là Phụ đạo châu Quy Hợp, kiêm Tổng binh đồn Quy Hợp và kiêm chức Thông sự với Lào. Trần Phúc Hoàn có công lớn trong việc xây dựng châu Quy Hợp thành vùng đất có nền kinh tế, xã hội, quân sự và ngoại giao phát triển. Sau khi ông mất, được phong làm phúc thần, tước hiệu Đại vương và lập đền thờ tại quê nhà, nhân dân quen gọi là Đền cụ Quận.
          Quận công Trần Phúc Hoàn còn là người có công xây dựng và hưng công lập chùa Bảo Lâm làm nơi tu hành cho các đạo hữu tín đồ đạo Phật.
          Đền thờ Trần Phúc Hoàn
          Đền nằm giữa khu dân cư liền kề, hướng Đông. Khung nhà đền làm bằng gỗ mít vững chắc, gồm ba gian thiết kế theo chiều dọc có hành lang (hiên mái) bao quanh. Mái lợp ngói máy, nền láng vữa xi măng, sân lát gạch đất nung.
          Trước đền thờ là một khoảng sân dài lát gạch. Sát sân đền có dựng miếu thờ thổ thần quy mô nhỏ và đơn giản. Gian trong đền là nơi thờ tự, hai gian ngoài để trống làm nơi hành lễ.
          Ngày 14.9 (âm lịch) hàng năm là ngày lễ tế Trần Phúc Hoàn (tức ngày mất, không rõ năm mất). Nhân dân và con cháu làm lễ linh đình suốt hai ngày hai đêm. Những tư liệu về vùng đất Quy Hợp lưu giữ ở đền được coi là bộ “Bách khoa thư” vê châu Quy Hợp.
          Chùa Bảo Lâm
          Chùa Bảo Lâm có diện tích gần 1 ha, ở khu vực rìa làng, sát bờ sông Tiêm. Chùa được xây dựng từ đầu thế kỷ XVIII, đến nay đã qua nhiều lần tu sửa, nhưng vẫn giữ nguyên được kiến trúc cũ.
          Chùa Bảo Lâm gồm hai tòa nằm trong khu đất bằng phẳng. Tiền đường (rộng hơn 40m2) là ngôi nhà bằng gỗ mít 3 gian. Gian giữa rộng 2,8m x 6m. Toàn bộ tiền đường để trống làm nơi hành lễ, gian giữ xây một bàn thờ đặt lư hương, đèn nến. Hai gian bếp đặt hai bộ bàn thờ gỗ có mâm bồng, lư hương, đài, trản, đèn, nến.
          Toàn bộ không gian ngôi thượng điện được sử dụng làm nơi thờ tượng phật, gồm 27 pho tượng gỗ cổ. Gian giữa từ trên xuống thờ tượng Tam thế phật, Quan Âm phật và Thích ca phật (tượng Cửu Long) cùng Bồ tát, Tiên đồng, Ngọc nữ. Sát tường phía sau và hai bên là nơi thờ tượng phật cổ. La hán và Tăng Phật. Phía bên trái dành một khoảng trang trọng đặt tượng bằng gỗ thờ hai ông bà Trần Phúc Hoàn trong khảm thờ bằng gỗ. Tất cả 27 pho tượng đều tạc bằng gỗ mít mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ XVII.
          Ngoài ra, trong chùa còn đặt thờ nhiều mâm đồng, lư hương, chân đèn, đài trản, hạc gỗ và một số đồ thờ bằng gốm sứ khác. Những đồ thờ này tuy không sắc sảo, độc đáo nhưng đều là đồ thờ cổ và nguyên bản, rất có giá trị.
          Đền Trần Phúc Hoàn và Chùa Bảo Lâm tuy quy mô không lớn nhưng đến nay vẫn giữ được các nếp nhà cổ xưa. Quần thể di tích được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 2176 QĐ/UB-VX ngày 26 tháng 11 năm 2004 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.3. Di tích lịch sử - văn hóa nhà thờ Võ Đình Cận (xã Hương Giang)
          Nhà thờ Võ Đình Cận hiện nằm ở vị trí xóm 3 xã Hương Giang, trong một khu vườn rộng hơn 1.000m2, xung quanh là nơi ở của con cháu họ Võ.
          Võ Đình Cận là người đã có công trong việc khai hoang lập làng tại vùng miền núi đông nam của huyện Hương Khê thế kỷ XIX. Đặc biệt, ông là người có công lớn trong việc xây dựng đập nước tại khe Ba Mũi cùng với hệ thống mương máng tưới tiêu cho hàng trăm héc ta lúa. Để tưởng nhớ công ơn của ông, nhân dân Hương Giang (trước đây là Phúc Lộc) đã lập đền thờ.
          Nhà thờ là một ngôi nhà được làm bằng gỗ lim, hướng đông, diện tích lòng nhà 60,24m2 với kết cấu 3 gian 4 vì kèo. Gian giữa thờ Tỵ tổ là ông Võ Lộng với bài trí bài vị, long ngai, hai hạc chầu, cọc đèn, lư hương. Gian bên trái thờ Võ Đình Cận và các tiên tổ dòng họ Võ với bài trí bài vị, long ngai, hai hạc chầu, cọc nến, lư hương. Gian bên phải thờ các vị tiền hiền và hậu hiền dòng họ Võ cùng với bài vị, lư hương. Hiện nay, nhà thờ có tổng số 21 hiện vật các loại.
          Nhà thờ được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 412/QĐ/UB-VX ngày 14 tháng 03 năm 2005 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
               3.4. Di tích Lịch sử văn hóa chùa Hạ Phúc (xã Lộc Yên)
  Chùa Hạ Phúc (Hạ Phúc tự), có tên cũ là chùa Thái Yên (Thái Yên tự). Năm Mậu Ngọ (1858), vua Tự Đức cấp tiền bạc tôn tạo lại nên chùa đổi tên là Hạ Phúc, chữ Hạ Phúc ở đây có nghĩa là phúc đến, phúc ở lại.
          Theo thần phả của làng Phúc Lộc xưa thì chùa Thái Yên được xây dựng vào thời nhà Lý - thế kỷ XII, tôn tạo vào thời hậu Lê, trùng tu vào thời nhà Nguyễn - năm Tự Đức thứ 11 (1858) được đổi là chùa Hạ Phúc và lần trùng tu gần đây nhất vào năm Bảo Đại thứ 8 (1933).
  Chùa Hạ Phúc là di tích tôn giáo có kiến trúc theo kiểu chiều dọc, hướng nam, gồm 5 gian. Nơi bày các tượng Phật và các ban thờ từ thấp đến cao ở ba gian trong. Vị trí trang trọng nhất có bệ tượng thờ với ba pho tượng Tam thế được sơn son trong tư thế ngồi thiền vững chãi trên đài sen. Ba pho tượng mang nhiều nét khái quát theo quy định chung của tượng Phật, nhưng bộ mặt phảng phất nét nữ tính, thuần hậu, gần gũi.
  Hai bên tượng Tam thế có hai pho tượng là Thập Bát Long Thần và Huyền Trang ngọc nữ trong tư thế ngồi thiền vững chãi trên đài sen. Phía trước có tượng thờ Phật Quan Âm Bồ tát. Hàng dưới có hai pho tượng đứng sơn son, đội mũ quan, đó là tượng Thanh Tịnh và Đại hải Bồ tát. Hàng phía trước có 3 pho tượng trong tư thế ngồi, ở giữa là tượng Ngọc Hoàng, hai bên là hai pho tượng Bắc Đẩu và Nam Tào. Hàng ngoài cùng có pho tượng Phật Tổ Như Lai bằng gỗ.
  Hiện nay, chùa bảo lưu được khá nhiều hiện vật cổ: Tượng Phật Tam Thế, Tượng Thập bát long thần, Tượng Huyền Trang ngọc nữ, Tượng Quan Âm Bồ tát, Tượng Thanh Tịnh, Tượng Đại hải Bồ tát, Tượng Ngọc hoàng, Tượng Bắc Đẩu, Tượng Nam Tào, Tượng Quan Âm, Bát hương, Cọc nến, Mâm bồng, Mâm thờ.
  Chùa Hạ Phúc có giá trị lịch sử - văn hóa, được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 1973/QĐ-UBND ngày 14 tháng 8 năm 2006.
  3.5. Quần thể di tích lịch sử - văn hóa chùa Phúc Linh và đền Voi Ngựa (xã Gia Phố)
               Chùa Phúc Linh
  Chùa Phúc Linh (chùa Gia Phố) có từ đời nhà Trần, ra đời cùng với sự hình thành của làng Gia Phố. Lúc đầu chùa có quy mô nhỏ, lợp tranh, đến đầu thời vua Tự Đức (1848 - 1853), chùa được đại trùng tu thành 3 gian nhà to bằng gỗ mít, có đầy đủ tượng Phật được sơn son thiếp vàng. Năm 1932, chùa bị đổ sập hoàn toàn do bão, năm 1933 được dân làng Gai Phố xây dựng lại. Năm 1999, nhân dân địa phương lại góp công của trùng tu, tôn tạo theo kiến trúc của những năm 1933.
  Chùa có kiến trúc 2 tầng giật cấp, cao 5,3m, chiều dài 4,9m, chiều rộng 3,5m. Trên đỉnh nóc mái có trang trí hình hai con rồng chầu mặt nguyệt, ở 4 góc mái của 2 tầng được xây dựng cong vuốt lên và đều có gắn đầu đao trong tư thế leo lên. Ba phía tường xây kín không có cửa, mặt trước đắp biển theo dạng cuốn thư ghi 3 chữ Hán “Phúc Linh Tự” (chùa Phúc Linh). Hai bên cấp mái có đôi câu đối bằng chữ Hán.
  Mặt trước tầng dưới có mở cửa ra vào, cửa 3 cánh, phần trên xây vòm cuốn ghi hàng chữ “Không tham là phúc”. Hai bên đều có đôi câu đối bằng chữ Hán.
  Phía trước nhà thờ có xây dựng một bệ thờ, trên đặt bát hương, trước sân có đặt một pho tượng Phật Quan âm trong tư thế ngồi thiền, hai tay chắp đằng trước, hai chân ngồi xếp bằng, nhắm mắt, mình mặc áo cà sa.
  Do diện tích trong nhà nhỏ nên bài trí nội thất cũng đơn giản với 3 cấp thờ: trên cùng là hệ thống tượng thế trong tư thế ngồi thiền trên tòa sen, đầu đội mũ; cấp giữa bày 2 pho tượng Phật Quan âm bằng sứ, tọa trên đài sen; cấp dưới cùng bày tượng Phật Cửu Long trong tư thế đứng, xung quanh là các pho tượng phật được kết dính với nhau theo thể liên hoàn.
  Đền Voi Ngựa
Đền Voi Ngựa được hợp tự từ 3 đền làng của xã Gia Phố trước đây, còn có tên là đền Gia Phố. Địa điểm ở khu đất phía nam chùa Phúc Linh, cạnh nhà thánh, tạo thành một hệ thống liên hoàn khu sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương với đủ tín ngưỡng văn hóa thờ Phật, Thánh và Thần.
          Đền có kiến trúc theo kiểu chữ nhị, bao gồm: 3 gian nhà thượng điện, 3 gian nhà Bái đường. Hai bên hai dãy nhà Trù, trước đền có hồ nước trồng sen. Đền Voi Ngựa đã bị phá hủy hoàn toàn trong kháng chiến chống Pháp.
  Di tích đền Voi Ngựa và chùa Phúc Linh còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật có bài trí công phu, được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 238/QĐ-UBND ngày 23/01/2007 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
3.6. Di tích lịch sử - văn hóa đền Ngàn Trụ (xã Phú Gia)
Đền Ngàn Trụ thờ tướng quân Dương Đô[20] thời Hậu Lê. Trước năm 1945, đền thuộc địa danh Trại Trụ, xã Loan Dạ (tức Lon Dạ), tổng Chu Lễ; sau năm 1945 thuộc thôn Phú Lâm, xã Cao Thắng; năm 1949, xã Cao Thắng sáp nhập với xã Hương Long thành xã Hàm Nghi; năm 1954, chia xã Hàm Nghi thành 3 xã Hương Long, Hương Phú, Hương Thành; năm 1973, xã Hương Phú đổi tên thành xã Phú Gia.
          Đền Ngàn Trụ tọa lạc trên khuôn viên rộng, thoáng, diện tích 13.000m2, ngoảnh ra sông Tiêm, dựa lưng vào núi Nhạc Sơn. Các hạng mục kiến trúc chính được bố trí hình chữ nhị, gồm: hệ thống cổng, tắc môn, hạ điện, thượng điện.
          Đền Ngàn Trụ được coi là đền thánh thiêng, nhân dân địa phương thường xuyên đến cầu cúng. Hiện nay, đền lưu giữ được 47 hiện vật: hương án, hoành phi, đôi câu đối, cọc sáp, thẻ bài, lư hương, vỏ gươm, trống long ngai, ống sắc, hòm đựng tư liệu, sắc phong, cờ hiệu, cờ ngũ hành, nghê cổ, chim hạc, ghế ngự thần, lọ hoa, tiền cổ.
          Đền được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 360/QĐ-UBND ngày 31 tháng 01 năm 2008 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.7. Di tích lịch sử - văn hóa nhà thờ Phạm Đình Ban, Phạm Đình Chân (xã Hòa Hải)
          Phạm Đình Ban, Phạm Đình Chân là những nhân vật lịch sử có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai vào những năm cuối thế kỷ XIX. Hai ông đã anh dũng hy sinh tại vùng rừng núi Vũ Quang khi tuổi đời còn rất trẻ.
          Nhà thờ Phạm Đình Ban, Phạm Đình Chân ở xóm 14, xã Hòa Hải. Nhà thờ gồm một ngôi nhà chính, có kiến trúc nhà gỗ lim theo kiểu chiều ngang có chiều dài 8,24m, chiều rộng 5,72m với 3 gian. Phía trên mặt trước có biển đề 3 chữ quốc ngữ và 3 chữ Hán “Họ Phạm Đình”.
          Nhà thờ mở 3 cửa ở 3 gian, gian giữa thờ tổ tiên, hai gian hai bên thờ hai vị tổ Phạm Đình Ban, Phạm Đình Chân. Hiện nhà thờ còn lưu giữ 79 hiện vật: giá gươm, lư hạc, hương, long ngai, kiếm, mác, súng kíp, bát bồng.
          Di tích được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 360/QĐ-UBND ngày 31 tháng 01 năm 2008 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.8. Di tích lịch sử - văn hóa nhà thờ Hồ Văn Hoa (xã Phương Mỹ)
          Hồ Văn Hoa là người có nhiều đóng góp trong phong trào Tây Sơn, nhất là trong việc giúp đỡ Nguyễn Huệ tuyển mộ hàng vạn binh hùng tướng mạnh ở Nghệ Tĩnh bổ sung vào lực lượng hùng hậu của nghĩa quân Tây Sơn, góp phần vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược.
          Di tích nhà thờ Hồ Văn Hoa hiện nay tọa lạc tại thôn Thổ Hoàng, xã Phương Mỹ. Di tích được khởi dựng vào năm 1895 dưới triều vua Thành Thái, gồm miếu thờ, tắc môn và cột nanh. Qua thời gian và bom đạn chiến tranh, di tích đã bị xuống cấp. Nhà thờ Hồ Văn Hoa trước đây là nhà thờ họ, nhưng nay dòng thờ chính lại là nơi thờ Hồ Văn Hoa. Di tích chỉ là một ngôi nhà gỗ mít tứ trụ 3 gian, cao 4m, ngoảnh mặt về hướng Tây, ba mặt phía đông, nam, bắc được xây tường bao, phía trước để thoáng, không có cửa.
          Nhà lợp ngói, nền lát gạch men màu hồng nâu trơn bóng, bằng phẳng, tạo không gian thoáng mát.
          Theo một số chữ hán được khắc trên thượng lương thì ngôi nhà này được xây dựng vào năm 1941. Nhà thờ còn lưu giữ được 15 hiện vật: sắc phong, mâm cổ bồng, cọc đèn cầy, lư hương, khay có chân.
          Nhà thờ Hồ Văn Hoa là chứng tích lịch sử được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 1800/QĐ-UBND ngày 22 tháng 6 năm 2010 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.9. Di tích lịch sử - văn hóa đền Nhạ Sơn (xã Hương Xuân)
          Đền Nhạ Sơn tại xã Xuân Lũng, tổng Quy Hợp xưa, nay thuộc xã Hương Xuân. Đền được xây dựng trước thế kỷ XVIII và đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Đền ngoảnh hướng đông nam, bao gồm các hạng mục: cột nanh, hạ điện và thượng điện.
          Đền Nhạ Sơn vừa là nơi sinh hoạt văn hóa truyền thống, vừa là nơi những người yêu nước ở địa phương tập hợp để tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp, phong trào cách mạng 1930 - 1931, đây cũng là địa điểm diễn ra các cuộc họp chi bộ Đảng của xã Xuân Lũng.
          Đền Nhạ Sơn không chỉ thờ một vị thần như nhiều đền khác mà có đến 12 vị thần. Những người có công với dân với nước, không kể họ là nhân thần, văn thần hay võ tướng đều được dân làng rước vào thờ trong đền. Hiện nay, đền lưu giữ được 15 đạo sắc:  Sắc vua Tự Đức (3 đạo), Sắc vua Đồng Khánh (1 đạo), Sắc vua Thành Thái (1 đạo), Sắc vua Duy Tân (1 đạo), Sắc vua Khải Định (4 đạo) và 5 đạo sắc đã bị rách không đọc được. Ngoài ra, đền còn lưu giữ khá nhiều hiện vật: hòm sắc, ống đựng sắc, mũ cánh chuồn, gươm thờ, long ngai, bài vị, lư hương, lọ hoa, mâm bồng, mâm.
          Di tích đền Nhạ Sơn được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 3005/QĐ-UBND ngày 16 tháng 9 năm 2011 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.10. Di tích lịch sử - văn hóa đền Tam tòa (xã Lộc Yên)
          Đền Tam Tòa thuộc thôn Tân Đình xã Lộc Yên. Tương truyền, đền được xây dựng thế kỷ XI, thờ Uy Minh vương Lý Nhật Quang sau khi ông qua đời, vị trí đền gần chùa Hạ Phúc hiện nay.
          Đền có kiến trúc thời Lý, gồm một ngôi thượng 3 gian, hai nhà hạ đường, hai bên có nhà cầu, đều được làm bằng gỗ thiết mộc. Cuối thế kỷ XIX, đền bị phá hủy hoàn toàn, năm 1921 đền được xây dựng tại địa điểm hiện nay.
          Đền Tam Tòa hiện nay có diện tích 2.446m2, phía trước đền là nơi hội tụ của hai con sông Ngàn Sâu và Rào Nai, phía sau đền có nhiều cây cổ thụ, trong đó có cây muỗm cổ thụ hàng trăm năm tuổi.
          Trước đền là 2 cột nanh uy nghiêm, là dấu tích kiến trúc còn sót lại của công trình to lớn và cổ kính trước đây. Cột nanh mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
          Hiện nay, đền còn lưu giữ một đầu rồng lưỡng long vọng nguyệt được chạm khắc hoa văn thời Lý và 25 chữ sắc phong Vua ban. Ngoài ra, còn có các hiện vật: kiếm gỗ, ngựa gỗ, lư hương đồng, cọc nến, đỉnh trầm, đèn, lọ hoa.
          Đền Tam được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 360/QĐ-UBND ngày 29 tháng 01 năm 2013 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.11. Di tích lịch sử - văn hóa nhà thờ họ Đặng (Thị trấn)
          Nhà thờ họ Đặng là nơi thờ tự các danh thần ở dòng họ Đặng, có công với nước dưới các triều đại nhà Lê - Nguyễn, đặc biệt trong đó có danh y Đặng Công Biên thuộc đời thứ 2 của dòng họ Đặng có công cung tiến tiền đồng và tiền giấy cho nhà nước dùng vào việc quân.
          Nhà thờ họ Đặng hiện nay nằm ở khu dân cư thuộc tổ dân phố 15, thị trấn Hương Khê. Trải qua thời gian, nhà thờ họ Đặng đã nhiều lần chuyển địa điểm và trùng tu, tôn tạo.
          Năm Duy Tân thứ 7 (1913), nhà thờ họ Đặng được xây dựng bằng gỗ, lợp tranh. Năm 1944, do bị lũ lụt cuốn trôi, con cháu xây dựng lại bằng gỗ mít, lợp ngói tại vùng đất xóm Phổ Tân, xã Gia Phổ. Những năm 1964 - 1972, để hạn chế thiệt hại do chiến tranh phá hoại của Mỹ gây ra, Đảng và Nhà nước chủ trương sơ tán dân ở trục đường 15A, tuy nhiên nhà thờ vẫn ở nguyên vị trí cũ. Năm 1978, nhà thờ họ Đặng bị hỏa hoạn thiêu rụi hoàn toàn, đến năm 1988 được xây dựng lại trên nền đất của gia đình ông Đặng Văn Nguyên. Năm 2003, nhà thờ họ Đặng lại được di chuyển và xây dựng mới tại vườn nhà ông Đặng Viết Bảo với diện tích 500 m2. Hiện nay, nhà thờ họ Đặng mặt hướng tây nam, gồm có các công trình kiến trúc: cổng vào, tắc môn, nhà thờ và nhà cất đồ lễ.
          Cổng vào, được xây dựng theo hình thức cửa mái vòm, cao 4,5m, rộng 2,5m;         Tắc môn, được xây dựng phía trước nhà thờ chính, cao 1,8m, rộng 1,5m; nhà thờ chính xây gạch, 3 gian; nhà cất đồ lễ gồm 3 gian bằng gỗ, dài 6,5m, rộng 5m.
          Nhà thờ họ Đặng được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 3396/QĐ-UBND ngày 31 tháng 10 năm 2013 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.12. Di tích lịch sử - văn hóa nhà thờ họ Mai (xã Hương Long)
          Nhà thờ họ Mai là nơi ghi nhận những người con trong dòng họ đã có nhiều công lao với dòng tộc, tiêu biểu là ông Mai Xuân Lâm - người đã tham gia vào quân đội nhà Lê chinh phạt các thế lực thổ phỉ quấy nhiễu ở vùng biên cương phía tây Nghệ An vào thế kỷ XVIII, được vua Lê Cảnh Hưng ban sắc phong.
          Nhà thờ họ Mai có diện tích gần 400m2, ngoảnh mặt về hướng Đông bắc, bao gồm các công trình chính như sau: Bái đường, hậu cung (Thượng điện), nhà soạn lễ.
          Nhà thờ họ Mai được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 1213/QĐ-UBND ngày 10 tháng 4 năm 2015 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
          3.13. Di tích lịch sử - văn hóa nhà thờ Trần Bá Tước (xã Hòa Hải)
          Nhà thờ Trần Bá Tước có tên thường gọi là Nhà thờ họ Trần - Tri Bản, thờ Trần Bá Tước - người đã từng tham gia nghĩa quân Lam Sơn, có công trong việc giúp Bình Định vương Lê Lợi đánh đuổi quân Minh xâm lược vào những năm đầu thế kỷ XV và đã anh dũng hy sinh khi trực tiếp đánh quân Minh tại thành Nghệ An. Sau khi ông mất, nhân dân địa phương đã lập đền thờ.
          Nhà thờ họ Trần được xây dựng từ lâu đời, trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo vẫn giữ được những nét cổ. Lần xây dựng gần đây nhất là vào năm 1834, đời vua Minh Mạng; đến năm 1982, con cháu họ Trần lại tiếp tục tu bổ và năm 2003 tôn tạo khang trang như hiện nay.
          Kiến trúc nhà thờ gồm: cổng vào, tắc môn, bàn thờ thổ công, nhà thờ chính và hàng rào mặt trước. Nhà thờ chính làm bằng gỗ lim, diện tích 47,74 m2, cấu trúc theo chiều dọc kiểu chữ Đinh.
          Nhà thờ được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số 315/QĐ-UBND ngày 3 tháng 02 năm 2016 công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.


Là một huyện miền núi biên giới, đi lại khó khăn, dân cư thưa thớt, Hương Khê gần như bị biệt lập nên giáo dục không có điều kiện phát triển. Có những làng, những xã cách trung tâm huyện lỵ khoảng 30km, đường độc đạo như Hương Liên, Hương Lâm hay Phương Mỹ... Có những vùng dân cư ở hoàn toàn tách biệt như Rào Tre (Hương Liên), bản Giàng (Hương Vĩnh), Phú Lâm (Phú Gia) hay Tân Sơn (Hòa Hải), Trại Lách, Tùng Sơn (Phương Mỹ), Truông Bát (Hà Linh)... điều này đã gây không ít trở ngại cho hoạt động giáo dục. Việc phân bố trường lớp gặp nhiều khó khăn, có trường phải chia làm 2 điểm trường, các điểm cách xa nhau gần 10 km như tiểu học Phương Mỹ; có những vùng học sinh đi học xa trên 10km. Việc xây dựng những trung tâm giáo dục lớn để thực hiện hiện đại hóa là một thách thức. Bên cạnh khó khăn về vị trí và địa hình, giáo dục Hương Khê còn gặp một khó khăn khác đó là đội ngũ giáo viên. Một phần lịch sử giáo dục Hương Khê gắn liền với giáo viên ngoại huyện, ngoại tỉnh. Có năm số giáo viên mới các huyện lên đến hàng trăm người. Đến rồi đi, khép kín đội ngũ vẫn là sức ép hàng năm trong công tác tổ chức, nhất là những vùng xa xôi hẻo lánh. Tuy vậy, với cố gắng vượt qua khó khăn, giáo dục Hương Khê đang ngày càng phát triển, những năm gần đây Hương Khê nổi lên là một điểm sáng của giáo dục Hà Tĩnh.

I. GIÁO DỤC HƯƠNG KHÊ TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1. Thời Hán học
Trong 150 năm hình thành và phát triển, Hương Khê có đến 40 năm (1867 - 1919) dưới nền giáo dục Hán học. Vì thế, ảnh hưởng của Giáo dục Hán học đến nhận thức của người Hương Khê là không nhỏ, nhất là nền tảng tư tưởng của nó.
1.1. Giáo dục gia đình
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, người Hương Khê trước đây coi trọng giáo dục từ gia đình, coi đó là sự giáo dục đầu đời để làm người, chủ yếu được thực hiện bằng tình cảm, từ sự yêu thương, che chở của ông bà, cha mẹ… đối với con cháu. Giáo dục gia đình là dạy cho con trẻ về đạo lý làm người: biết sống vì mọi người “kính trên nhường dưới”, bao dung độ lượng, “ăn quả nhớ người trồng cây”, sống có trách nhiệm, bổn phận với bản thân, cha mẹ, dòng họ, bà con lối xóm,…
Với quan niệm, “Uốn cây từ thưở còn non/ Dạy con từ thuở con còn đương thơ”, mọi gia đình đều chú trọng đến việc dạy bảo con trẻ. Từng phút, từng giây, cha mẹ truyền cho con những tình cảm, nhận thức, những từng trải của mình trong cuộc sống và những mong ước đối với con khi con khôn lớn, trưởng thành để con lớn lên trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Tình thương yêu, lòng biết ơn, kính trọng đối với ông bà, cha mẹ là những điều đầu tiên mẹ giáo dục con qua lời ru từ thuở mới lọt lòng. Từ mái nhà tranh đơn sơ mộc mạc, có tiếng ầu ơ của mẹ hát ru đưa con vào giấc ngủ say:
Ru con, con ngủ cho muồi,
Mai sau khôn lớn nên người nết na.
Bé thời nghe mẹ nghe cha
Lớn lên nghe thầy, bạn, gần xa trông vào
***
Ru con, con ngủ cho muồi,
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.
Chợ Dinh bán áo con trai,
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.
(Ca dao)
Những bài vè Nghệ Tĩnh về đạo nghĩa sinh thành của cha mẹ và bổn phận làm con đối với cha mẹ cũng được các bà, các mẹ dùng để hát ru. Đó là bài học nhân nghĩa về đạo lý làm người mẹ gửi gắm nỗi niềm, tâm sự và truyền lại cho con:
Giừ ru cho con ngủ
Trời gió rét căm căm,
Nơi ướt át mẹ nằm,
Nơi khô xê con lại,
Nơi ấm bồng con lại,
Trời nắng nồng bức bối,
Chân đưa võng cả ngày,
Mẹ không dám động tay,
Sợ giật mình con dậy.
(Định nghĩa thiên kinh - Vè Nghệ Tĩnh)
Ngoài việc giáo dục con cái qua từng lời ru, câu nói (khuyên răn, dạy bảo), các bậc làm cha, làm mẹ còn lấy hành động của mình làm gương cho con. Cha mẹ là người đầu tiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành hành vi, đạo đức của con trẻ. Sự gương mẫu của cha mẹ được thể hiện ở nhân cách, lối sống cách đối nhân xử thế. Cha mẹ phải sống mẫu mực, phải luôn làm gương cho con và luôn nhắc nhở con sống theo điều hay lẽ phải để sau này khi con lớn lên sẽ noi theo, sẽ có cuộc sống mẫu mực như cha mẹ, hết lòng yêu thương và hiếu thảo với cha mẹ.
Đối với những gia đình có chữ nghĩa việc giáo dục con cái còn được thực hiện qua những bài gia huấn. Gia huấn là những bài học về luân lý, những lời dạy bảo con em trong nhà về vấn đề tu thân để sống cho phải đạo làm người. Điều đầu tiên đó là giáo dục cho con, các thành viên trong gia đình cách đối nhân xử thế và làm trọn bổn phận của mình đối với gia đình, gia tộc. Trước hết là giáo dục cho con biết sống có đạo đức, có tình có nghĩa, có hiếu với cha mẹ.
Ở Nghệ Tĩnh nói chung và Hương Khê nói riêng tồn tại một triết lý giáo dục rất khắt khe, đó là “Ngài thì roi, voi thì búa”. Nghĩa là dùng biện pháp roi vọt theo kiểu bạo lực để giáo dục bằng cách cưỡng bức. Một số gia đình còn có hẳn một ống roi, roi được làm bằng các loại mây, tre, loại roi mảnh nhưng rất đau. Ống roi này được đóng vào giá trên vách nhà như một thứ công cụ có ý nghĩa răn đe đối với trẻ em. Một số lớp học vỡ lòng, hoặc khai tâm, các thầy giáo cũng dùng roi hoặc thước kẻ để đánh học trò. Nhiều em vì sợ đánh mà rất cố gắng học tập.
“Thương cho roi cho vọt, gét cho ngọt cho bùi” là cách dạy con khá phổ biến trong gia đình ở Hương Khê. Lúc con phạm lỗi như nói năng hỗn láo, cãi lời, nói dối… cha mẹ đánh đòn là chuyện bình thường. Cha mẹ “cho roi”, “cho vọt” là để con biết sai và biết sửa sai để sống tốt hơn về sau.
Ngày nay, các gia đình và lớp học hầu như không dùng roi mà dạy dỗ bằng khuyên bảo nhẹ nhàng. Từ khi có luật về quyền trẻ em và chống bạo lực gia đình, việc dùng roi để dạy con dường như mất hẳn.
1.2. Giáo dục nhà trường
Cho đến nay chưa tìm thấy tài liệu về trường học ở Hương Khê thời xa xưa. Chỉ đến cuối thế kỷ XIX ở Hương Khê có một trường Huấn do quan Huấn đạo phụ trách. Làm huấn đạo phải là người đỗ cử nhân. Nhà Huấn là một ngôi nhà gỗ lim 3 gian 2 chái trong một khuôn viên sát huyện đường. Khi Trường Huấn bị bãi bỏ thì nó trở thành trường tiểu học của huyện. Nhiệm vụ của quan Huấn đạo là dạy học sinh lớn từ các xã đến học, coi như đại tập để chuẩn bị đi thi Hương ở Trường Nghệ. Hàng năm, quan Huấn tổ chức “khảo khóa” để chọn học sinh giỏi. Người đỗ đầu gọi là “Đầu huyện”. Có một số ông Đầu huyện khá tiêu biểu như cụ Dương Thế Mỹ người xã Trung Hà (nay là Bình Phúc, Hương Bình), cụ Mai Viết Hồ người xã Phúc Ấm (nay là Hương Long). Nhà Huấn là một ngôi nhà gỗ lim 3 gian hai chái trong một khuôn viên sát huyện đường. Khi trường Huấn bị bãi bỏ thì chuyển thành trường tiểu học của huyện[21].
Năm 1872 cả huyện Hương Khê mới chỉ có một nhà học cấp huyện với 3 bộ sách giáo khoa “Tứ thư nhân vật bị khảo” (Khảo về các nhân vật trong Tứ thư: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử); “Đối sách chuẩn thằng” (Văn sách thi đình chuẩn mực); “Thi vận tập yếu” (Vần thơ chữ Hán tiêu biểu). Tức là sau khi thành lập huyện 5 năm thì Nhà nước mới cấp cho 3 bộ sách giáo khoa chính quy sư giản nhất để dạy chữ Hán và các bậc thánh hiền như Khổng tử, Mạnh tử, sau đó là tập làm văn thơ. Ngày xưa, nhà học ở Hương Khê cũng như các nhà học cấp huyện khác được triều đình quy định về cấu trúc như sau: “Nhà học của huyện: 3 gian, 2 chái, dài suốt 3 trượng 9 thước 2 tấc, ngang 2 trượng 6 thước 4 tấc, tiền vật liệu 150 quan”. Đến thời Tự Đức nhà học huyện còn thu hẹp nữa và tiền vật liệu chỉ còn 130 quan. Nghĩa là diện tích nhà học cấp huyện Hương Khê thời xưa chỉ bằng 1% diện tích trường học cấp huyện hiện nay[22].
Cũng như các địa phương khác, ở Hương Khê dưới thời phong kiến thì việc học chủ yếu là do các trường tư thục, trường thường được mở trong gia đình các thôn, làng xã để cho con em được học tập dễ dàng hơn. Những gia đình khá giả, hiếu học đã tự mời thầy về nhà hoặc chung nhau nuôi thầy dạy chữ Thánh hiền (của Khổng Tử) cho con cháu. Thầy dạy học thường là những người nổi tiếng “văn hay, chữ tốt”, đậu đạt qua các kỳ thi nhưng không muốn ra làm quan hoặc là những người làm quan bị giáng chức, huyền chức về quê dạy học… Nhân dân quen gọi những vị thầy này là “Thầy Đồ”. Cũng có nhiều trường lớp do các nhà Nho thực tài tự mở lớp dạy học, các bậc làm cha, làm mẹ đã khăn gói đưa con em đến gửi thầy dạy bảo. Nhà nước không đài thọ cho hệ thống trường tư, vì vậy chi phí trường lớp và học phí cho thầy là do dân tự góp để đảm bảo duy trì được trường lớp cho con em học hành. Thường thầy không có lương hàng tháng mà chỉ được gia đình nuôi ăn, được học trò đóng thóc gạo trả theo vụ lúa và làm nghĩa vụ giỗ, tết cho gia đình thầy. Loại hình trường tư có vai trò lớn dưới chế độ phong kiến. Có nhiều người xuất thân từ những trường lớp tư đã đỗ đạt và được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước phong kiến.
Việc học của con em các tầng lớp trong làng, xã ở Hương Khê chủ yếu được tổ chức qua các trường lớp này. Không chỉ những gia đình khá giả mà một số gia đình nghèo cũng nuôi thầy đồ dạy chữ cho con.
Sự học thời kỳ này thật thiêng liêng, nghiêm túc và đầy sức lôi cuốn. Niềm hy vọng được hưởng cảnh “Vinh quy bái tổ” để “võng anh đi trước võng nàng theo sau” là động lực của bao gia đình và học sinh lúc bấy giờ.
Số người đậu đạt trong các kỳ thi trước đây của người dân Hương Khê hiện nay chưa tìm thấy. Chỉ có vết tích của một Trạng nguyên, đó là một ngôi đền khá nguy nga gọi là Đền Trạng, ở một làng cũ gọi là Làng Trạng (mé Tây thôn Trung Định, ngày nay là xã Hương Thủy). Cho đến nay vẫn còn tên Làng Trạng hay xóm Trạng[23].
Đến đầu thế kỷ XX, học vị Tú tài chính thức ở Hương Khê có các cụ sau đây:
Xã Gia Phổ có cụ Trần Xuân Đào (đỗ năm 1900);
Xã Hà Linh có cụ Nguyễn Đình Phương (Tú Chế) đồng khoa với cụ Đào, cả hai đều đồng khoa và đồng chí với cụ Phan Bội Châu;
Xã Hà Đông (Hương Giang ngày nay) có hai cha con đều đỗ Tú tài: Phan Thúc Hòe và Phan Thúc Luyện;
Xã Xuân Lũng (Hương Xuân ngày nay) có cụ Nguyễn Thúc Dĩnh (đỗ thời Tự Đức - trước 1883);
Xã Trung Hà (Hương Bình ngày nay) có cụ Lê Hữu Văn quê gốc Đức Thọ: đỗ Tú tài rồi định cư ở đây làm thầy thuốc.
2. Thời Tân học
Có thể chia lĩnh vực giáo dục ở Hương Khê trước năm 1945 (thời Pháp thuộc) thành hai giai đoạn: Giai đoạn1: từ 1910 đến khoảng 1921, gọi là giai đoạn “Tổng trường” - trường công; giai đoạn 2: từ 1922 đến 1945, gọi là giai đoạn trường Sơ học (trường tư ở cấp làng, xã) và trường Tiểu học Pháp - Việt (trường công).
Giai đoạn Tổng trường (từ 1910 đến khoảng 1921):
Năm 1910, vua Duy Tân xuống Dụ truyền các quan nha, tổng lý phải đốc xuất việc thành lập trường để mở mang việc học. Loại trường đầu tiên được thành lập gọi là “Tổng trường”, dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ.
Thầy dạy Tổng trường là những nho sĩ thành thạo cả chữ chữ Hán và Quốc ngữ, có người đỗ Tam trường như cụ Mai Viết Hồ ở xã Phúc Ấm, cụ Nguyễn Văn Sơ người Trung Định, cụ Nguyễn Đình Ý người Hà Linh. Cũng có người đỗ Tú tài như cụ Phan Thúc Luyện.
         Học trò đa số đến tuổi thanh niên và đã từng được học chữ Hán ở nhà từ trước. Đến trường, ngoài học chữ Hán còn học thêm chữ Quốc ngữ; nên trình độ Quốc ngữ còn kém so với những người có bằng yếu lược, còn chữ Hán thì rất vững. Học một, hai năm thì được dự một kỳ thi gọi là “Tuyển sinh”. Tuy vậy, một số người mặc dầu chỉ mới đỗ “Tuyển sinh” nhưng về sau vẫn được bổ làm thầy đồ dạy lớp Đồng Ấu (hay lớp Dự bị: lớp Năm, lớp Tư).
Giai đoạn trường Sơ học (trường tư) và Tiểu học Pháp - Việt (trường công) từ 1922 - 1945:
- Trường Sơ học: loại trường này phát triển không đều; học sinh học hết chương trình thì thi lấy bằng Yếu lược. Ở Hương Khê chỉ có các trường sau đây có đủ 3 lớp (năm, tư, ba): Nam Trạch, Gia Phổ, Phú Gia, Thượng Bình, Hà Linh, Đông Ấp, Phúc Trạch. Giáo viên thường chỉ có một hay hai người. Hiệu trưởng đương thời gọi là Phụ trách, nhất thiết phải có bằng Tiểu học (Prime) chính ngạch. Lúc này, toàn tỉnh Hà Tĩnh đã có chế độ học thống nhất, do Nha Đốc học quản lý. Hương Khê thiếu giáo viên nên phải điều giáo viên ở huyện khác đến dạy (năm 1925 - 1926, trường Nam Trạch có hai thầy là Nguyễn Huy Liệu, Nguyễn Xuân Túc ở Can Lộc lên dạy).
Đa số các xã còn lại chỉ có hai lớp: lớp năm và lớp tư, không có lớp ba để thi Yếu lược. Đó là những trường như Phúc Hội, Phương Trạch, Vân Cù và nhiều trường khác. Xã Tri Bản tuy rộng lớn, nhiều ruộng nhưng vẫn không có trường sơ học. Xã Trừng Thanh (Hương Vĩnh) mãi đến 1943 - 1944 mới có trường.
-   Trường Tiểu học Pháp - Việt được thành lập ở Hương Khê năm 1919, đóng tại làng Thượng Thạch (Hương Thủy) - ngay cạnh Huyện đường. Phụ trách trường qua các thế hệ là các Quan Đốc: Đốc Chước, Đốc Ninh, Đốc Huân, Đốc Hà… Yêu cầu trình độ của Quan Đốc nhất thiết phải là giáo viên cơ bản chính ngạch (đỗ Đíp-lôm, có thêm bằng Sư phạm). Mỗi lớp do một giáo viên phụ trách, dạy tất cả các môn về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ngôn ngữ dùng để dạy: lấy tiếng Pháp làm chính, chỉ có môn Văn là Quốc ngữ (Tiếng Việt) và mỗi tuần vài ba giờ chữ Hán (chủ yếu là để giúp học bảng cửu chương để làm toán). Trường này đã gắn với tên tuổi của nhiều giáo viên dạy giỏi, có tinh thần yêu nước như: Nguyễn Văn Hậu, Trần Hậu Toàn, Lê Viết Lượng… Các nhà giáo vừa dạy học vừa xây dựng phong trào yêu nước và tuyên truyền tư tưởng cách mạng: họ là những người đứng ra thành lập những tổ chức cách mạng đầu tiên ở Hương Khê như “Hội Bài Pháp”, tổ chức “Cách mạng thanh niên”. Thế hệ tiếp đó là các nhà giáo Trần Xuân Quý (Hương Bình - sau này là chuyên gia giáo dục ở Ghi nê), Đinh Bảy (sau này là Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Trong nhiều năm, trường tiểu học Hương Khê chỉ có đến lớp nhì. Mãi đến niên khóa 1936 - 1937 mới có lớp nhất - lớp cuối cấp. Cũng từ đó, trường mới được gọi là “Trường tiểu học kiêm bị”, nghĩa là trường có đủ 6 lớp bậc tiểu học.
Trong chương trình học từ lớp nhì đến lớp nhất, tiếng Pháp chiếm ưu thế vì tất cả các môn đều dạy bằng tiếng Pháp. Học xong lớp nhất, học sinh phải xuống thị xã Hà Tĩnh thi lấy Bằng tiểu học Pháp - Việt (Bằng Ri-me). Ở Hương Khê cũng như các địa phương khác trong tỉnh, những người có bằng Ri-me cũng đã rất có giá trị. Trước cách mạng tháng Tám, nhiều xã còn trống vắng lớp trí thức này. Đến năm 1941, chỉ có Lý trưởng hai xã Gia Phổ và Nam Trạch có bằng Prime; Lý, Hương các xã khác phần nhiều chỉ có bằng Yếu lược.
Ngoài Trường Tiểu học Pháp - Việt, trên đất Hương Khê còn có các trường tư thục tiểu học do các xứ đạo Thiên Chúa thành lập. Tiêu biểu là trường Tràng Lưu (Tây Hồ - Lộc Yên) và trường Thổ Hoàng (Phương Mỹ). Trường tiểu học Tràng Lưu do một cha cố người Việt Nam thành lập, thường gọi là Trường Cố An. Trường chỉ mở có 4 lớp: lớp Ba, lớp Nhì đệ nhất, lớp Nhì đệ nhị và lớp Nhất.
Năm 1930, huyện có thêm Trường Tiểu học tư thục Ecole Đinh Văn Hòa do ông Đinh Văn Hòa người Phúc Trạch bỏ tiền ra xây dựng. Đây là trường tiểu học tư thục đầu tiên ở Hương Khê.
Một số trường do các điền chủ lập ra mời thầy về dạy cho con em như: Trường Tín Thành của ông Bùi Huy Tín và Phó Đức Thành ở Lộc Yên; Trường Thượng Bình của ông Võ Tá Tiếp ở Hương Long.
Trong thời kỳ này, ngoài hệ thống các trường lớp đã kể trên, có một loại “trường học đặc biệt” - là lớp học tư gia của một số trí thức tân học mở. Tiêu biểu là lớp học của ông Hoàng Ngọc Bích ở Phúc Ấm (Hương Long). Ban đầu, trường chỉ nhằm mục đích dạy con em trong họ, trong làng; sau thu hút được con em các làng khác như vùng Thượng Ấp, Hạ Ấp.
Những năm đầu thế kỷ XX, người Hương Khê đỗ Ri-me còn rất hiếm: đó là hai anh em ông Nguyễn Tư Thành và Nguyễn Tư Nghĩa ở Trung Định, ông Nguyễn Văn Hậu, ông Trần Đình Phụng, ông Trần Đình Doãn ở Gia Phổ, ông Dương Đức Cự ở Trung Hà… Còn đỗ Đíp-lôm (Thành Chung) chỉ có hai người: ông Trần Xuân Biền và ông Nguyễn Văn Nghĩa ở Gia Phổ. Đến đầu những năm 1940, số người đỗ Đíp-lôm trong huyện chỉ trên dưới mười người, còn đỗ Tú tài Tây thì chỉ có 2 người ở Gia Phổ, trong đó có ông Nguyễn Văn Kỳ (đỗ bằng Dược sĩ cao cấp). Đó là vị trí thức Tây học cao nhất huyện Hương Khê trước năm 1945.
Với sự hình thành và phát triển hệ thống Giáo dục Tân học, sự đa dạng loại hình trường lớp đã góp phần tích cực trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ những năm đầu thế kỷ XX ở Hương Khê. Đó cũng là điều kiện để một số con em tiếp cận với những tư tưởng tiến bộ và tạo cơ sở để một số con em Hương Khê tiếp tục học cao hơn là Trung học và Cao đẳng, đào tạo được một đội ngũ trí thức tân học. Đại bộ phận số học sinh này đã trực tiếp tham gia hoạt động giáo dục và có cống hiến lớn cho sự nghiệp giáo dục và các lĩnh vực khác sau này.
Các trường học đầu thế kỷ XX cũng đã góp phần tích cực trong việc truyền bá tư tưởng và nhân sự cho sự ra đời Đảng bộ Hương Khê năm 1930.

1. Phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa
1.1. Phong trào bình dân học vụ:
Sau ngày 2/9/1945, chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đối mặt với nhiều khó khăn, nạn đói, nạn dốt, nạn ngoại xâm bủa vây tứ phía. Đặc biệt, có đến 95% dân số không biết chữ. Cứ trong 100 người dân thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi được đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người không được đi học. Nếu đi sâu vào các làng mạc, các thôn xóm xa thành thị và nhất là vùng núi thì có nơi không một người biết chữ.
Một ngày sau khi giành được độc lập, trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở chiến dịch chống nạn mù chữ, tiêu diệt giặc dốt, coi đó là nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong 6 nhiệm vụ cấp bách của chính quyền. Hồ Chí Minh nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nhấn mạnh "Dốt là dại, dại thì hèn”. Vì vậy, không chịu dại, không chịu hèn, cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới".
Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ ra đời, nằm trong Bộ Quốc gia giáo dục. Cùng ngày, Sắc lệnh số 19 - SL hạn trong 6 tháng làng nào, thị trấn nào cũng phải có ít nhất một lớp học bình dân và Sắc lệnh số 20 - SL cưỡng bách học chữ quốc ngữ trong toàn quốc được ban hành. Hà Tĩnh thành lập Ty Bình dân học vụ. Mỗi huyện có Ban Bình dân học vụ. Ở Hương Khê Ban Bình dân học vụ do ông Dương Lãng (Hương Bình) làm trưởng ban, ở các xã cũng có ban Bình dân học vụ.
Công tác tuyên truyền cho chiến dịch diệt dốt được phát động rầm rộ trong toàn huyện, với các khẩu hiệu: “Đi học bình dân là yêu nước”, “Dạy bình dân học vụ là yêu nước”, “Giặc dốt diệt, Việt Nam cường”, “Ngày sản xuất, đêm học tập”.
Cuộc vận động diệt giặc dốt trở thành một phong trào thu hút tất cả các thành phần, các giới, các đoàn thể tham gia. Lớp Bình dân học vụ mở khắp nơi. Người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ. Bến đò, lò rèn, cổng chợ thành nơi kiểm tra kiến thức quốc ngữ.
Bước vào cuộc kháng chiến, Hương Khê là vùng tự do nên phát triển bình dân học vụ là một nhiệm vụ của “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”, theo hướng dẫn của ty Bình dân học vụ những khẩu hiệu như: “Đi học là kháng chiến”, “Mỗi lớp bình dân là một tổ tuyên truyền kháng chiến”, “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Mỗi người biết chữ là một viên đạn bắn vào quân thù”…
Từ năm 1948, ở Hương Khê các lớp học hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau. Khắp các xã trong huyện đều có lớp bình dân. Bên cạnh đó, phong trào Bình dân học vụ ở Hương Khê còn có sự đóng góp rất lớn của bộ phận đồng bào tản cư từ các vùng địch tạm chiếm và học sinh bù vào sự thiếu hụt giáo viên. Những người biết chữ tham gia dạy bình dân cho bà con ở nơi mình đến, học sinh tiểu học, trung học ngày đi học đêm về dạy các lớp bình dân.
Năm 1949, Hương Khê được công nhận là huyện thanh toán nạn mù chữ cho toàn dân, xã Hương Châu (một phần xã Phúc Đồng ngày nay) được coi là xã đầu tiên xóa nạn mù chữ ở Hương Khê. Thành tích đó góp phần đưa Hà Tĩnh trở thành tỉnh đầu tiên trong toàn quốc được công nhận là đã xóa nạn mù chữ. 
Tuy phong trào xóa nạn mù chữ gặt hái nhiều thành công, nhưng trình độ còn ở mức bình dân, cần có sự củng cố và phát triển ở mức độ cao hơn mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phục vụ công cuộc Kháng chiến kiến quốc. Một chương trình bình dân học vụ mới được tiến hành:
- Chương trình Dự bị bình dân tương đương lớp 2 phổ thông
- Chương trình Bổ túc cấp 1 tương đương lớp 4
Các chương trình này học trong 4 - 6 tháng. Thực hiện chương trình Bình dân học vụ mới, các địa phương mở các lớp Bình dân học vụ cấp 1 gọi là tiểu học Tráng sinh. Nhiều học sinh tiểu học Tráng sinh sau này trở thành nhà giáo, cán bộ quản lý các cấp. Nhà giáo Lưu Mai (Hương Bình) từ một học viên tiểu học Tráng sinh đã trở thành một nhà giáo, thư ký công đoàn giáo dục huyện, giáo viên cấp 3 có trình độ đại học. Ở Hương Long có ông Nguyễn Duy Biên sau này trở thành Đại tá binh chủng phòng không không quân.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), toàn dân phấn khởi bước vào công cuộc khôi phục kinh tế, cải cách xã hội. Nông dân đối tượng chính của công tác bổ túc văn hóa cuốn vào các hoạt động chính trị xã hội như giảm tô, Cải cách ruộng đất nên phong trào xóa mù chữ có phần chững lại. Số người tái mù chữ cũng tăng lên. Xóa mù chữ lại trở thành đòi hỏi cấp thiết. Trước tình hình đó, tháng 3.1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 114 khẳng định công tác Bình dân học vụ là bộ phận không thể thiếu của kế hoạch Nhà nước.
Hưởng ứng phong trào xóa mù chữ, Ban lãnh đạo thanh toán mù chữ huyện được thành lập. Cũng như trước đây mọi tổ chức xã hội, mọi tầng lớp nhân dân đều tham gia. Khắp huyện mở ra các lớp học mùa thu, mùa xuân. Sách vần Quốc ngữ đã được soạn phù hợp hơn. Trong phong trào xóa nạn mù chữ lần 2, nhiều đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ diệt dốt. Xã Phúc Trạch là đơn vị có phong trào diệt dốt sôi nổi, nổi lên những cá nhân đạt thành tích xuất sắc. Trường cấp 1 Hương Xuân cũng là đơn vị xuất sắc trong phong trào diệt dốt. Năm 1958, trường được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tặng Huân chương Lao động hạng III nhờ thành tích trong công tác bình dân học vụ. Cũng trong năm 1958, Hương Khê được công nhận là đơn vị hoàn thành xóa nạn mù chữ lần 2.
1.2. Bổ túc văn hóa
Nhằm triệt để xóa nạn mù chữ cho nhân dân ở vùng mới giải phóng và nâng cao thêm một bước trình độ văn hóa cho cán bộ và nhân dân lao động, năm 1956 Chính phủ ra quyết định Kế hoạch 3 năm hoàn thành thanh toán nạn mù chữ và bước đầu phát triển bổ túc văn hóa (1956 - 1958).
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, phong trào Bổ túc văn hóa ở Hương Khê phát triển mạnh mẽ. Các lớp bổ túc văn hóa mở cho cán bộ và cả giáo viên. Để hoàn thành nhiệm vụ phổ cập bổ túc văn hóa cũng như nâng cao trình độ cho cán bộ xã và cán bộ huyện, năm học 1959 - 1960, huyện mở trường Bổ túc văn hóa cấp 1 tập trung tại trường Hương Bình. Ở các xí nghiệp trong huyện phong trào bổ túc văn hóa cũng phát triển mạnh như Lâm trường chúc A, Lâm trường  khai thác Hương Khê và đặc biệt là xí nghiệp Phốt phát Phú Lễ.
Năm 1965, để củng cố và phát triển phong trào Bổ túc văn hóa, Phòng thành lập đội Chủ lực Bổ túc văn hóa và bổ nhiệm thầy giáo Nguyễn Văn Long (Phúc Trạch) làm Đội trưởng, các thầy Trần Văn Hương (Hương Bình), Trần Hồng Lê (Hà Linh), đội phó. Đội chủ lực vừa trực tiếp giảng dạy bổ túc vừa chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch, chương trình, mở lớp; chọn một số thanh niên địa phương có trình độ văn hóa, có nhiệt tình bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ, đào tạo họ thành đội ngũ giáo viên giảng dạy.
Từ khi có đội Chủ lực, phong trào phát triển rất mạnh, xóm nào cũng có lớp bổ túc cấp 1, xã nào cũng có lớp cấp 2. Lớp học chủ yếu mở vào ban đêm.
Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mặc dù bị bom đạn đánh phá ác liệt nhưng phong trào Bổ túc văn hóa của Hương Khê vẫn tiếp tục phát triển. Tại các xã, hợp tác xã nào cũng mở lớp, đứng lớp là giáo viên cấp 1 phổ thông. Đối với đối tượng học sinh tốt nghiệp cấp 1 không đủ điều kiện vào học cấp 2 phổ thông đều được học trong các lớp cấp 2 “ngoài giờ”, trường cấp 2 nào cũng có. Năm học 1966 - 1967 trường “Bổ túc văn hóa nghiệp vụ cán bộ” huyện có 3 lớp cấp 2 đối tượng là những cán bộ cấp huyện, cấp xã. Hương Khê có nhiều xã có thành tích rất cao được coi là điển hình tiêu biểu như Hương Giang, Hương Châu, Hương Xuân, đặc biệt là lá cờ đầu trong phong trào Bổ túc văn hóa của tỉnh là xã Hương Minh.
Hương Khê là điểm trọng yếu trên đường mòn Hồ Chí Minh nên có nhiều Thanh niên xung phong và bộ đội lưu trú tại đây, là nông dân các tỉnh từ Nghệ An trở ra và một số khá đông chưa học hết cấp 1. Vì thế, không chỉ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, học Bổ túc văn hóa trong Thanh niên xung phong và bộ đội cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Phòng giáo dục đã có nhiều hoạt động đào tạo, hỗ trợ chương trình, tổ chức thi cử cho Thanh niên xung phong và bộ đội. Nhờ vậy, không ít người đã tốt nghiệp cấp 1, cấp 2 khi công tác tại Hương Khê. 
Sau năm 1975, Bổ túc văn hóa vẫn là ngành học hết sức quan trọng, không chỉ nâng cao dân trí cho nhân dân mà còn góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho một bộ phận cán bộ chủ chốt trong huyện. Thời kỳ này, Hương Khê đã có đầy đủ một hệ thống trường lớp bổ túc từ cấp 1 cho đến cấp 3.
Năm 1978, thành lập trường cấp 3 Dân chính huyện trên cơ sở nâng cấp trường cấp 2 Bổ túc văn hóa. Trường có 3 lớp: 1 lớp đặt tại trung tâm huyện, 1 lớp đặt tại xã Hương Bình, 1 lớp đặt tại Nông trường 20/4.
Năm học 1979 - 1980, trường cấp 3 vừa học vừa làm Phúc Trạch được thành lập. Trường có hai phân hiệu: Phân hiệu Phúc Trạch 2 lớp, phân hiệu Hương Minh 1 lớp.
Năm 1980, tách cấp III vừa học vừa làm ra làm 2: cấp III vừa học vừa làm Phúc Trạch và cấp III vừa học vừa làm Hương Minh.
Nhờ mở hệ thống các trường cấp III Bổ túc văn hóa Hương Khê đã thực hiện phổ cập cấp 2, hoàn thành chỉ tiêu số lượng cán bộ có trình độ văn hóa cấp 3.
Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, các trường cấp III Dân chính, cấp III vừa học vừa làm chịu ảnh hưởng nặng nề của thời kỳ hậu bao cấp. Số học sinh trúng tuyển vào quá ít, trong lúc số học sinh đang học bỏ nhiều… Trường cấp III Dân chính chỉ mở 1 lớp Bổ túc văn hóa cấp 3 cho cán bộ xã với 8 học viên. Trường cấp III vừa học vừa làm Phúc Trạch chỉ còn 4 lớp Bổ túc văn hóa cấp 3 (2 lớp 11, 2 lớp 12), tổng số học sinh chỉ có 121 người. Trường cấp 3 vừa học vừa làm Hương Minh chỉ có 1 lớp 12 với 38 người nhưng bỏ học 19 người.
Năm 1991, trường cấp III Dân chính chuyển thành trường Bồi dưỡng giáo viên, ngoài nhiệm vụ dạy bổ túc văn hóa nay thêm chức năng nhiệm vụ bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên mầm non, tiểu học và Trung học cơ sở. Năm học 1991 - 1992, trường mở 5 lớp đào tạo nghiệp vụ sư phạm giáo viên tiểu học. Đối tượng là những cán bộ Văn thư, Thư viện trước đây được điều động vào dạy mới qua chương trình sư phạm cấp tốc nay tiếp tục nâng trình độ lên Trung học hoàn chỉnh.
Năm 1994, thực hiện chủ trương đa dạng hóa loại hình đào tạo, thực hiện mục tiêu dạy chữ, kết hợp dạy nghề, dạy người, huyện đã thành lập Trung tâm Hướng nghiệp và Dạy nghề. Nội dung giáo dục tập trung vào dạy nghề như chăn nuôi, trồng trọt, trồng rừng, nghề thủ công… thực hiện dạy nghề phổ thông cho các trường trung học cơ sở, Trung học phổ thông trong huyện. Ngoài ra, còn mở được một số lớp tin học văn phòng cho các cơ quan, lái xe mô tô, công nông cho nhân dân.
Hiện nay (2015), trên địa bàn huyện còn lại hai trung tâm: Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện và Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề huyện, vừa làm nhiệm vụ Bổ túc văn hóa vừa làm nhiệm vụ đào tạo lao động có tay nghề, tạo động lực cho phát triển nông thôn miền núi góp phần hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp.
2. Giáo dục phổ thông
Thực hiện cải cách giáo dục lần 1 (1950): Năm năm sau ngày độc lập, hệ thống giáo dục tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng nền giáo dục Việt Nam cần phải có một sự chuyển hướng mạnh mẽ và kịp thời theo đà phát triển rất nhanh của sự nghiệp cách mạng và công cuộc kháng chiến kiến quốc. Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định tiến hành công cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất. 
Tháng 7/1950, cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất được thực hiện. Mục tiêu là giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân trung thành với Tổ quốc; phương châm là học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn được thiết kế trên nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Về nội dung giáo dục phổ thông tập trung vào một số môn như: tiếng Việt, Văn, Toán, Lý, Hóa, Sinh, Thời sự - Chính sách, Giáo dục công dân, Tăng gia sản xuất, không học các môn như: ngoại ngữ, nhạc, vẽ, nữ công gia chánh. Cơ cấu nhà trường cải cách gồm có hệ phổ thông 9 năm và các hệ thống giáo dục: bình dân, chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Trong khi đó các vùng địch tạm chiếm vẫn duy trì hệ phổ thông 12 năm.
Về cơ cấu tổ chức, hệ giáo dục phổ thông chia làm 3 cấp (Cấp 1: 4 năm gồm các lớp 1,2,3,4; Cấp 2: 3 năm, gồm các lớp 5,6,7; Cấp 3: 2 năm gồm lớp 8,9) thay thế các bậc tiểu học, trung học phổ thông và chuyên  khoa cũ.
Sau khi công bố chương trình cải cách, Bộ Giáo dục mở cuộc vận động lớn để tạo chuyển biến về nhận thức, tư tưởng gọi là Cuộc vận động “Rèn cán chỉnh cơ”.
Mùa Hè năm 1950, Ty Giáo dục Hà Tĩnh tổ chức hội nghị “Rèn cán chỉnh cơ” tại Dị Long (Sơn Long - Hương Sơn). Sau Hội nghị, Hương Khê tiến hành sắp xếp lại hệ thống giáo dục của huyện nhà.
Đối với bậc học mầm non, sau cải cách các lớp học Vỡ lòng được mở khắp nơi trong huyện, có xã mở đến tận xóm cho con em 6 - 7 tuổi chủ yếu dạy chữ, chuẩn bị cho các em vào lớp tư (lớp đầu cấp 1). Các lớp Vỡ lòng phát triển khá mạnh, xã có lớp điểm xã, huyện có lớp điểm huyện, điển hình có lớp của các thầy Lê Đình Trung (Hương Xuân), Đào Quang Trung (Hòa Hải).
Đối với bậc học tiểu học, sau Cách mạng tháng Tám, ngoài các trường tiểu học trước đây do Pháp thành lập tiếp tục được duy trì, mở thêm các trường mới như: tại xứ Thượng Bình (Hương Long) mở thêm trường Hàm Nghi (Trường có 1 lớp nhất dành cho học sinh các xã Hương Vĩnh, Phú Gia, Hương Long. Năm 1946, mở thêm trường tiểu học Nam Hương (Hương Lâm). Chỉ ba năm sau (1949), trường mở rộng thành trường phổ thông xã Nam Trung có 4 lớp (tư, ba, nhì, nhất) số học sinh lên 80 em. Với yêu cầu của cuộc Cải cách giáo dục là mở rộng mạng lưới các trường cấp 1, vì vậy đến năm 1951, 12/12 xã của huyện Hương Khê bấy giờ đều có trường Tiểu học. Sự phát triển hệ thống giáo dục cấp 1 tạo nên sức ép rất lớn về đội ngũ, để duy trì việc giảng dạy phải bố trí 3 giáo viên phụ trách 4 lớp. Vượt qua những khó khăn, thiếu thốn nhưng việc dạy và học đều có chất lượng tốt. 
Đến trước Cách mạng tháng Tám, ở Hương Khê chưa có trường Trung học. Sau Cách mạng tháng Tám, ngày 2/10/1946 tại Đồi thông xã Hương Thủy trường Trung học Hương Khê được thành lập. Trung học Hương Khê là trường trung học công lập đầu tiên trên đất Hà Tĩnh. Sau Cải cách Giáo dục lần thứ nhất, năm 1952 trường đổi tên thành cấp 2 Hương Khê. Trường hoàn chỉnh đủ tất cả các lớp 5,6,7 được gọi là trường cấp 2 Toàn cấp. Lúc này đối tượng học sinh chủ yếu con em trong huyện và con em cán bộ hỏa xa. Năm 1953, để tránh sự oanh tạc của máy bay Pháp, trường sơ tán vào vùng Phúc Ấm (Hương Long).  Cùng với trường cấp 2 Hương Khê, huyện thành lập thêm 3 trường cấp 2: cấp 2 Hương Long, cấp 2 Hương Bình và cấp 2 Hương Đồng. Tuy nhiên, các trường này chỉ tồn tại trong một vài năm. Bên cạnh trường cấp 2 công lập, huyện cho mở thêm trường cấp 2 dân lập học chung địa điểm. Trong hệ thống công lập, ngoài cấp 2 Hương Khê, ở các trường cấp 1 trong huyện còn mở thêm lớp 5 kê (cấp 1,2) tại Tân Hương và cấp 1,2 Hương Đô sau chuyển thành cấp 1,2 Hương Lạc (Phúc Trạch). Các lớp này không có lớp 7 học hết lớp 6 học sinh tập trung về cấp 2 Hương Khê học cuối cấp. Về chương trình học, đến năm 1952 - 1953, các trường cấp 2 vẫn chưa có sách giáo khoa mà chỉ có Chương trình Cải cách Giáo dục nên vẫn tự soạn lấy tài liệu rồi đưa ra cho đồng nghiệp góp ý.  Một số môn có tài liệu như lịch sử, thực vật, địa lý… cũng rất ít ỏi. Mặc dù thầy và trò đều phải chịu đựng thiếu  thốn, gian khổ (thiếu ăn mặc, giấy bút, sách giáo khoa, phải học đêm với ngọn đèn dầu hỏa tù mù, lại phải phòng tránh bom đạn giặc) nhưng việc dạy, việc học đều có chất lượng. Nhiều học sinh làm rạng danh trường, đóng góp cho công cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa hàng trăm người là Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học,…
          Đến thời điểm này, ở Hương Khê mới chỉ có đến cấp 2 chưa có cấp 3. Để học cấp 3, con em Hương Khê phải xuống cấp 3 Trần Phú (Đức Thọ) hoặc cấp 3 Phan Đình Phùng (Thị xã Hà Tĩnh).
          Năm 1947, trường Kỹ Nghệ Huế chuyển ra Hương Khê, đóng tại xã Phúc Đồng. Đề phục vụ kháng chiến, trường thành lập một cơ xưởng sản xuất vũ khí với đầy đủ các xưởng đúc, nguội… Xưởng có các phân xưởng sản xuất đủ các loại vũ khí phục vụ trực tiếp cho chiến trường Trung Hạ Lào và Bình – Trị Thiên… Vừa sản xuất đồng thời trường thông báo tuyển sinh. Đối tượng là những người đã tốt nghiệp Prime (Tiểu học), địa bàn chiêu sinh là học sinh từ Thanh Hóa cho đến Bình Trị Thiên… Để có thể vào học, học sinh phải tham gia kỳ thi tuyển với 2 môn văn, toán. Địa điểm thi mở tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Tháng 9.1947, trường Kỹ Nghệ Thực nghiệp Trung bộ ra đời, nhằm đào tạo cán bộ kỹ thuật để tăng cường cho các cơ xưởng phục vụ kháng chiến. Khóa đầu tiên, trường chiêu sinh được 20 học sinh trong đó có một số học sinh đang học trung học Hương Khê. Đây là mô hình trường “vừa học vừa làm” đào tạo cán bộ cho ngành công nghiệp có trình độ văn hóa trung học (cấp 2) và có trình độ cán bộ kỹ thuật trung cấp phục vụ kháng chiến vừa chuẩn bị cán bộ kỹ thuật cho nền công nghiệp Việt Nam. Nhiều học sinh của trường sau này đã trở thành cán bộ cấp cao trong quân đội, công an, nhà khoa học, giữ nhiều trọng trách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Năm học 1950 - 1951, trường chuyển ra Thanh Chương - Nghệ An.
Thực hiện cải cách giáo dục lần 2 (1956): Sau cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (năm 1950), chính quyền cách mạng tiếp tục tiến hành cuộc cải cách lần hai nhằm thống nhất hai hệ thống giáo dục 9 năm và 12 năm của vùng tự do và vùng mới giải phóng, đồng thời phục vụ cho miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam, đẩy mạnh giáo dục toàn diện lấy trí đức làm cơ sở. Tháng 3.1956, Chính phủ thông qua đề án và đến tháng 8.1956, Chính sách giáo dục phổ thông của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ban hành. Hệ Phổ thông gồm 3 cấp học:  Cấp 1: 4 năm, từ lớp 1 - 4; Cấp 2: 3 năm, từ lớp 5 - 7; Cấp 3: 3 năm, từ lớp 8 - 10. Đồng thời xây dựng các lớp mẫu giáo cho các cháu 4 - 5 tuổi, tách các lớp mẫu giáo lớn 6 - 7 tuổi thành lớp vỡ lòng.
Giai đoạn này còn chủ trương phát triển các trường dân lập để đáp ứng tình hình học sinh ngày càng đông.
Từ năm 1961 trở đi, số trẻ dưới 7 tuổi được chia làm 3 loại: nhà trẻ (từ 1 đến 3 tuổi), mẫu giáo (từ 4 đến 5 tuổi), vở lòng (từ 6 đến 7 tuổi). 37 xã trong huyện đều có nhà trẻ, các lớp mẫu giáo và lớp vỡ lòng phân tán ở các đội sản xuất. Một hoặc hai đội sản xuất có một nhà trẻ, 1 lớp mẫu giáo. Theo thống kê, đến năm 1961, hầu hết các xã đều có trường cấp 1, toàn huyện có 37 trường, có trường có quy mô khá lớn. Nhiều trường có quy mô trên 10 lớp: Trường cấp 1 Hương Long có 12 lớp, 500 học sinh; Trường cấp 1 Gia Phổ có 11 lớp; các trường Hương Lạc, Hương Đồng có 10 lớp. Ngay những xã vùng xa như Hương Lâm cũng có quy mô 8 lớp. Số giáo viên cấp 1 toàn huyện lên đến 200 người.
Những năm đầu thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, Hương Khê đã thành lập thêm các trường cấp 2 phân bố khắp các vùng trong huyện: cấp 2 Hương Giang (1956), cấp 2 Hương Long (1958)  đến năm 1963 trường nhập vào trường Hương Phú), cấp 2 Hương Châu (1959), cấp 2 Hương Lạc (1959), cấp 2 Nông trường 20/4, cấp 2 Hương Thủy (1961),  cấp 2 Hương Bình (1960), cấp 2 Hương Thanh, cấp 2 Hương Mỹ (1962), cấp 2 Hương Hà (1962). Năm 1964, thành lập trường cấp 2 Hương Lâm.
Tháng 01/1960, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 203 - CT/TW về xây dựng một loại hình trường mới: “Song song với những trường phổ thông, cần tích cực nghiên cứu mở trường vừa học văn hóa phổ thông, vừa học kỹ thuật sản xuất, nhất là kỹ năng sản xuất nông nghiệp, theo phương hướng đó, chúng ta tiến hành phổ cập dần dần trong nhân dân ta, đồng thời tạo điều kiện cho con em ta được học tập”[24]. Chấp hành Chỉ thị trên, năm 1960 Ty Giáo dục Hà Tĩnh mở một số trường thí điểm: Thạch Ngọc, Thạch Bình (Thạch Hà), Sơn Giang (Hương Sơn), Thiên Lộc (Can lộc). Học sinh học ở các trường này không giới hạn độ tuổi.
Năm học 1961 - 1962, huyện Hương Khê mở loại hình trường Phổ thông nông nghiệp. Đó là các trường Phổ thông Nông nghiệp Phúc Đồng, Phổ thông Nông nghiệp Hương Đô.
Trường Phổ thông Nông nghiệp Phúc Đồng, quy mô ban đầu có 2 lớp với 110 học sinh, 4 giáo viên. Học sinh được tuyển từ các xã: Hương Phú, Hương Long, Hương Bình, Hương Hòa, Hương Hải, Hương Châu, Hương Đồng, Hương Hà, Hương Thanh, Hương Thu, Hương Nam, Hương Trung, Hương Thái, Hương Luyện, Hương Mỹ.
Phổ thông Nông nghiệp Hương Đô có quy mô lớn hơn với 6 lớp, hơn 300 học sinh, 9 giáo viên. Học sinh được tuyển từ các xã: Hương Trạch, Hương Lĩnh, Hương Lạc, Hương Đô, Hương Lộc, Hương Mai, Hương Xuân, Hương Phong, Hương Liên, Hương Lâm, Hương Phố, Hương Giang, Hương Thủy, Hương Tân.
Đến năm học 1962 - 1963, để tạo điều kiện cho học sinh các xã hạ huyện, trường Phổ thông Nông nghiệp Hương Minh được thành lập, chiêu sinh học sinh các xã: Hương Thọ, Hương Minh, Hương Điền, Hương Quang, Hương Đại. Năm đầu tiên tuyển 1 lớp 5 với 48 học sinh. Năm học thứ hai tuyển 51 học sinh, so với học sinh các trường Phúc Đồng và Hương Đô, học sinh Phổ thông Nông nghiệp Hương Minh trẻ hơn, độ tuổi từ 13 - 25. Hội đồng giáo viên chỉ có 2 người.
Mô hình Phổ thông Nông nghiệp đã góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho con em nông dân cũng như bổ sung cho nông thôn một số cán bộ có trình độ văn hóa hết cấp 2. Chỉ trong 3 niên khóa các trường phổ thông nông nghiệp đã cơ bản thanh toán các đối tượng con em nông dân tốt nghiệp tiểu học, quá tuổi vào trường cấp 2 trong toàn huyện. Năm học 1964 - 1965, các trường Phổ thông Nông nghiệp nhập vào trường Phổ thông Cấp 2, những lớp học dở chương trình lớp 5 của Phổ thông Nông nghiệp chuyển thẳng lên học chương trình lớp 7.
Cùng với sự ra đời của các trường Phổ thông cấp 2 và Phổ thông Nông nghiệp Hương Khê, nhằm đáp ứng nhu cầu học ngày càng cao của con em trong huyện. Ngày 12/9/1964, tại trường cấp 2 Hương Khê (Trại Lăng, Gia Phố) Trường Phổ thông cấp 3 Hương Khê ra đời. Hội đồng giáo viên ban đầu chỉ có 7 người. Học sinh ban đầu mới chỉ tuyển 2 lớp đầu cấp (lớp 8) chưa đến 100 học sinh. Năm học 1965 - 1966, trường mở rộng thành 5 lớp: 2 lớp 8, 2 lớp 9, 1 lớp 10 với 240 học sinh, năm học thứ 3 niên khóa 1966 - 1967, trường mở rộng lên 7 lớp với 320 học sinh đến nay trường có 44 lớp với 1.721 học sinh. Trường cấp III Hương Khê thành lập là cột mốc quan trọng trên chặng đường phát triển của sự nghiệp giáo dục – đào tạo ở Hương Khê. Bắt đầu từ đây, học sinh cấp III Hương Khê được học tập tại chính mái trường trên quê hương mình. Sự ra đời của một trường học sinh cấp III phổ thông đã tạo điều kiện thu hút con em trong huyện vào học hết bậc trung học, chuẩn bị cho việc thi vào bậc cao đẳng và đại học, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, cán bộ khoa học kỹ thuật và lực lượng thanh niên có kiến thức tham gia lực lượng vũ trang và phát triển sản xuất ở nông thôn. Với những đóng góp đó, năm 2014 trường vinh dự được Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng Nhì.
Những năm chiến tranh ác liệt, việc học hành hết sức khó khăn gian khổ. Hàng chục trường bị ném bom, có những ngôi trường bị sụp đổ hoàn toàn.
Mặc dầu chiến tranh  ác liệt, các trường học vẫn tiếp tục được mở thêm: trường cấp 2 Hương Trạch (9.1965), cấp 2 Hương Mai (1965), cấp 2 Hương Xuân (1965), cấp 2 Hương Đô (1967), cấp 2 Hương Vĩnh (1967), cấp 2 Hương Hải (1973).  Ngày 5.9.1972, trường Phổ thông cấp 3 Vụ Quang thành lập tại làng Ngọc Mỹ xã Hương Hòa (Hòa Hải), năm 1993 trường mang tên trường cấp 2+3 vụ Quang. Trường lúc đó chỉ có 17 cán bộ giáo viên, 6 lớp (3 lớp 8, 2 lớp 9, 1 lớp 10) với 270 học sinh. Những ngày đầu thành lập, trường đóng ở xã Phương Điền thu hút học sinh các xã Hương Đại, Hương Minh, Phương Điền, Phương Mỹ, Hà Linh và một phần học sinh các xã Hương Bình, Hương Long, Hương Thủy… Tuy vây, địa điểm đặt trường không phù hợp về dân cư cũng như về địa lý, nên cuối năm học 1972 – 1973 trường chuyển về xã Hương Luyện (Phương Điền), năm học 2000 – 2001 trường chuyển về thôn 12 xã Phúc Đồng.
Trước sự phát triển của giáo dục tiểu học và việc thiếu người đứng lớp, Ty Giáo dục Hà Tĩnh cho phép Hương Khê mở trường đào tạo giáo viên. Tháng 6.1968, trường Sư phạm cấp tốc ra đời đặt tại cơ sở thống nhất xã Hương Hòa, lớp học đặt trong kho Hợp tác xã Nông nghiệp, thời gian đào tạo 3 tháng. Số giáo sinh có 132 người, chia làm 2 lớp là những người đã tốt nghiệp cấp 2. Mặc dù hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng trường Sư phạm Cấp tốc đã bổ sung 131 giáo viên cho đội ngũ giáo viên cấp 1. Trong số học sinh có cô giáo Thái Thị Kỳ sau này trở thành cán bộ quản lý và được phong tặng danh hiệu cao quý: Nhà giáo ưu tú.
Học tập gắn với sản xuất, chiến đấu là phương châm quán triệt trong giáo viên, học sinh. Tiêu biểu như trường cấp 3 Hương Khê đã lập trại sản xuất với 10ha sắn, 2 ha cam, 2 ha lạc cùng nhiều diện tích cây có quả khác. Trường cấp 2 Hương Lộc đã tham gia sửa đường giao thông qua trọng điểm đánh phá ngầm Đá Lậu cho xe ra chiến trường…
Từ năm 1979 đến 2015: Sau giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi thực hiện những nhiệm vụ khẩn cấp trước mắt đối với giáo dục miền Nam và tiếp tục phát triển giáo dục ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ cũng khẩn trương chuẩn bị cho công cuộc cải cách giáo dục nhằm tiến tới một nền giáo dục quốc dân thống nhất phù hợp với chiến lược tái thiết và phát triển đất nước.
Nhằm thống nhất hai hệ thống giáo dục ở miền Bắc (hệ giáo dục 10 năm) và miền Nam (hệ giáo dục 12 năm), Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 14 NQ/TW (năm 1979) về cải cách giáo dục. Nghị quyết chỉ rõ nội dung giáo dục là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tập thể, đủ sức gánh vác sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta”; đồng thời thực hiện tốt nguyên lý “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”[25]. bao gồm ba mặt: cải cách cơ cấu hệ thống giáo dục, cải cách nội dung giáo dục và cải cách phương pháp giáo dục.
Trên cơ sở chỉ đạo của ngành Giáo dục Hà Tĩnh, công tác cải cách giáo dục ở Hương Khê được triển khai. Từ năm học 1980 - 1981, hệ thống giáo dục được sắp xếp lại: các trường cấp 1 và cấp 2 ở các xã được nhập lại thành trường phổ thông cơ sở (từ lớp 1 đến lớp 9), học sinh học chương trình sách giáo khoa mới, còn học sinh từ lớp 2 trở lên vẫn học chương trình và sách giáo khoa cũ; trường cấp 3 gọi là trường phổ thông trung học (từ lớp 10 đến lớp 12)… Đồng thời mở rộng, tăng thêm số trường, lớp trên địa bàn. Nội dung giảng dạy: theo sách giáo khoa do Bộ Giáo dục biên soạn.
Năm học 1981 - 1982, để bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu văn hóa, ngành đã thành lập các lớp năng khiếu tại trường Phổ thông cơ sở Phú Phong (2 lớp văn và toán cuối cấp, mỗi lớp 25 em). Năm học 1983 - 1984, bộ phận Năng khiếu tách ra lập trường Phổ thông cơ sở năng khiếu. Đội ngũ giáo viên  được bổ sung thêm. Số học sinh cũng tăng. Ban đầu trường chưa có cơ sở riêng, học buổi chiều tại trường cấp 3 Hương Khê. Nửa học kỳ 1 được huyện cho 4 gian nhà lá nguyên là trạm xá xã Gia Phố. Từ ngày thành lập, trường Năng khiếu Hương Khê luôn đứng trong tốp đầu các trường năng khiếu trong tỉnh. Năm học 1980 - 1981, trường có 1 em học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi Quốc gia môn Văn lớp 7. Năm học 1982 - 1983, đội tuyển Văn lớp 7 có 2 em đạt giải nhì tỉnh Nghệ Tĩnh. 
Sau 10 năm vận hành hệ thống giáo dục này, một số bất cập cần được điều chỉnh. Vì thế, đến năm học 1990 - 1991, sau khi đã thống nhất chương trình 10 năm ở miền Bắc và chương trình 12 năm ở miền Nam theo lộ trình cải cách, hệ trường phổ thông cơ sở được tách ra thành 2 bậc: bậc tiểu học (cấp 1 cũ) và bậc trung học cơ sở (THCS - cấp 2 củ) cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi. Hệ phổ thông trung học được đổi lại thành bậc trung học phổ thông (THPT). Như vậy, đầu năm học 1990, cả nước có 3 bậc học phổ thông.
Năm học 1992 - 1993, thực hiện chủ trương mới của Bộ Giáo dục - Đào tạo, xóa mô hình Phổ thông cơ sở, thành lập các trường tiểu học và trung học cơ sở. Toàn huyện có 39 trường cấp 1: Hương Lâm, Hương Liên, Đ69, Hương Trạch, Hồng Lĩnh, Phúc Trạch, Hương Đô, Hồng Hà, Lộc Yên, Hương Lộc, 20/4, Phú Hương, Hương Xuân, Phú Phong, Thị trấn, Hương Vĩnh, Hương Phú, Hương Long, Hương Bình, Hà Giang, Hòa Hải, Thống Nhất, Gia Phố, Đông Hải, Hương Giang, Hương Thủy, Phúc Đồng, Hà Linh, Hương Thu, Hương Phúc, Bình Hà, Phương Điền, Phương Mỹ, Tùng Sơn, Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Hương Quang. Những năm sau đó, do nhu cầu học sinh tăng huyện thành lập thêm 5 trường tiểu học (Hương Thu, Tân Hòa, Chúc A, Truông Bát, Phú Hương) nâng tổng số trường lên thành 44 trường.
22 trường Trung học cơ sở: Chúc A, Hương Lâm, Hương Trạch, Phúc Trạch, Hương Đô, Lộc Yên, 20/4, Hương Xuân, Phú Phong, Hương Vĩnh, Phú Gia, Hương Long, Hương Bình, Hòa Hải, Gia Phố, Hương Giang, Hương Thủy, Phúc Đồng, Hà Linh, Phương Mỹ, Hương Thọ, Hương Minh.
Năm học 1991 - 1992, nhập hai trường cấp 2 Chúc A và cấp 2 Hương Liên thành trường Trung học cơ sở Hương Lâm.
Để thực hiện chính sách công bằng trong giáo dục, tạo điều kiện nâng cao dân trí cho đồng bào vùng sâu vùng xa, tạo cơ hội học tập cho con em dân tộc ít người đặc biệt là người Chứt, Trường Dân tộc nội trú dần dần hình thành. Song song với công tác tổ chức, hệ thống nhà học, nhà nội trú được xây dựng. Trường đặt tại Trung tâm Thị trấn trên một khu đất rộng 6.000 m2. Năm học 1995 - 1996, ngoài học sinh người dân tộc, trường còn tuyển sinh học sinh người Kinh các xã miền núi rẻo cao như Hương Lâm, Hương Liên, Hương Trạch, Hương Quang, Hương Minh, Hương Điền, Hương Đại, Hương Thọ, Phú Gia, Hòa Hải… được 3 lớp với 123 học sinh (lớp 7: 40 học sinh, lớp 8: 39 học sinh, lớp 9: 44 học sinh; lớp 6 gửi tại trường Trung học cơ sở Thị trấn). Số học sinh dân tộc Chứt bản Rào Tre có 9 em trong đó có 6 em Trung học cơ sở, 3 em tiểu học.
Năm học 2000 – 2001, hệ thống trường trung học phổ thông có thêm trường Phúc Trạch, trường đóng tại địa bàn xóm 6 xã Phúc Trạch. Lúc mới thành lập trường chỉ có 5 lớp học sinh lớp 10.
Thực hiên Nghị định 27/NĐ - CP ngày 04/8/2000 của Chính phủ về thành lập huyện Vũ Quang, huyện tách 5 xã phía Bắc về huyện Vũ Quang. Sau chia tách, số lượng trường học của huyện thay đổi: từ 44 trường tiểu học còn 39 trường và 20 trường Trung học cơ sở. Năm học 2000 - 2001, huyện thành lập thêm Trường THPT Phúc Trạch với 5 lớp 10 ban đầu. Như vậy, tại thời điểm chia tách này, huyện có 3 trường THPT: THPT Hương Khê, THPT Phúc Trạch và trường cấp 2+3 Vụ Quang. Sau ngày chia tách huyện Vụ Quang thành lập trường THPT mang tên trường THPT Vụ Quang. Trong bối cảnh đó trường Cấp 2 - 3 Vụ Quang phải đổi tên gọi. Sau nhiều lần thảo luận, ngày 5/9/2001, UBND Tỉnh quyết định đổi tên trường Cấp 2 + 3 Vụ Quang thành “trường THPT Hương Khê II” và cũng từ đây cấp THPT và THCS cũng được tách ra . Năm 2003, trường THPT Hương Khê II lại đổi tên thành Trường THPT Hàm Nghi. Năm học 2004 - 2005, để chuẩn bị cho chương trình phổ cập giáo dục trung học, huyện thành lập thêm Trường THPT Bán công Hương Khê, đóng tại xã Gia Phố. Đến tháng 6/2008, trường này chuyển thành trường công lập lấy tên là Trường THPT Gia Phố.
Giai đoạn 2010 - 2015, thực hiện Quyết định số 2286/QĐ-UBND, ngày 08.8.2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Ban Chỉ đạo quy hoạch hệ thống trường huyện  đã tiến hành thực hiện việc điều chỉnh quy hoạch, lộ trình để phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Theo đó, Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê đã chỉ đạo bậc tiểu học từ 39 trường sáp nhập còn 23 trường theo đơn vị xã, thị trấn chỉ riêng xã Hà Linh có 2 trường Tiểu học, bậc học Trung học cơ sở  từ 20 trường sáp nhập thành 13 trường. Cụ thể những trường giải thể:
- THCS Hương Đô giải thể, một bộ phận học sinh vào học Trường THCS Phúc Trạch, bộ phận còn lại vào học trường THCS Hương Trà.
- THCS Lộc Yên giải thể, một bộ phận học sinh vào học trường  THCS Hương Trà, một bộ phận vào học trường THCS Thị trấn, một bộ phận và học trường THCS Gia Phố, bộ phận học sinh còn lại học tại trường THCS Hương Giang.
- THCS Hương Xuân giải thể, một bộ phận vào học trường THCS Hương Trà, một bộ phận vào học trường THCS Thị trấn.
- THCS Phú Phong giải thể, học sinh học tại trường THCS Thị trấn.
- THCS Hương Long giải thể, một bộ phận học sinh học tại trường THCS Phú Gia, bộ phận học sinh còn lại tại trường THCS Gia Phố.
- THCS Hương Vĩnh giải thể, học sinh học tại trường THCS Phú Gia.
- THCS Hương Thủy giải thể, một bộ phận học sinh học tại trường THCS Gia Phố, một bộ phận học sinh học tại trường THCS Hương Giang, bộ phận còn lại học tại trường THCS Phúc Đồng.
- THCS Hương Bình giải thể, một bộ phận học sinh học tại trường THCS Hòa Hải, bộ phận còn lại học tại trường THCS Phúc Đồng.
- THCS Phương Mỹ giải thể, một bộ phận học sinh học tại trường THCS Phương Điền, một bộ phận học tại trường THCS Hà Linh.
Bên cạnh hệ thống trường công lập, hệ thống trường dân lập cũng được thành lập. Năm 2013, Trường Mầm non tư thục Trung Kiên ra đời với tổng giá trị đầu tư trên 40 tỷ đồng.
Năm 1996, huyện được công nhận phổ cập tiểu học. Năm 2002, huyện có 22/22 xã, thị đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở, trong đó có 6 đơn vị loại tốt (Phúc Trạch, Nông trường 20/4, Hương Vĩnh, Hương Long, Hương Thủy, Phương Điền), 7 đơn vị loại khá, 9 đơn vị trung bình. Năm học 2002 - 2003, Hương Khê được Bộ giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn Quốc gia phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Với những thành tích xuất sắc đó, năm 2006, ngành giáo dục và đào tạo huyện Hương Khê được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. 
Xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia là một giải pháp tổng hợp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra chủ trương, tiêu chí xây dựng trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 - 2010, công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được chính quyền huyện Hương Khê quan tâm và chỉ đạo thực hiện. Đến hết năm học 2006 - 2007, toàn huyện có 9 trường mầm non, 16 trường trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn II và vẫn là huyện dẫn đầu trong toàn tỉnh Hà Tĩnh về số trường đạt chuẩn quốc gia, huyện thứ hai trong toàn quốc có 100% trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 1996 - 2000. Vào những năm 2010 - 2015, do thực hiện lộ trình sáp nhập trường theo chủ trương nên số trường đạt chuẩn Quốc gia có thay đổi. Tính đến năm 2015, toàn huyện có 31 trường đạt chuẩn quốc gia: Mầm non 13 trường (Hương Liên, Phúc Trạch, Phú Phong, Hương Trà, Gia Phố, Hương Thủy, Phúc Đồng, Hương Bình, Hòa Hải, Phương Điền, Phương Mỹ, Hương Long, Trung Kiên); Tiểu học 12 trường (Thị trấn, Gia Phố, Phú Phong, Hương Thủy, Hương Vĩnh, Phú Gia, Hương Trà, Hương Xuân, Hương Long, Truông Bát, Hương Bình, Phương Mỹ); Trung học cơ sở 6 trường (Hương Giang, Hòa Hải, Hương Trà, Gia Phố, Phúc Trạch, Thị trấn); Trung học phổ thông có 3 trường (Hương Khê, Hàm Nghi, Phúc Trạch).
Cùng với chú trọng công tác dạy và học để cung cấp kiến thức cho các em học sinh, ngành giáo dục huyện Hương Khê đã phát động chiến dịch xây dựng cơ sở vật chất nhằm huy động sự đóng góp của nhân dân, phụ huynh, các tổ chức xã hội đóng góp công sức, tiền của tùy theo điều kiện và khả năng. Nhờ vậy, đến nay phần lớn các trường tiểu học, trung học cơ sở và một số trường mầm non có nhà học cao tầng, nhiều trường có 2 nhà học cao tầng, trang thiết bị trường học được trang bị hiện đại, 100% các trường có máy vi tính, 100% các lớp học có bảng chống lóa… phần lớn các trường nhất là Trung học cơ sở có phòng tin học.
Đến năm học 2015 - 2016, sự nghiệp giáo dục đào tạo của huyện Hương Khê đạt được những thành tựu cơ bản trên các lĩnh vực sau:
Hệ thống trường lớp và số lượng học sinh:
Giáo dục mầm non: Toàn huyện có 23 trường học, trong đó có một trường tư thục với tổng số cháu 7.183 cháu, 223 lớp.
Bậc tiểu học: Toàn huyện có tất cả 23 trường học được tổ chức theo đơn vị thị trấn, xã. Một số xã do địa bàn và dân số lớn nên có 2 trường tiểu học: xã Hà Linh có 2 trường tiểu học là tiểu học Hà Linh và tiểu học Truông Bát. Số học sinh được tổ chức thành 313 lớp với  8.137 học sinh.
Bậc trung học cơ sở:  Hệ thống trường Trung học cơ sở có tất cả 13 trường với 187 lớp học và tổng số 6.232 học sinh.
Từ chỗ 20 trường Trung học cơ sở, hầu hết các xã và thị trấn đều có đồng bộ trường cấp 1, cấp 2 (Tiểu học và Trung học cơ sở), từ sau năm 2014 nhiều trường bị giải thể, vì vậy 9 xã không còn trường Trung học sơ sở. Tình hình đó, gây khó khăn cho việc học tập của các em học sinh ở những địa phương này.
Bậc trung học phổ thông: Hệ thống trường Trung học phổ thông trên toàn huyện có 4 trường (trường Trung học phổ thông Hương Khê, trường Trung học phổ thông Phúc Trạch, trường Trung học phổ thông Hàm Nghi và trường THCS và THPT dân tộc nội trú Hà Tĩnh). Tổng số lớp học 100 lớp với 3.771 học sinh.
Năm học 2015 - 2016, Tỷ lệ tốt nghiệp Trung học cơ sở đạt 97,4%, Trung học phổ thông đạt 92,5%; có trên 500 em đậu vào các Trường Đại học, cao đẳng; 15 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh; 07 em đạt danh hiệu học sinh giỏi quốc gia, 182 em đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp tỉnh (tăng 06 em cấp quốc gia và 23 em cấp tỉnh so với năm học 2014-2015). Toàn huyện có 38/63 trường đạt chuẩn. Duy trì vững chắc phổ cập giáo dục các cấp học, bậc học[26].
Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đã đủ về số lượng. Số lượng giáo viên và cán bộ quản lý đảm bảo theo sự phát triển của quy mô trường lớp. Toàn huyện có 1.722 cán bộ, giáo viên hoạt động trong ngành giáo dục. Trong đó, cán bộ giáo viên, nhân viên mầm non là 412 người, tiểu học là 551 người, trung học cơ sở là 518 người, trung học phổ thông là 241 và cán bộ phòng giáo dục đào tạo huyện là 18 người. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên hầu hết đã được đào tạo về cơ bản, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp giáo dục đào tạo trong giai đoạn mới, hiện nay có 7 đồng chí đạt trình độ chuyên môn là thạc sỹ. Cùng với sự chuẩn hóa về chuyên môn, phong trào phấn đấu trở thành giáo viên giỏi phát triển rất mạnh. Trở thành giáo viên giỏi là mục tiêu phấn đấu của mỗi giáo viên, số đăng ký tham gia ngày một đông. Ngành học mầm non còn tổ chức hội thi cán bộ quản lý giỏi cấp huyện và cử đoàn tham gia thi cán bộ quản lý giỏi cấp tỉnh được xếp giải Nhì.
Công tác khuyến học
Với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, công tác khuyến học ở huyện ngày càng được chú trọng và phát triển. Hội khuyến học Hương Khê có 22 hội cơ sở trên tổng số 22 đơn vị xã, thị trấn. Với tổng số 299 chi hội toàn huyện, 5 ban khuyến học cơ quan, 125 ban khuyến học dòng họ.
Nhiều Hội cơ sở hoạt động rất hiệu quả như Phúc Trạch, Hương Bình, Gia Phố, Phúc Đồng… nhiều dòng họ được Ủy ban nhân dân huyện công nhận dòng họ hiếu học cấp huyện như họ Nguyễn, họ Phạm, họ Trần (Phúc Trạch), Đặng Đình (Phúc Đồng), họ Trần Đình (Lộc Yên), họ Nguyễn Hữu (Gia Phố), họ Lưu (Hương Bình). Họ Hoàng (Hương Long) được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh công nhận dòng họ hiếu học cấp tỉnh.   
Qua bình xét hàng năm, một số trường học sau đây được coi là tiêu biểu hiện nay:
- Trường Mầm non Bán công Bông Sen.
- Trường Tiểu học Thị trấn Hương Khê.
- Trường Trung học cơ sở Chu Văn An.
- Trường Trung học cơ sở Gia Phố.
- Trường Trung học Phổ thông Hương Khê.
- TrườngTrung học Phổ thông Hàm Nghi.
Có thể thấy, trong suốt 150 năm qua, từ một huyện vốn có điều kiện hạn chế, mặt bằng giáo dục vào loại thấp của tỉnh, giáo dục Hương Khê đã vươn lên thành một huyện có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ, nhất là từ sau cách mạng tháng Tám, từng bước đưa Hương Khê trở thành điểm sáng của giáo dục Hà Tĩnh và cả nước, tạo tiền đề vững chắc cho những bước phát triển mới.

Chương 3.
Y TẾ
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến tận những năm 50 của thế kỷ trước, vùng Hương Khê ngày nay vẫn chưa có mạng lưới Y tế để khám, chữa bệnh cho người dân. Vận mệnh con người khá mong manh, sống hay chết phó mặc cho số phận. Tỷ lệ tử vong trẻ em ở đây khá lớn (chết sơ sinh, chết yểu, chết bệnh: ỉa chảy, sốt rét), tuổi thọ bình quân thấp. Thậm chí, người phụ nữ sinh con còn tự sinh, tự đỡ, tự cắt rốn (trước lúc sinh chuẩn bị một thanh cật nứa và một sợi chỉ gai: cây dứa để cắt và buộc rốn), họa hoằn lắm mới có bà đỡ đẻ. Người dân tự phòng và chữa bệnh chủ yếu bằng những kinh nghiệm dân gian, bằng thuốc nam gọi là Y dược dân gian.
Với phòng bệnh, người dân thực hiện tốt “tam tinh” tức là “3 sạch”: ăn sạch, uống sạch, ở sạch. Nghĩa là phải ăn chín, uống sôi; không ăn thức ăn đã ôi, thiu; ở thì phải sạch sẽ… Đồng thời, phải ăn, ngủ điều độ, vận động cơ thể bằng lao động, phải tập cho dạn dày mưa nắng. Cách phòng bệnh thường đúc rút qua các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ cho dễ nhớ, dễ truyền dạy cho hậu thế.
Hương Khê là vùng đất có nhiều cây thuốc và sản vật cụ thể là thuốc: “…Hương Hà thủ ô, ba kích, cù lần, khổ sâm, sâm đại hành, đinh lăng, quả lại, chút ngút, vỏ cáu, trầu không, quế chi, bồ kết, chua cùm, dầu máu, hương nhu, hương bài, lá lốt, mơ lông, xương sông, ổi tàu, mào gà, thạch lựu, tơ hồng, ngải tướng quân, cây ráy, lá nghén, ngải cứu, đơn đỏ, ngũ gia bì, chỉ xác, gấc, dành dành, mã đề, quả ké, I dị, cỏ đỉa, cây vông, thầu dầu, hương lài, hi thiêm, ích mẫu, cây cứt lợn, hương trầm, mẻ tré… Từ da voi đến thịt cóc chữa còi xương, đến con rệp chữa bệnh rắn cắn. Từ nhung hươu, mật gấu, mỡ độc mà người Hương Khê đã tổng kết: mật công, rễ hón, râu hùm…1, nên người dân có vô vàn bài thuốc chữa bệnh hữu hiệu.
Để chữa các bệnh thông thường, người dân tự tìm ra nhiều phương thuốc đơn giản, hiệu nghiệm. Những phương thuốc, vị thuốc chủ yếu là bộ phận của các loại cây cỏ (rễ, cũ, quả, lá, vỏ, thân, hoa) quanh nhà: gừng, nghệ, hành, tỏi, lá chanh, quả chanh, rễ chanh, quýt, lá tía tô, sả, ngải cứu, chè xanh …; các bộ phận của động vật (mật lợn rừng, mật rắn, mật trăn, mật gấu, dạ dày con nhím, lông nhím, mật ong...). Đối với những bệnh thường gặp như: đau bụng đi ngoài, dùng đọt ổi, đọt chè, đọt sim giã nhỏ hòa với ít nước sôi uống; đau bụng gió, lấy gừng sắc uống; ho thì lấy chanh cắt mỏng ướp với muối trắng ngậm; khan cổ, lấy rễ chanh sắc uống; cảm gió, lấy các loại lá kinh giới, lá chanh, lá bưởi, lá tre nấu lên xông và uống nhanh khỏi; Đẻ sót nhau (rau) lấy rau ngót rửa sạch, giã nát, đổ thêm nước đun sôi để nguội, vắt lấy nước uống. Đặc biệt, Hương Khê là vùng rừng núi, bệnh sốt rét khá phổ biến, người dân đã có cách phòng và chữa theo kinh nghiệm dân gian: uống nước chè xanh đặc với mật mía có thể phòng sốt rét hoặc có thể ăn trùn (giun) khoang sống để chữa sốt rét mãn tính; Tưa lưỡi ở trẻ thì lấy mật ong bôi vào lưỡi hoặc lấy mật ong kết hợp với cây cỏ mực vắt lấy nước chà vào lưỡi. Có những loại cây vừa là thuốc hay vừa là gia vị như: chanh, gừng, hành tăm, lá mơ lông, ngải cứu…: hành tăm nấu cháo ăn có tác dụng chữa cảm; lá mơ lông thái nhỏ cùng với một ít ngải cứu đem bác với trứng ăn cho lành bụng; gừng có tác dụng làm ấm bụng, cầm máu, sát trùng; Ngải cứu có tính giảm thống, chữa được nhiều bệnh thông thường, lá khô chuyên dùng để chữa bệnh. Các bà mẹ khi nhức đầu thường đắp một nhúm lá tươi lên trán rồi quấn khăn ra ngoài. Đau lưng, đau xương lấy một ít lá rưới thêm dấm bóp chỗ đau. Đàn bà có thai khi động thai hay đau lưng, mỏi gối thì vò một nắm lá nấu với một bát nước uống để an thai. Có loại vừa làm nước uống vừa làm thuốc: chè xanh, cây vối, chè vằng, chè cỏ. Chè xanh: là loại cây dùng làm nước uống có tác dụng giải nhiệt tốt, dân gian thường dùng vào các mục đích như: lấy nước chè xanh đặc uống với mật mía có tác dụng bổ máu và tiêu hóa tốt, phòng được bệnh sốt rét; nước chè tắm cho trẻ con chống mẩn ngứa, rôm sảy, cũng có thể để rửa vết thương, rửa vệ sinh cho phụ nữ…; đau bụng đi ngoài ở cấp độ nhẹ người ta dùng đọt chè xanh rửa sạch nhai tươi nuốt (nữ 9 đọt, nam 7 đọt); Lá vối, lá chè vằng, lá cây rành rành, rễ cóc cho phụ nữ mới sinh uống để làm sữa thơm, bụng yên và dáng thon gọn. 
Còn có cách chữa bệnh theo phong thủy: thường được các vùng dân tộc, miền núi sử dụng. Khi bị bệnh, người nhà thường đến thầy xem tướng số, bày lễ mời thầy về cúng tà ma theo hủ tục hoặc sửa sang nhà cửa theo hướng “thầy phán”. Cách chữa bệnh này hiện nay vẫn còn trong dân gian.
Ngoài ra, người dân Hương Khê còn chữa bệnh theo theo Y học cổ truyền. Loại hình chữa bệnh này được hình thành từ xa xưa dưới thời phong kiến, được du nhập từ các thầy thuốc người Trung Hoa. Lý luận Đông y dựa trên nền tảng Âm Dương Ngũ Hành. Điều trị bệnh là lập lại cân bằng Âm - Dương đã bị mất thông qua tác dụng của các vị thuốc (chủ yếu là dược thảo) và các phương pháp khác như: châm cứu, bấm huyệt. Việc dò xét phán đoán bệnh tật cũng lấy lý luận cơ bản của Âm dương, Ngũ hành, Tạng phủ, Kinh lạc, Dinh vệ khí huyết làm chỉ đạo, đồng thời cũng phải xuất phát từ quan niệm chỉnh thể. Vì thế, những người chữa bệnh bằng phương pháp Đông y phải có trình độ chữ Hán, họ biết về y thuật, biết về các loại thuốc, cách bắt bệnh. Trước đây, ở Hương Khê có Danh y Đặng Công Biên ở Gia Phố nổi tiếng. Ông  (1761 - 1829) là con trai của ông Đặng Văn Quán làm nghề nông, thợ rèn và buôn bán. Đặng Công Biên là người thông minh, có chí lớn. Được sự dạy bảo của cha nên ông sớm bộc lộ thiên bẩm về nghề y. Lớn lên, ông được đi học nghề Đông y với Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (làng Tình Diệm - huyện Hương Sơn), trở thành học trò giỏi và được thầy cho theo vào Kinh đô Thăng Long để chữa bệnh cho vua quan. Sau này ông về quê, với tay nghề giỏi, ông đã chữa trị cho nhiều người trong vùng. Ông Đặng Công Biên được vua Cảnh Hưng ban sắc phong, tặng thưởng chức vụ. Hiện nay, tại nhà thờ họ Đặng - Gia Phổ đang lưu giữ được 2 đạo sắc phong của Đặng Công Biên:
Đạo sắc phong thứ nhất có nội dung: “Sắc phong cho xã Chu Lễ… cho ông Đặng Công Biên, đã có nhiều công lao trong việc tiến tặng tiền đồng và tiền giấy cống nạp…cho đạo… và đôn đốc quân lính… đã qua chỉ chuẩn, thăng chức Huyện thừa, có thể làm Tiên công thứ lang, Kháng huyện huyện thừa bậc dưới. Vì vậy phong sắc”.
Cảnh Hưng năm thứ 44, ngày 3 tháng 5 (1784)
Đạo sắc phong thứ hai với nội dung: “Sắc phong cho xã Chu Lễ … cho ông Đặng Công Biên, đã có công cung tiến đồng tiền (tiền đồng và tiền giấy) cho nhà nước dùng vào việc quân, đã phong chức Lương y, tước Tử, có thể làm Tiến công Thứ lang, Thái y viện. Vì vậy phong sắc.”
Cảnh Hưng năm thứ …, ngày 8 tháng 9 (thế kỷ XVIII)
(Hiện nay, 2 sắc phong này đang được hậu duệ dòng họ Đặng bảo quả gìn giữ)1.
Về sau, thời nhà Nguyễn, vua Duy Tân lại có Sắc phong cho Danh y Đặng Công Biên làm Thái y nghị sự Thành hoàng bản địa (Quan bản thổ) đã cho lập đền thờ và cấp cho 2,5 mẫu ruộng để làm ruộng tế. Hiện nay, đền thờ không còn, chỉ còn vết tích nền móng trên đồng.
Ngoài danh y Đặng Công Biên, trên đất Hương Khê trước đây còn có một số lương y (thầy lang) như: Phan Văn Sáng, Lê Hoàng Nam (Phú Phong), Lê Khắc Hưng (Hương Long), Trần Mười (xóm 10, Hương Long), Nguyễn Nho Trân, Nguyễn Đức Tính (Hương Đô), Lê Khuê, Lê Viết Chính (Hương Xuân), bà Dung, ông Xanh, Bùi Hiếu (Hương Liên), Đinh Nhâm, Nguyễn Lương, ông Bùi Hiếu, bà Giúc, Trần Cương (Hương Trạch), Nguyễn Thung, Võ Tư Trạch, Võ Vinh (Phúc Trạch), thầy Hiếu, thầy Thuật, thầy Lới (Phúc Đồng), Nguyễn Hữu Bắc (Gia Phố)…. chữa các bệnh : cảm cúm, cảm hàn, phong tê thấp, châm cứu, chữa bệnh liệt thần kinh số 7 ngoại biên, thần kinh tọa, rắn cắn, bệnh hậu sản ở phụ nữ. Nghề thầy thuốc thường được cha truyền, con nối, chủ yếu làm ơn, làm phúc là chính.
- Các loại thuốc chữa bệnh trước đây gồm có hai loại: thuốc Bắc, thuốc Nam.
Thuốc Bắc là các vị thuốc bào chế theo sách của Trung Quốc truyền sang và phát triển bởi các lương y người Việt. Thuốc Bắc được chia làm 5 tính căn bản: tính hàn (lạnh), lương (mát), nhiệt (nóng), ôn (ấm), bình (trung bình so với 4 tính kia); 5 vị: ngọt, cay, đắng, chua, mặn; có 3 loại nguyên liệu: thực vật, động vật, khác. Thuốc thường được khai thác như: rễ, củ, thân, vỏ (vỏ rễ, vỏ thân, vỏ quả, vỏ củ...), hoaquả, hạt; các bộ phận cơ thể động vật như: xương, da, thịt, mỡ, nội tạng, thậm chí cả sừngvây, móng, lông... của chúng; một số loại khoáng chất và tinh thể như: hoàng thổ, thạch tín, băng phiến,... làm thuốc. Các loại thuốc Bắc có nguồn gốc thực vật nói chung hay được phơi khô, tẩm sấy. Tuy nhiên cũng có vị thuốc Bắc được giữ tươi (như nhân sâm). Các loại có nguồn gốc động vật có thể được đem sấy khô (như vây cá mập), ngâm rượu (như tắc kècá ngựa, các bộ phận sinh dục của con đực), nấu thành cao (cao hổ cốt, cao khỉ, v.v...). Thuốc Bắc theo dược điển Trung Quốc có khoảng 200 vị. Người bệnh thường được đề nghị dùng nhiều thang cho một đợt điều trị. Điều trị bằng thuốc Bắc thường mất thời gian hơn so với điều trị bằng y học hiện đại đối với cùng một loại bệnh. Thuốc Bắc được dùng qua đường miệng là chủ yếu. Thuốc đem luộc, hãm, ninh trong nước (sắc thuốc) theo tỷ lệ do thầy thuốc đề nghị. Đối với người bệnh không có điều kiện sắc thuốc, thầy thuốc có thể cho dùng thuốc đã bào chế thành viên. Đối với thuốc Bắc ngâm rượu: bộ phận động vật hay cao, thầy thuốc cũng hướng dẫn cách sử dụng chặt chẽ về thời gian, thời điểm, khối lượng, đối tượng dùng, chỉ định và chống chỉ định. Ngoài ra, thuốc Bắc cũng có thể dùng để chườm, đắp, bôi, bó, xông hoặc để trong gối dùng khi đi ngủ. Thuốc Bắc còn có thể dùng làm thực phẩm trị liệu như: tiềm (hầm) với , gân, nấu canh với cá, xương, nạc, nấu lẩu, làm kẹo ngậm... Hiện nay, một số thuốc được trồng tại Việt Nam nhưng vẫn gọi là thuốc Bắc như: ngũ gia bì, tam thất… Dù là những dược phẩm được lấy từ phương Bắc hay ở Việt Nam thì những bài thuốc đều có sự ghi chép rõ ràng trong sách vở hoặc trong các công trình nghiên cứu về cả liều lượng, nguyên liệu, cách dùng và tác dụng thực tế của vị thuốc.
Thuốc Nam gồm các vị có nguồn gốc động vật, thực vật và cả khoáng vật, hóa chất, nhưng phổ biến nhất vẫn là thực vật. Cũng giống như thuốc Bắc, thuốc Nam cũng được bào chế bằng cách phơi khô, sấy hoặc sử dụng tươi chứ không nấu ra thành cao hoặc bào chế cầu kỳ như thuốc Bắc. Đặc tính của thuốc Nam là từ những cây trồng bản địa rất quen thuộc với người Việt Nam. Những củ, rau, trái quen thuộc như: kinh giới, rau răm, gừng, hành tăm, quả tắt, mật ong, … đều được dùng như một vị thuốc. Nên các vị thuốc Nam đều dễ kiếm, rẻ và có tác dụng tốt trong việc phòng, chữa bệnh.
- Chữa bệnh không dùng thuốc, gồm: Châm cứu, bấm huyệt, nắn khớp, giác hơi, xoa bóp, day, chích, lể, cứu, vật lý trị liệu…; Chữa bệnh bằng tâm lý (tìm lời khuyên giải bệnh nhân). Loại hình này điều trị cho các bệnh liên quan đến xương, khớp, thần kinh.
- Kết hợp dùng thuốc và không dùng thuốc. Đây là phương pháp điều trị thường được áp dụng ở các bệnh viện y dược cổ truyền, khoa đông y. Có khi còn kết hợp Tây y để điều trị bệnh.
Dù thầy thuốc dùng loại hình nào thì cũng cùng mục đích chung là chăm lo sức khỏe cho con người. Vì thế, ngày nay, cơ sở y tế còn kết hợp giữa phương pháp Đông y với Tây y để khám và điều trị bệnh. Vì những hạn chế về công cụ chẩn đoán trong y học cổ truyền hay tình trạng lạm dụng thuốc trong y học hiện đại sẽ được khắc phục tối đa với sự kế thừa và chắt lọc tinh hoa từ hai nền y học. Đông - Tây y phối kết hợp chính là xu thế phát triển tự nhiên và tất yếu của các nền y học trên thế giới.
2.1. Y học cổ truyền
Hoạt động của Y học cổ truyền đã có từ thời Bắc thuộc, song song với Y học dân gian. Ở Hương Khê, các thầy lang, thầy đồ có hiểu biết về các loại cây thuốc nam, cây gia vị vườn nhà có công dụng chữa bệnh, tự bốc sắc kê đơn giúp dân. Sau Cách mạng tháng Tám, các thầy thuốc Bắc, thuốc Nam chủ yếu cũng chỉ bắt mạch, kê đơn tại nhà.
Trước năm 1975, có một số tiệm thuốc Bắc (tại nhà) như: lương y Trần Mười ở xã Hương Long, Lê Viết Chính ở Hương Xuân, Bà Dung ở Hương Liên, Trần Ý (Hương Bình)…. Sau khi đất nước thống nhất đến năm 2016, ở Hương Khê có nhiều tiệm thuốc Bắc (tại nhà hoặc có cửa hàng riêng) hoạt động như: thầy Phan Văn, Lê Đồng (Hương Vĩnh); Trần Cương (Hương Trạch); thầy Phan Trần Lam, Phan Hoát (Hương Bình); Trần Toản (Thị trấn); Nguyễn Nho Trân (xóm Trộp - Hương Đô), Nguyễn Đức Tính (xóm Đượng - Hương Đô); Phan Văn Sáng (Phú Phong); … thuận lợi cho bà con thăm khám và lấy thuốc.
Khoa Đông y - Bệnh viện Đa khoa Hương Khê
 Khoa Đông y được thành lập muộn theo quyết định của Sở Y tế, là đơn vị của ngành Y tế về kết hợp Đông - Tây y trong khám chữa bệnh. Khoa có đội ngũ cán bộ nhiệt tình, giàu kinh nghiệm về đông y.
 Chức năng: Là tổ chức chuyên môn kỹ thuật về y học cổ truyền hoạt động trong Bệnh viện Đa khoa, là cầu nối giữa y học cổ truyền và y học hiện đại. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách để xây dựng hình mẫu tiêu biểu về Khoa Y học cổ truyền trong Bệnh viện Đa khoa.
 Nhiệm vụ: Điều trị bệnh nhân bằng y học cổ truyền (bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt ...). Khám và điều trị kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại. Phối hợp với các khoa Lâm sàng và Cận lâm sàng (xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng ...) trong Bệnh viện nhằm phát huy thế mạnh của hai nền y học để nâng cao chất lượng điều trị. 
Nghiên cứu phát triển chất lượng các phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về y học cổ truyền trong khám và điều trị.
Trang thiết bị được sử dụng chủ yếu là: Máy điện châm, máy xung điện, máy điện di, đai kéo giãn cột sống bằng áp lực hơi, máy sắc thuốc, tủ hấp sấy dụng cụ, máy siêu âm Doppler - THD hướng dẫn thắt trĩ. Với đội ngũ cán bộ có kỹ thuật chuyên môn trong cách điều trị các bệnh bằng phương pháp Đông y. Các cán bộ được đào tạo và sử dụng các kỹ thuật: Kỹ thuật điện châm điều trị, kỹ thuật xung điện, kỹ thuật kích thích điện qua điện cực nhỏ đặt lên da vùng huyệt, kỹ thuật điện di thuốc, kéo giãn cột sống thắt lưng bằng đai kéo dùng áp lực bằng hơi…. 
 Khoa Y học cổ truyền triển khai điều trị nội trú, ngoại trú và kết hợp điều trị với các khoa lâm sàng khác. Phương pháp điều trị: dùng thuốc (Thủy châm, thuốc thang, thành phẩm thuốc y học cổ truyền), không dùng thuốc (điện châm, laser châm, trường châm, thĩ châm, toa bóp bằng tay, toa bóp  bằng máy, đèn hồng ngoại, giác hơi...) điều trị hiệu quả các bệnh cấp và mạn tính nhưBệnh lý cơ xương khớp; thoát vị đĩa đệm; liệt dây thần kinh VII ngoại biên, liệt dây thần kinh III, IV, VI ; Phục hồi di chứng tai biến mạch máu não; Rối loạn giấc ngủ; Rối loạn bài niệu; Bí tiểu; Sỏi thận; Bệnh phụ khoa; Bệnh nam khoa; Bệnh trĩ...
Cuối năm 2016, Khoa y học cổ truyền Bệnh viện đa khoa huyện Hương Khê có 08 Cán bộ nhân viên trong đó có 2 bác sỹ, được giao 13 giường bệnh. Năm 2016, khoa điều trị nội trú 864 lượt bệnh nhân, công suất sử dụng giường bệnh đạt 186%. Bệnh viện được trang bị nhiều máy móc và đào tạo chuyên môn tại Bệnh viện Điều dưỡng phục hồi chức năng Trung ương và Bệnh viện Trung ương Huế, Khoa còn triển khai nhiều kỹ thuật mới trong điều trị phục hồi chức năng như: kéo dãn cột sống cổ, kéo dãn cột sống thắt lưng, điện xung, điện châm, chiếu tia hồng ngoại, siêu âm sóng ngắn, đắp nến farafin, các máy tập vận động,....
Từ những kết quả đạt được, hàng năm khoa luôn đạt danh hiệu tập thể lao động tiên tiến, đã và đang xây dựng khoa phòng thân thiện. Khoa đã được bệnh nhân nằm điều trị tại khoa ca ngợi tinh thần thái độ phục vụ của nhân viên và kết quả chữa bệnh.
Hội Đông y ở Hương Khê
Là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công dân Hương Khê hành nghề Đông y, Đông dược, hoạt động trong lĩnh vực khám chữa bệnh bằng Đông y, thừa kế, phát triển, bảo tồn một bộ phân di sản văn hóa dân tộc. Hội Đông y Việt Nam có vai trò nòng cốt trong phát triển nền Đông y Hương Khê.
Tháng 6/1960, Hội Đông y Hương Khê được thành lập, đặt trụ sở làm việc tại Chu Lễ sau đó chuyển về Hương Long. Sau này trụ sở được dời từ Hương Long về Thị trấn. Ban đầu, để hoạt động, Hội cử ra Ban Chấp hành lâm thời gồm Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Năm 1961, Hội tổ chức Đại hội chính thức khóa đầu tiên. Đại hội bầu cụ Nguyễn Lới (Phúc Đồng) làm Chủ tịch. Từ đó đến nay, hội đã trải qua các nhiệm kỳ chủ tịch: Lê Đình Uyên, Lê Đình Mười, Phan Thuật, Nguyễn Đình Tác, Phan Văn Sáng, Lê Thành Chu, Nguyễn Tùng Lê Khắc Hưng, Nguyễn Đức Cường.
Từ khi thành lập đến nay (2015), Hội có 09 chi hội với 40 hội viên. Hội đã cùng với ngành y tế thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, làm tốt công tác phòng ngừa dịch bệnh, kết hợp giữa tây y và đông y trong điều trị. Trung bình mỗi năm có khoảng trên 600 lượt điều trị và thăm khám.  Với những thành tích đã đạt được, nhiệm kỳ qua nhiều tập thể và hội viên Hội Đông y huyện vinh dự được Trung ương Hội Đông y Việt Nam tặng bằng khen,Tỉnh hội, UBND huyện tặng giấy khen.    
Ngay nay, phần lớn các trạm xá đều có trồng cây thuốc Nam. Vườn nào, các cụ cũng trồng các cây thuốc như: đinh lăng, rẻ quạt, ngải cứu, cỏ mực, tía tô, kinh giới, gừng, nghệ… và được các hội viên chăm sóc.
2.2. Y học hiện đại
Y học hiện đại là loại hình chữa bệnh bằng tân dược với các phương tiện, y cụ hiện đại để chẩn bệnh, trị bệnh trên cơ sở khoa học. Các thầy thuốc được đi học nhiều năm tại các cơ sở đào tạo chính quy, trải qua các kỳ thi cử, có bằng cấp, có giấy phép hành nghề, theo quy định của Nhà nước. Các cơ sở chữa bệnh là bệnh viện các tuyến với các khoa, phòng và các tiện nghi hiện đại mà trước đây ta gọi là “nhà thương” cùng với các tuyến cơ sở.
Phòng y tế
Năm 1952, bệnh xá đầu tiên ở Hương Khê được xây dựng tại Chu Lễ do Y sỹ Bùi Trọng Hoán làm trạm trưởng, mở đầu cho ngành y tế ở Hương Khê đi vào hoạt động có tổ chức, trụ sở làm việc. Năm 1958, Phòng y tế huyện được thành lập do y sỹ Hoàng Hiền phụ trách. Trụ sở đóng tại Chu Lễ. Mới thành lập, cơ sở vật chất còn sơ khai, đội ngũ cán bộ ít ỏi vừa làm công tác khám chữa bệnh vừa tuyên truyền vận động nhân dân làm tốt công tác phòng, chữa bệnh.
Sau thành lập, Phòng tập trung chỉ đạo xây dựng Bệnh viện huyện và trạm y tế (trạm xá) các xã - thị. Cuối năm 1960, đây là thời gian đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc theo Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nên việc củng cố và xây dựng trạm y tế (trạm xá) ở các xã, thị được tiến hành thuận lợi. Từ đây, hệ thống y tế của huyện được hoàn chỉnh, bao gồm phòng y tế, bệnh viện và các trạm y tế xã - thị. Phòng chịu sự quản lý về hành chính của Ủy ban nhân dân huyện và chuyên môn của Ty Y tế tỉnh Hà Tĩnh. Phòng tích cực phối hợp với chính quyền địa phương chọn cử một số con em đã học hết cấp 2 đi học các lớp y sĩ, y tá, hộ lý, hộ sinh tại cơ sở đào tạo chuyên môn do Ty Y tế tổ chức để về làm việc cho Bệnh viện và các trạm y tế.
Từ năm 1963, y sỹ Ngô Văn Cẩm được cử làm Trưởng phòng, với 15 cán bộ làm việc ở các trạm (mỗi trạm có từ 1 - 2 y tá hoặc hộ lí, hộ sinh giúp việc). Từ năm 1964 đến năm 1972, cuộc chiến tranh phá hoại diễn ra ác liệt ở miền Bắc nước ta, cán bộ phòng y tế bước vào thời kỳ phục vụ quân và dân trên địa bàn chống cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Phòng y tế đã làm tốt công tác quản lý, điều tiết kịp thời khi Sở Y tế cho phép bộ phận dược được pha chế các loại dung dịch chuyền và một số thuốc dùng ngoài để phục vụ bệnh nhân và điều một số cán bộ chuyên khoa (khoa mổ, khoa ngoại) về công tác, tăng cường cho bệnh viện huyện. Sau khi đất nước thống nhất, cơ sở vật chất bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Để tiện cho công tác quản lý, Phòng Y tế được chuyển về Trại Lăng.
Tháng 11/1980, theo quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Y - Thể và Đội vệ sinh phòng dịch được thành lập. Ban và các đội có tài sản và con dấu riêng.
Sau hơn 10 năm trải qua những bước thăng trầm, Phòng y tế được chuyển về trung tâm Thị trấn. Năm 1992, thực hiện chủ trương của nhà nước, để tăng cường hơn nữa chức năng của một cơ quan sự nghiệp có thu theo tinh thần đổi mới của chuyên ngành hơn là nặng về công tác quản lí hành chính, Ủy ban nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập Trung tâm Y tế huyện Hương Khê trên cơ sở Phòng y tế, Bệnh viện huyện và Đội Vệ sinh phòng dịch. Nhưng sau gần 13 năm hoạt động, trước những yêu cầu nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, năm 2005, thực hiện Nghị định số 72/NĐ-CP của Chính phủ, Phòng y tế được tái lập. 
Cho đến nay, phòng y tế trải qua 9 nhiệm kỳ trưởng phòng (Bùi Trọng Hoán, Hoàng Hiền, Ngô Văn Cẩm, Đặng Hoàng, Nguyễn Lân, Trần Cảnh, Ngô Tường, Phạm Văn Khang, Phan Văn Thuận), các thế hệ cán bộ luôn thực hiện theo đường lối lãnh đạo của Đảng, của Bộ y tế, Sở y tế, hệ thống y tế từ huyện đến cơ sở đã được đầu tư, củng cố cơ bản về cơ sở vật chất, cán bộ chuyên môn trên khắp 22 xã, thị trấn.     
Bệnh viện đa khoa Hương Khê 
Sau khi giành được chính quyền (1945), cả huyện Hương Khê chỉ có một Nhà hộ sinh ở Trúc từ thời Pháp để lại. Toàn ngành y tế của huyện lúc bấy giờ chỉ có các y tá, nữ hộ sinh, vệ sinh viên của Nhà hộ sinh Trúc đảm nhiệm dưới sự chỉ đạo của y tá Châu.
Năm 1952, y sỹ Bùi Trọng Hoán cùng 5 cán bộ y tế khác từ miền xuôi lên huyện Hương Khê làm nhiệm vụ khám bệnh và tuyên truyền công tác vệ sinh phòng bệnh cho nhân dân, đảm nhiệm chức vụ trưởng phòng.
 Cuối năm 1957, đầu năm 1958, Bệnh xá Chu Lễ chính thức được xây dựng. Cán bộ y tế vừa làm công tác khám chữa bệnh, vừa tuyên truyền nhân dân làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh.
Năm 1962, Bệnh xá Chu Lễ được nâng cấp thành Bệnh viện Hương Khê. Bệnh viện đã thành lập thêm các khoa: Sản, Ngoại, Nội, Nhi, Lây, Dược với 50 giường bệnh và Phòng khám. Từ đây, các tổ chức nhân sự cũng được thành lập bao gồm: Chi bộ, Tổ Công đoàn. Trình độ của đội ngũ cán bộ y tế cũng được nâng cao.
Tháng 8/1964, Bệnh viện được chuyển về Trại Lăng (Gia Phố). Năm 1965 Mỹ ném bom oanh tạc Hương Khê. Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 31/3/1965, máy bay Mỹ ném bom vào khu vực bệnh viện, đồng chí Vũ Quang Đức bị hy sinh khi đang mổ cấp cứu cho sản phụ và trẻ sơ sinh. Trước hoàn cảnh đó, để đảm bảo công tác khám chữa bệnh cho quân và dân không bị gián đoạn, một số y, bác sỹ đã về xã Hương Long dựng lán, đào hào đắp lũy, tổ chức thu dọn và tiếp tục công tác cấp cứu bệnh nhân. Sau đó, Bệnh viện Hương Khê xây thêm nhà mổ, phòng lây và trang bị thêm máy điện quang tại địa điểm này. Đây là sự cố gắng lớn trong điều kiện chiến tranh. Thời gian này, bệnh viện được sự hỗ trợ về chuyên môn của Đội điều trị 46 Quân khu IV đóng tại Hương Bình để cấp cứu và điều trị bệnh nhân.
Từ năm 1965 đến năm 1972, chiến tranh diễn ra ác liệt, thương binh, bệnh nhân chủ yếu là điều trị tại chỗ, thuốc men rất khó khăn. Trước tình hình đó, Sở Y tế cho phép bộ phận dược được pha chế các loại dung dịch truyền và một số thuốc dùng ngoài để phục vụ bệnh nhân. Trong thời gian này, Bác sỹ Đặng Hoàng - Bệnh viện trưởng được cấp trên cho đi thực tập sinh tại Đức. Bác sỹ Nguyễn Lân được điều về làm Bệnh viện trưởng.
Cùng thời đó, Bệnh viện nhận một số sinh viên Đại học y về thực tập, Sở Y tế Hà Tĩnh còn cử Bác sỹ Viên Quốc Đống mới tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội về công tác tại bệnh viện, cử nhiều đoàn cán bộ đi phục vụ chiến trường như: bác sỹ Trần Chế, y sỹ Đặng Trọng, y tá Hồ Sỹ Nhân… Đây là sự đóng góp sức người và chuyên môn kịp thời của bệnh viện cho tiền tuyến.
Chiến tranh phá hoại lần thứ hai kết thúc, bệnh viện chuyển về Trại Lăng (Gia Phố) và sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, bệnh viện được xây dựng tại khu vực miếu Cây Thau thuộc đất Phú Phong (nay là Thị trấn huyện). Lúc này đội ngũ thầy thuốc đã được bổ sung, tổng số bác sỹ và dược sỹ đã là 17 người. Từ năm 1980 - 1986, qua nhiều lần bổ sung và thay đổi nhân sự, bổ sung thêm cán bộ y tế, y cụ, giường bệnh, phòng ốc…bệnh viện đã được nâng cấp.
Tháng 7/1992, theo Quyết định của Sở y tế Hà Tĩnh, Bệnh viện trở thành đơn vị hành chính của Trung tâm Y tế huyện. Đây là thời kỳ (1986 - 1992) do Thạc sỹ, Bác sỹ Nguyễn Văn Mậu làm giám đốc (1980 - 1992).
 Tháng 7/2007, Bệnh viện đa khoa huyện Hương Khê được tái lập theo Quyết định số 1698/QĐ-UBND ngày 22/6/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với chức năng, nhiệm vụ là khám và chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn huyện Hương Khê. Bệnh viện đã làm tốt công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học về y học; Phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng huyện thực hiện có hiệu quả các Chương trình y tế Quốc gia tư vấn về công tác Phòng bệnh và chống dịch; Từng bước thực hiện thắng lợi Nghị định 43/2006/NĐ - CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu; Tham gia các Chương trình hợp tác Quốc tế theo quy định của Chính phủ.
Năm 2008, thực hiện Nghị định 14 của Chính phủ và Thông tư 03/2008/TTLT/BNV-BYT, bệnh viện được tách thành đơn vị hành chính độc lập và hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bộ Y tế. Từ đó đến nay, Ban lãnh đạo bệnh viện không ngừng đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc và nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ để thực hiện tốt Chỉ thị số 05/CT - BYT ngày 10/9/2013 của Bộ Y tế về việc tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám - chữa bệnh cho nhân dân và Chương trình 527/CT - BYT ngày 18/6/2009 của Bộ Y tế về việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh vì mục tiêu đáp ứng hài lòng của người bệnh BHYT.
 Gần 60 năm (1957 - 2016) xây dựng và trưởng thành, từ buổi đầu chỉ có 30 giường bệnh với đội ngũ thầy thuốc hầu hết là y sỹ và y tá. Đến năm 2016, bệnh viện đa khoa huyện Hương Khê đã có 165 Y Bác sỹ, trong đó có 41 Bác sĩ, Dược sĩ Đại học, trong đó có 21 Bác sĩ có trình độ sau Đại học, cán bộ có trình độ Cao đẳng là 05 người), bệnh viện có 04 Phòng chức năng, 10 Khoa Lâm sàng, 03 Khoa Cận lâm sàng với 140 giường bệnh. Vật tư trang thiết bị y tế đáp ứng yêu cầu của Bệnh viện đa khoa hạng II: Máy siêu âm in màu 4D, máy nội soi Tai - Mũi - Họng, máy Đo loãng xương, máy Điện tim 3 cần, máy Đo lưu huyết não, máy Xét nghiệm huyết học tự động 18 thông số, máy X - quang kỹ thuật số. Từ năm 2015, bệnh viện đã triển khai được kỹ thuật lâm sàng mới: nội soi cổ tử cung, đóng đinh nội tủy xương đòn, cố định răng gãy rụng bằng chỉ thép, đa vít AO, cố định gãy hai xương cẳng chân, bướu cổ, thoát vị bẹn, đặt mảnh ghép lenstein, nẹp vít AO... khám điều trị cho nhân dân từ vùng cao, vùng xa, đồng bào dân tôc bản Rào Tre, Bản Giàng và cán bộ lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ ở biên giới Việt - Lào. Trong đó khám nội trú cho hơn 88.900 lượt người, đạt 115%, điều trị nội trú hơn 10.000 bệnh nhân, đạt 124,7%, điều trị ngoại trú 123,37%, phẫu thuật cho bệnh nhân đạt 180,55%, số sản phụ sinh tại BV đạt 130,7% so với năm ngoái, giảm tỉ lệ tử vong thấp nhất, công suất sử dụng giường bệnh đạt 140%.
Tính từ khi tái thành lập đến nay, bệnh viện đã được cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội, các doanh nghiêp đầu tư: dự án 2008 thiết kế 45 tỉ đồng (được phê duyệt vốn 30 tỉ đồng, trong đó vốn trái phiếu chính phủ 14,2 tỉ đồng); đồng chí Võ Trọng Hải - Phó chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh, hỗ trợ 100 triệu đồng để xây hai phòng điều trị chất lượng cao, 5 dàn máy điều hòa nhiệt độ; các doanh nghiệp (doanh nghiệp Quỳnh Anh, Đức Tài, Hoàng Anh, Đức Thắng… ) đã đăng ký hàng trăm triệu đồng xây dựng cơ sở vật chất mua trang thiết bị phục vụ khám và điều trị. Bệnh viện đã triển khai được 06 kỹ thuật lâm sàng mới đó là: Phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng dạ dày, cắt ruột thừa, cắt u nang buồng trứng; Đặt Catheter tĩnh mạch trung tâm dưới hướng dẫn của Siêu âm; Thở máy liên tục trên 8 giờ và Đo áp lực tĩnh mạch trung tâm.
Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, Bệnh viện đa khoa Hương Khê vẫn luôn khẳng định vị trí của mình và thực sự đã trở thành địa chỉ đáng tin cậy của cán bộ và nhân dân huyện nhà.
Trung tâm y tế dự phòng huyện Hương Khê
Tháng 7/1992, Sở Y tế quyết định thành lập Trung tâm Y tế huyện Hương Khê, bao gồm: Ban Giám đốc, phòng kế hoạch tổng hợp, phòng tài vụ, phòng tổ chức hành chính, đội vệ sinh phòng dịch, đội 07, phòng khám trung tâm, các khoa lâm sàng, bệnh viện, 2 phòng khám khu vực và 27 trạm y tế xã, thị với 106 cán bộ có trình độ bác sỹ, y sỹ, y tá, dược sỹ (trong đó có 19 bác sỹ), 148 giường bệnh.
Về tổ chức: Trung tâm có Giám đốc, Phó giám đốc do Giám đốc Sở Y tế bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi có ý kiến bằng văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trung tâm thống nhất quản lý các tổ chức y tế hiện có: Đội y tế dự phòng; Đội bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình Bệnh viện Đa khoa huyện; Phòng khám đa khoa khu vực; Các phòng chức năng giúp việc giám đốc: Phòng kế hoạch tổng hợp, Phòng Tổ chức hành chính, Phòng Tài chính - kế toán và Phòng Điều dưỡng. Hệ thống bệnh viện được phân thành 12 khoa, 2 bộ phận. Ngoài ra, còn tổ chức 2 đội lưu động (đội 07 - sinh đẻ kế hoạch và đội vệ sinh phòng dịch).
Trung tâm có tư cách pháp nhân, có con dấu, được Nhà nước cấp kinh phí và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ đó, năm 1994, Trung tâm y tế bắt đầu thực hiện dự án đầu tư của chính phủ Hàn Quốc khởi công xây dựng Trung tâm y tế từ vốn liên kết giữa hai nước (Hàn Quốc và Việt Nam). Dự án được triển khai có hiệu quả. Cơ sở hạ tầng được xây dựng, Trung tâm hoạt động có nhiều thay đổi.
 Đến năm 1999 - 2005, Trung tâm Y tế Hương Khê tiếp tục củng cố hệ thống tổ chức theo mô hình trung tâm y tế cấp huyện với đội ngũ cán bộ viên chức công tác trong ngành y từ cấp huyện và tương đương đến cấp xã.
Năm 2006, thực hiện Nghị định 172/CP của Chính phủ về việc sắp xếp lại hệ thống Y tế cấp huyện, Trung tâm Y tế  Hương Khê tách thành hai cơ quan: Phòng y tế và Trung tâm Y tế dự phòng. Theo quyết định 2171 của Sở y tế Hà Tĩnh, ngày 31/12/2007, Trung tâm Y tế dự phòng huyện Hương Khê được thành lập. Sở y tế trực tiếp bổ nhiệm bác sỹ Nguyễn Trường Thành - Phó Giám đốc Trung tâm y tế làm quyền Giám đốc trung tâm (từ tháng 12/2007 đến tháng 10.2008). Tháng 8/2008, Bác sỹ Thành nghỉ hưu. Tháng 11/2008, Sở y tế Hà Tĩnh, Ủy ban Hương Khê bổ nhiệm Bác sỹ Phạm Văn Khang (Trưởng phòng y tế huyện) làm giám đốc Trung tâm cho đến nay.
Về tổ chức trung tâm gồm: 1 giám đốc, 1 phó giám đốc, hai phòng chức năng nghiệp vụ, 5 khoa chuyên môn hoạt động theo hướng chức năng, nhiệm vụ về y tế dự phòng, phòng chống các bệnh xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm, truyền thông giáo dục sức khỏe trên địa bàn và một số nhiệm vụ khác được Sở, Ngành và Ủy ban nhân dân huyện giao. Đến tháng 3/2014, Trung tâm y tế dự phòng được bàn giao về Ủy ban nhân dân huyện quản lý, trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện với tổng số cán bộ viên chức là 32 người.
Trong thời gian đầu hoạt động (2008 - 2012), cơ sở vật chất còn khó khăn: chưa có trụ sở làm việc riêng, mượn phòng làm việc của Bệnh viện, thiếu trang thiết bị, phương tiện phục vụ chuyên môn, công tác phòng chống dịch cũng như hoạt động khác. Năm 2013, Dự án Bắc Trung Bộ đã đầu tư xây dựng trụ sở làm việc và trang thiết bị hoạt động, Trung tâm đã có trụ sở làm việc và bước đầu có trang thiết bị cơ bản để hoạt động.
Từ năm 1992 - 2016, trung tâm được sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể, công tác tuyên truyền và phòng các dịch bệnh thực hiện tốt nên trên địa bàn không có dịch bệnh lớn xảy ra, tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết giảm từ 20 - 25%, không có bệnh nhân tử vong do sốt rét, các vụ dịch nhỏ được phát hiện sớm và dập tắt kịp thời. Các chương trình phòng chống lao và sức khỏe tâm thần, phòng chống HIV/AIDS và chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm được triển khai trên diện rộng và thực hiện có hiệu quả. Việc thực hiện các chương trình y tế quốc gia: phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ, tiêm chủng cho các cháu dưới 1 tuổi, tiêm uốn ván cho phụ nữ có thai … được đẩy mạnh. Cùng với đó, việc chăm sóc sức khỏe sinh sản được triển khai hoạt động đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn tại trung tâm là việc chỉ đạo tuyến y tế cơ sở làm tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân, thực hiện tốt quy chế chuyên môn, không để xảy ra sai sót chuyên  môn, không để xảy ra tình trạng thiếu thuốc, phục vụ nhu cầu thuốc thiết yếu cho nhân dân trên địa bàn.
Từ nguồn ngân sách và sự hỗ trợ của các dự án khác nhau, hệ thống y tế cơ sở từng bước được củng cố về cơ sở vật chất và trang thiết bị. Đến nay 100% trạm y tế xã được xây dựng cơ bản, có đủ các trang thiết bị xây dựng thông thường, trang bị vi tính khám chữa bệnh cho nhân dân. Số trạm có bác sỹ đạt 77%, mạng lưới y tế thôn bản hoạt động có nề nếp, bố trí đủ cán bộ y tế thôn, bản.
Phát động phong trào thi đua làm theo lời Bác dạy “thầy thuốc như mẹ hiền” thực hiện tốt 12 điều y đức, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên được quán triệt thường xuyên, sâu sát đi đôi với kiểm tra, kiểm soát và đề xuất khen thưởng kịp thời cho tập thể, cá nhân. Trong những năm sau khi chia tách thành lập trung tâm, mặc dầu còn gặp nhiều khó khăn nhưng tập thể cán bộ viên chức đơn vị đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn để thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Năm 2012, đơn vị đã được UBND tỉnh tặng thưởng cờ thi đua là đơn vị dẫn đầu trong công tác phòng chống dịch bệnh.
 Trong những năm 2013 đến nay, trung tâm hàng năm được sở y tế đánh giá và xếp loại đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 2015, được cấp trên xét công nhận là đơn vị cơ quan đạt chuẩn văn hóa. Đến nay trung tâm y tế dự phòng huyện tiếp tục quản lý, chỉ đạo trực tiếp các hoạt động Trạm y tế xã, thị trấn, kiện toàn củng cố bộ máy hoạt động, thực hiện làm tốt công tác chuyên môn KCB BHYT ban đầu tại cơ sở, công tác phòng chống dịch bệnh trên địa bàn, các chương trình Mục tiêu Quốc gia về y tế, gắn với tiêu chí 15 trong Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới.
 Hệ thống tổ chức y tế các xã và Thị trấn
Trạm y tế cơ sở xã và thị trấn được xây dựng từ những năm đầu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dưới hình thức trạm cấp cứu quân - dân y hoặc trạm hộ sinh.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, tháng 9/1960, thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ Nhất, hệ thống y tế cấp huyện được khẩn trương xây dựng. Lúc này, quầy hàng dược phẩm được bố trí tại cửa hàng bách hóa tổng hợp huyện; các trạm y tế (trạm xá) xã và huyện lỵ (thị trấn) được cũng cố và đầu tư mạnh mẽ. Về cơ bản, chỉ sau một thời gian ngắn, hệ thống y tế được hình thành và đi vào hoạt động tuy cơ sở vật chất còn nghèo nàn, chủ yếu là nhà tranh tre, nứa lá; cán bộ còn thiếu và yếu, hầu hết các trạm y tế chỉ có y tá, hộ sinh; trang thiết bị còn lạc hậu, thiếu thốn.
Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, y bác sỹ Bệnh viện huyện đã có những đóng góp to lớn trong việc cấp cứu, tải thương, điều trị cho các lực lượng quân và dân trên địa bàn sau những trận ném bom, bắn phá của máy bay Mỹ.
Từ sau thống nhất nước nhà, đất nước đứng trước những khó khăn lớn do Mỹ cấm vận kinh tế, môi trường sinh thái bị xuống cấp ngày càng nghiêm trọng, nhiều loại bệnh mới xuất hiện trong lúc tân dược gần như không đủ, nhất là kháng sinh. Trước tình hình đó, hệ thống Y tế huyện đã chỉ đạo chuyển hướng mạnh mẽ sang sử dụng những thành tựu của Y tế dân gian và Y học cổ truyền có sự kết hợp thành tựu của Y học hiện đại để giải quyết các mâu thuẫn đó. Trong đó, phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” và “Phòng bệnh là chính” cũng như tích cực mở rộng diện tích trồng cây thuốc Nam, nhất là cây có chứa kháng sinh như Bồ công anh,… đã cho kết quả tốt, giúp điều trị một số bệnh thông thường.
Khi thực hiện công cuộc đổi mới, hệ thống Y tế của huyện từng bước có sự phát triển đáng kể cả về cơ sở vật chất, đội ngũ, phương tiện khám và chữa bệnh, thuốc tân dược. Các trạm Y tế xã, thị trấn và nhất là Bệnh viên Đa khoa huyện đã chuyển mạnh sang ứng dụng những thành tựu của y học hiện đại, nhất là việc ứng dụng các thiết bị cận lâm sàng, xét nghiệm sinh hóa... và kết hợp phương pháp đông tây y trong viên khám, điều trị bệnh. Hiện nay đã có 19/22 xã đạt chuẩn Quốc gia về Y tế ở mức độ I và II. Còn 3 trạm y tế (Hà Linh, Phú Gia và Phương Mỹ) đang phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia về Y tế. Trong số đó, một số trạm thực sự trở thành địa chỉ đáng tin cậy của nhân dân như: Phúc Đồng, Chu Lễ, Hương Vĩnh, Hương Long, Lộc Yên, Phúc Trạch… với tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ y bác sỹ, cơ sở vật chất hạ tầng, y cụ đảm bảo. Tuy có những xã cơ sở vật chất chưa thật sự đầy đủ nhưng với nhiệt huyết chăm lo sức khỏe cho dân của đội ngũ y bác sỹ (như Hương Vĩnh, Hương Lâm: những xã miền núi, có nhiều hộ dân tộc Chứt sinh sống, dân cư phân bố không tập trung nên rất khó khăn trong công tác truyên truyền phòng, chữa bệnh, thực hiện các mục tiêu y tế) vẫn thu hút ngày càng đông người bệnh đến khám, điều trị.
Tính đến hết năm 2016, ngành Y tế huyện Hương Khê có 1 Bệnh viện đa khoa, 1 Trung tâm Y tế Dự phòng, 22 Trạm Y tế xã, thị, Hội Đông y, 3 phòng khám tư nhân (Phòng khám đa khoa Nhân Đức, Phòng khám đa khoa Tân Thành, Phòng khám Nha khoa Hà Nội). Ngành đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và thu được những kết quả đáng trân trọng. Những thành quả này đã có sự đóng góp của các thầy thuốc ưu tú: Trần Quốc Việt, Nguyễn Viết Đống, Nguyễn Văn Mậu, Bùi Quang Thắng. Bên cạnh đó cũng có sự giúp sức, chung tay của một số thầy thuốc người Hương Khê nhưng công tác ở địa phương khác như: Dương Đức Bính, Lê Thị Hoa, Trần Văn Mô, Trần Thiện Toàn, Lê Hòa, Dương Đức Hùng (Bác sỹ mổ tim hàng đầu hiện nay)… 


THỂ DỤC - THỂ THAO

Trước năm 1945, chưa thu thập được tài để phản ánh các hoạt động thể dục thể thao ở Hương Khê, chỉ có một số trò chơi dân gian, nhất là các trò chơi mang tinh thần thượng võ và rèn luyện thân thể phát triển rộng khắp toàn huyện. Mỗi lứa tuổi đều có những trò chơi riêng, mang tính tập thể cao. Điều kiện, phương tiện để tổ chức một trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, thể hiện tinh thần cởi mở, trí thông minh, đoàn kết phù hợp với từng lứa tuổi.
Lứa tuổi thiếu niên: Thường có những hoạt động vui chơi phù hợp với bản năng hiếu động. Mỗi loại trò chơi đều có tác dụng rèn luyện riêng như: trí lực, trí tuệ, sự khôn khéo, tinh mắt, nhanh tay; có loại mang tính tập thể và tinh thần đoàn kết cao, phối hợp chặt chẽ như: thả diều, bịt mắt bắt dê, nhảy dây, đánh trận giả, nhảy lò cò, đánh đáo, đánh khăng, rồng rắn, cướp cờ, mèo đuổi chuột… Các trò chơi này ở địa phương nào cũng có.
Lứa tuổi thanh niên: các trò chơi thể hiện một tinh thần thượng võ, coi trọng việc rèn luyện sức khỏe, nét đẹp thể hình. Mặt khác, các trò chơi còn rèn luyện thân thể để thích nghi với hoàn cảnh, điều kiện sống nơi núi rừng hiểm trở. Phổ biến là các trò chơi: kéo co, leo cột, vật, đánh cờ. Một số xã ven sông Ngàn Sâu còn có trò đua thuyền, bơi lội. Các xã Phú Gia, Hương Vĩnh, Hương Lâm, Hương Liên có trò đánh đu, thường tổ chức vào dịp đầu xuân. Trong số các trò chơi trên thì đua thuyền, vật, kéo co, leo cột, đánh cờ thường được dùng để thi thố tài năng trong các dịp lễ hội nhằm tái hiện những chiến tích, ôn lại kỷ niệm chiến công oanh liệt của ông cha trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Thời Pháp thuộc đã có một số môn thể thao mới du nhập vào Việt Nam như: thể dục, bóng đá, điền kinh, đua xe đạp…
Tại Hương Khê, trong giai đoạn này ngoài các trò chơi dân gian có tính thể thao phân theo lứa tuổi phát triển thì các môn thể thao như: bóng đá, bơi lội, chạy thi được du nhập vào. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng chưa sâu. Năm 1936, thực hiện phong trào đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, các phường, hội được thành lập để giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Theo đó, Hội bóng đá được thành lập nhằm tập hợp thanh niên rèn luyện sức khỏe, thi đấu giao lưu và hoạt động cách mạng. 
Ngoài dân tộc Kinh, ở Hương Khê còn có đồng bào dân tộc Chứt (Mã Liềng), dân tộc Lào, Mường (còn gọi là người Nguồn) nhưng do số hộ dân ít, họ sinh sống chủ yếu ở vùng núi cao, hẻo lánh nên việc tổ chức các trò chơi, các hoạt động thể dục, thể thao thời kỳ này hầu như không có.

1.  Tổ chức bộ máy quản lý thể dục thể thao cấp huyện, xã
Tổ chức bộ máy quản lý thể dục, thể thao cấp huyện, xã từ trước đến nay có nhiều thay đổi. Năm 1971, trên cơ sở Nghị quyết số 1035-NQ/TVQH ngày 09/01/1971 Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định số 13/CP ngày 19/01/1971 của Chính phủ về việc sửa đổi tổ chức TDTT, quy định tổ chức bộ máy của Tổng cục TDTT và hệ thống tổ chức TDTT địa phương, Hương Khê sắp xếp lại Ban TTDT thành Phòng TDTT huyện. Sau này, phòng TDTT còn có nhiều lần tách nhập, khi là một bộ phận trực thuộc văn phòng ủy ban, khi sáp nhập với ngành văn hóa, với quân sự, với y tế. Từ năm 1988, tách thể thao ra khỏi phòng Y thể nhập vào phòng văn hóa thông tin. Năm 1994, huyện thành lập Trung tâm văn hóa thể thao du lịch, phòng văn hóa thông tin thể thao là một bộ phận của trung tâm này. Đến năm 2005, phòng văn hóa thông tin thể thao được tách ra từ Trung tâm văn hóa thông tin thể thao. Đến năm 2008, phòng văn hóa thông tin thể thao được sáp nhập với phòng du lịch thành phòng văn hóa thông tin thể thao và du lịch.
Ở cấp xã: bộ máy tổ chức quản lý thể thao cũng được kiện toàn nhằm chăm lo sức khỏe trong nhân dân. Thời kỳ 1957 - 1965, cấp xã có Ban thể dục thể thao có từ 3-5 người gồm một trưởng ban chuyên trách và một số ủy viên giúp việc. Từ năm 1965 đến nay ở xã có cán bộ giúp ủy ban xã quản lý và tổ chức các phong trào, hoạt động thể dục, thể thao tại cơ sở.
        Bộ máy ngành quản lý thể dục thể thao huyện Hương Khê hiện nay gồm có
Phòng Văn hóa - Thông tin: phòng được thành lập vào năm 2005 trên cơ sở tách ra từ Trung tâm Văn hóa thông tin - Thể thao. Đây là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện. Theo Nghị định 37/QĐ- UBND, phòng có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện quản lý Nhà nước về các lĩnh vực: Văn hóa, Gia đình, Thể dục, Thể thao, Du lịch, Bưu chính, Viễn thông, Internet, Công nghệ thông tin, Hạ tầng thông tin, Phát thanh, Tần số vô tuyến điện, Báo chí xuất bản.
 Phòng Văn hóa - Thông tin có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Ủy ban nhân dân huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch và Sở Thông tin - Truyền thông.
Trung tâm văn hóa - thông tin thể thao và du lịch huyện: được thành lập theo Quyết định số 249-QĐ/UB của Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê ngày 31/10/1994 và Quyết định số 920/QĐ-UB của UBND tỉnh Hà Tĩnh về việc thành lập Trung tâm VHTT- TDTT các huyện, thị, là đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê và Sở Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh quản lý. Từ khi thành lập đến nay trung tâm đặt tại khối 8, thị trấn Hương Khê. Cơ sở vật chất gồm 1 nhà văn hóa và 1 nhà 2 tầng có 12 phòng với 13 cán bộ.
Trung tâm văn hóa thông tin thể dục, thể thao và du lịch  là đơn vị sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và ngân hàng theo quy định của pháp luật. Trung tâm chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo toàn diện của Ủy ban nhân dân huyện; chịu sự hướng dẫn kỷ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của Sở văn hóa thông tin và du lịch.
2. Các phong trào thể dục thể thao quần chúng tiêu biểu từ sau 1945 đến nay
2.1 Các phong trào thể dục, thể thao từ năm 1946 - 1975
Năm 1946, huyện triển khai Phong trào “Khỏe vì nước”. Hương Khê là vùng tự do, lại là ATK của Trung Bộ nên việc rèn luyện thể lực phục vụ chiến đấu luôn là nhiệm vụ của các lực lượng tự vệ, dân quân và nhất là cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang cách mạng.
 Hưởng ứng chủ trương của Chính phủ, ở Hương Khê đã giấy lên phong trào rèn luyện thân thể để kiến thiết quốc gia và chuẩn bị kháng chiến. Hầu hết các xã đều tổ chức đội bóng đá, thu hút nhiều thanh thiếu niên tham gia. Tuy đội bóng đá của các làng, xã mới được tổ chức còn rất sơ sài, thậm chí chỉ có bóng quả bưởi nhưng tinh thần tham gia tập luyện và thi đấu rất sôi nổi. Lúc này, hầu hết các xã trong huyện chưa có sân tập và thi đấu nên các trận đấu giao hữu giữa các làng, xã thường được tổ chức trên các nương mạ (trưa má) vừa mới nhổ. Những môn thể thao khác như đua thuyền, bơi, võ cũng khá phát triển trên đất Hương Khê.
Phong trào này đã góp phần vào khí thế sục sôi cách mạng của nhân dân ta sau Cách mạng tháng Tám. Đây cũng có thể coi là bước khởi đầu cho phong trào thể dục thể thao quần chúng sau này.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phong trào thể dục, thể thao tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh trong “tháng thanh thiếu niên và dân quân” gắn với 3 môn thể dục quân sự (vượt chướng ngại vật, chạy mang vác, chạy vũ trang). Các môn bóng đá, vật, bắn nỏ (vốn là lợi thế) vẫn được duy trì và phát triển.
        Năm 1957, huyện triển khai phong trào “Rèn luyện thân thể mùa xuân”
Từ ngày hòa bình lập lại, nhất là từ năm 1956, phong trào thể dục, thể thao phát triển sâu rộng ở mọi tầng lớp nhân dân trong huyện, đặc biệt là thanh niên. Luyện tập thể dục, thể thao dần dần trở thành nhu cầu trong sinh hoạt tinh thần của quần chúng.
Năm 1957, Chính phủ đã quyết định tổ chức cuộc vận động “Rèn luyện thân thể mùa Xuân” để đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao (kể cả phong trào thể dục quốc phòng) trên toàn miền Bắc.
Tại huyện Hương Khê, cuộc vận động đã được các cấp chính quyền, các cơ quan, ban, ngành, nhân dân đặc biệt là đông đảo thanh, thiếu niên, học sinh hưởng ứng. Vào mỗi buổi sáng, tại các xóm làng, nhiều người đổ ra đường chạy thể dục, rèn luyện thân thể. Bên cạnh môn chạy, các động tác thể dục buổi sáng thì phong trào tập luyện bóng đá, bóng chuyền trong các cơ quan, trường học có bước phát triển. Trong huyện, xã nào cũng lập đội bóng đá, tổ chức tập luyện thường xuyên.
Năm 1960, huyện triển khai phong trào “thể dục - vệ sinh”
Các hình thức tập thể dục, rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn được phổ biến rộng rãi cùng với các môn thể thao như: bóng chuyền, chạy việt dã, bóng đá phát triển mà đối tượng là thanh niên, dân quân tự vệ tham gia tích cực nhất. Nhiều đội bóng đá, bóng chuyền ở một số xã Hương Trạch, Lộc Yên, nông trường, 20 - 4, nông trường 1-5...phát triển, thường tổ chức thi đấu giao lưu.
Năm 1963, huyện triển khai phong trào “Rèn luyện thể thao tiêu chuẩn”
Năm 1963, Ủy ban TDTT đã ra Lời kêu gọi về "Cuộc vận động rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn" được nhiều đoàn viên và thanh niên hưởng ứng. Các hình thức tập thể dục, rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn được phổ biến rộng rãi cùng với các môn thể thao như: bóng chuyền, chạy việt dã, bóng đá phát triển mà đối tượng là thanh niên, dân quân tự vệ tham gia tích cực nhất. Ngoài các đội bóng ở xã thì giai đoạn này còn có các đội bóng của trường cấp III Hương Khê, Nông trường Chúc A được thành lập.
        Năm 1966, huyện triển khai phong trào “chạy, nhảy, bơi, bắn, võ”
Năm 1966, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt. Nhiệm vụ thể dục, thể thao được chuyển hướng nhằm phục vụ sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và phòng chống thiên tai. Hoạt động thể dục, thể thao tiếp tục được duy trì với tất cả các môn, tập trung chủ yếu là 5 môn thể thao quân sự: chạy, nhảy, bơi, bắn, võ. Đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao đều phải hướng về cơ sở. Ngành thể dục, thể thao đã kết hợp với huyện đội tổ chức mở lớp “chạy, nhảy, bơi, bắn, võ” cho đối tượng xã đội trưởng và xã đội phó. Các đơn vị vũ trang đáp ứng đầy đủ cho phong trào rèn luyện sức khỏe, phục vụ cho sản xuất và chiến đấu.
Phong trào ở khu vực nông thôn, trường học được duy trì và giữ vững. Địa điểm tập luyện là sân hợp tác xã vào các buổi tối. Đối tượng tập luyện là dân quân du kích, thanh niên, xã viên các hợp tác xã và các học sinh. Thời gian tập luyện là vào buổi tối hoặc sáng sớm. Sau khi phong trào được phát động, không khí tập luyện thể dục thể thao phát triển mạnh.
        Phong trào Thể dục, thể thao yêu nước (năm 1967)
Phong trào thể dục, thể thao yêu nước được phát động vào năm 1967, các tầng lớp nhân dân hưởng ứng sôi nổi. Thực hiện phong trào, sau gần 1 tháng phát động, các xã, trường học, cơ quan trên địa bàn huyện Hương Khê đã hăng hái tham gia các hoạt động vệ sinh phòng bệnh, thể dục, thể thao. Hầu hết các xã, trường học cơ quan có đội bóng, sân bóng đá, bóng chuyền và thường xuyên luyện tập
Năm 1971, thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương “Cần ra sức phát triển thể dục, thể thao thành một phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi, lấy thể dục rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn và 5 môn chạy, nhảy, bơi, bắn, võ làm trọng tâm, đồng thời phát triển những môn thể thao khác”. Huyện Hương Khê tham gia nhiều giải thi đấu thể dục thể thao do Tỉnh Hà Tĩnh tổ chức đạt được thành tích cao.
2.2. Các phong trào thể dục thể thao tiêu biểu từ năm 1976 - 2017
Phong trào thi đua học tập các điển hình tiên tiến ra sức rèn luyện sức khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, Đảng và Chính phủ phát động phong trào “Thi đua học tập các điển hình tiên tiến ra sức rèn luyện sức khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Thực hiện phong trào, tại huyện Hương Khê, phòng thể dục thể thao cùng các cấp chính quyền huyện, xã kêu gọi các đơn vị, cơ quan và nhân dân trên địa bàn huyện hăng hái thi đua. Các trò chơi dân gian được phổ biến trong các trường học; các đội bóng đá, bóng chuyền được thành lập nhiều nơi; các giải thi đấu cầu lông, bóng bàn thường xuyên tổ chức trong các ngày kỷ niệm thành lập Đoàn (26/3), ngày Quốc tế lao đông (01/5), ngày tết độc lập (02/9) ở các xã, cơ quan... Trong phong trào này, các xã Hương Trà, Hương Trạch, Thị trấn, Lộc Yên là những đơn vị dẫn đầu tiên tiến về thể dục thể thao của huyện.
Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” và phong trào “Xây dựng gia đình thể thao và câu lạc bộ thể thao” (năm 2000).
Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được ngành văn hóa thông tin phát động từ năm 2000.
Phong trào “Xây dựng gia đình thể thao và câu lạc bộ thể thao” được triển khai từ năm 2002.
Thực hiện cuộc vận động và phong trào nói trên, số lượng câu lạc bộ thể dục thể thao trên địa bàn huyện không ngừng phát triển theo thời gian. Tuy các câu lạc bộ thành lập tự phát, nhưng thu hút nhiều người tham gia, thường xuyên tổ chức luyện tập thi đấu. Trên địa bàn huyện hiện nay có các câu lạc bộ:
+ Câu lạc bộ cầu lông của Ủy ban nhân dân huyện được thành lập năm 2002, dao động từ 20 - 30 hội viên.
+ Câu lạc bộ bóng chuyền Công ty Cao su Hà Tĩnh được thành lập năm 2002, khoảng 30 thành viên
+ Câu lạc bộ ten nit của Hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa Hương Khê được thành lập năm 2002 gồm khoảng 20 người 
+ Câu lạc bộ cầu lông trường THPT Hương Khê được thành lập năm 2006 với hơn 20 hội viên
Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” và Phong trào xây dựng gia đình thể thao và câu lạc bộ thể thao đã khuyến khích, khơi dậy tinh thần tự giác, nhiệt tình và đam mê hoạt động thể dục, thể thao đối với nhiều người dân trong huyện, đủ mọi lứa tuổi. Hầu hết các xã, thị đều tổ chức các giải thể thao vào dịp lễ, tết, hè. Số gia đình thể thao của huyện ngày càng tăng, năm 2002 có có 3.050 hộ chiếm 12,5%; đến cuối năm 2016 tăng lên 10.640 hộ, chiếm 34,4%. Số câu lạc bộ thể dục thể thao cũng ngày càng tăng. Đến nay, toàn huyện có 146 câu lạc bộ và 125 đội tuyển thể dục thể thao quần chúng. Hầu hết các xã đều có các câu lạc bộ thể dục, thể thao, ít nhất là xã Hương Liên (3 câu lạc bộ), nhiều nhất là Thị trấn với 12 câu lạc bộ, còn các xã khác có từ 4 - 9 câu lạc bộ.
Hoạt động thể dục, thể thao ở các trường học trở thành một môn học bắt buộc để rèn luyện sức khỏe và ý chí của học sinh, hướng học sinh vào vui chơi giải trí bổ ích, rèn luyện sức khỏe lành mạnh. Hội khỏe Phù Đổng được tổ chức 2 năm một lần (bắt đầu từ năm 1984) đến nay thu được nhiều kết quả.
Phong trào thể dục, thể thao của Hội cao tuổi được phát triển mạnh từ những năm 90 đến nay. Trước đây, phong trào thể dục thể thao của người cao tuổi với các môn: dưỡng sinh 54 động tác, thái cực quyền, đi bộ, chơi cầu lông nhưng còn mang tính tự phát, chưa thu hút nhiều người tham gia nhất là ở nông thôn… Đến nay, hội người cao tuổi ở các xã tổ chức 145 đội dưỡng sinh, gồm 25.000 hội viên (chiếm ¼ dân số huyện), 80 đội cờ tướng với 393 hội viên; 34 đội bóng bàn với 180 hội viên; 82 đội cầu lông gồm 584 hội viên. Các câu lạc bộ thường xuyên luyện tập, tổ chức biểu diễn, thi đấu tranh giải trong huyện, xã. Mạnh nhất là phong trào của Hội Người cao tuổi xã Phúc Trạch, Thị trấn Hương Khê, Hương Trà.
Môn bóng chuyền hơi tuy mới được du nhập vào địa phương nhưng phát triển rất nhanh. Hầu hết xã nào, xóm nào cũng tổ chức chơi, thu hút nhiều người, nhiều lứa tuổi tham gia nhưng nhiều nhất là phụ nữ và các cụ cao tuổi. Tính chung, trên địa bàn huyện, chỉ tính riêng hội người cao tuổi đã thành lập được 147 đội bộ bóng chuyền hơi thu hút 1.600 người tham gia. 
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Trung tâm văn hóa thể thao và du lịch đã tập trung xây dựng các phong trào ở cơ sở. Trung tâm đã hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị xã, cơ quan mỗi năm tổ chức 4-6 giải thể thao, 8 - 9 giải thi đấu cấp huyện. Các giải thể thao cấp huyện tổ chức hàng năm là:
- Giải bóng đá thiếu niên nhi đồng
- Giải bóng chuyền công nông binh
- Giải cầu lông
- Hội khỏe Phù Đổng tổ chức 2 năm/1 lần bắt đầu từ năm 1984
- Đại hội thể dục thể thao huyện 4 năm tổ chức 1 lần nhằm nâng cao chất lượng thể dục, thể thao quần chúng tại địa phương, vận động mọi tầng lớp nhân dân rèn luyện thân thể theo gương Bác hồ vĩ đại và “Khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Đây là dịp để các địa phương tăng cường, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho tập luyện thể dục thể thao. Đại hội được bắt đầu từ năm 1985.
- Giải đua thuyền: được tổ chức tập trung tại hồ Bình Sơn bắt đầu từ năm 2001, mỗi năm tổ chức một lần vào ngày 02/9.
Qua các giải thi đấu ở huyện đã tuyển chọn được nhiều vận động viên để tham gia các giải, các hội thi cấp tỉnh đạt thành tích cao với hàng chục huy chương các loại, qua đó cũng tạo điều kiện cho việc tuyển chọn vận động viên năng khiếu.
2.3. Hệ thống nhà thi đấu, sân bãi
Cơ sở vật chất, sân chơi, bãi tập thể thao trên địa bàn huyện trong những năm gần đây chủ yếu do ngành thể thao cấp huyện, các cơ quan, trường học và các xã quản lý. Hiện nay, trung tâm văn hóa thông tin thể thao và du lịch huyện được giao quản lý, sử dụng một nhà văn hóa thu hút nhiều người dân thuộc các lứa tuổi do những người có chuyên môn hướng dẫn. Hầu hết các thôn, xóm đều có sân bóng chuyền, sân cầu lông gắn với nhà văn hóa thôn; một số thôn, liên thôn có sân bóng đá; các cơ quan, đơn vị, trường học trên địa bàn đều có sân bóng chuyền, cầu lông, bóng bàn và các phương tiện tập luyện. Tính đến cuối năm 2015, toàn huyện có  8 sân vận động có khán đài; 18 sân vận động không có khán đài; 8 sân bóng đá lớn; 51 sân bóng đá vừa và nhỏ; 02 sân bóng đá cỏ nhân tạo; 06 nhà thi đấu; 98 sân cầu lông; 214 sân bóng chuyền, 01 sân tennis; 27 bàn bóng bàn. Trong đó cấp huyện quản lý gồm 2 sân cầu lông ngoài trời; các cơ quan cấp huyện có 10 sân bóng chuyền, 15 sân cầu lông; các trường học bậc Trung học phổ thông, trung học cơ sở đều có sân bóng chuyên, cầu lông, bóng bàn để phục vụ việc dạy thể dục cho các em học sinh. Đối với các trường Trung học phổ thông, ngoài sân bãi, nhà trường còn mua sắm thêm các dụng cụ thể dục thể thao như cục tạ, bi, sào nhảy xa, bóng đá, bóng chuyền da.
Đối với các xã, hầu hết xã nào cũng có sân vận động lớn để phục vụ các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao lớn của xã. Ngoài ra, trung bình mỗi xóm ở các xã còn có 1 sân bóng đá, sân bóng chuyền, sân cầu lông để phục vụ tập luyện thể dục thể thao hàng ngày cho nhân dân. Đơn vị có hệ thống sân bãi tốt nhất là Thị trấn. Hiện tại Thị trấn đang quản lý một sân bóng đá có khán đài, một sân không có khán đài, 1 sân bóng chuyền, một sân cầu lông, ở các khố phố gồm có 2 sân bóng đá, 10 sân bóng chuyền và 8 sân cầu lông (đạt chuẩn). Ngoài ra, còn có các xã: Hương Trà, Hương Trạch, Gia Phố cũng có hệ thống sân bãi tốt.
2.4. Những thành tích tiêu biểu của ngành thể dục, thể thao huyện Hương Khê
- Giải nhất toàn đoàn cấp tỉnh môn chạy việt dã năm 1994, năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002.
- Giải nhất bóng đá thiếu niên nhi đồng của tỉnh các năm 1995, 1996, 1997, 1998.
- Giải nhất, nhì toàn tỉnh giải bóng chuyền toàn tỉnh từ năm 1998 - 2005
- Vận động viên điền kinh đội trẻ Quốc gia: Nguyễn Thị Quyên (khối 12 Thị Trấn Hương Khê).
Nhìn chung các hoạt động thể dục thể thao ở Hương Khê trước năm 1945 khá mờ nhạt, phổ biến là các trò chơi gân gian tùy theo lứa tuổi mang tính chất rèn luyện thân thể, nâng cao sức khỏe. Sau Cách mạng tháng Tám, bộ máy quản lý thể dục thể thao từ Trung ương đến địa phương dần được hình thành, tuy sống trong hòan cảnh chiến tranh nhưng các phong trào thể dục, thể thao gắn liền với nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất và xây dựng chủ nghĩa xã hội tiên tiếp được phát động thu hút đông đảo  nhân dân Hương Khê tham gia. Ở huyện có một số đội bóng đá, bóng chuyền của các nông trường, lâm trường hoạt động tích cực, thường xuyên tổ chức thi đấu giao hữu.
Hoạt động thể dục, thể thao hiện nay của huyện khá phát triển. Hàng năm, huyện thường tổ chức các giải thi đấu bóng đá, bóng chuyền, giải cầu lông, bóng bàn ở các đơn vị, cơ quan trên địa bàn xã; Hội khỏe Phù Đổng ở các trường học, Đại hội thể dục thể thao ở các xã qua đó phát hiện, cung cấp một số cá nhân có năng khiếu về thể dục thể thao cho tỉnh và đội tuyển Quốc gia.




[1] Nguyễn Văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, Hội khoa học lịch sử Việt Nam,  2001, tr.50.
[2] Theo Lược sử Thổ Hoàng , Ngàn Sâu của Ngô Xuân Thủy, 2015.
[3] Lược sử Thổ Hoàng, Sđd, tr 50.
[4]Tham khảo Kỷ yếu 170 năm thành lập giáo phận Vinh. Tài liệu lưu tại Ban Tôn giáo tỉnh ủy Nghệ An.
[5] Trích Quyết định về việc thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc, số 211/QĐ-UBND ngày 18/01/2017.
[6] Phần này theo Hương Khê 135 năm, sđd, tr 52.
[7]Cơm sốt, canh sốt, nước chè cốt mới nấu
[8] Toàn bộ nội dung phần này tham khảo Bản thảo Hương Khê xưa và nay của tác giả Nguyễn Bá Thành hiện đang lưu trữ tại Phòng văn hóa huyện Hương Khê.

[9] Do tư liệu không đầy đủ nên vấn đề này tác giả chỉ đưa vào những nét cơ bản.
[10] Nguyễn Bá Thành, Hương Khê Văn hóa - Danh thắng, Sở văn hóa thông tin Hà Tĩnh, tr 8,9.
[11]  Hương Khê Văn hóa - Danh thắng, Sđd, tr 12.
[12] Đại Nam nhất thống chí, Sđd, tr 174.
[13] Nguyễn Bá Thành - Hương Khê Văn hóa - Danh thắng, Sđd, tr 18,19.
[14] Nguyễn Bá Thành, Hương Khê 135 năm (1867-2002), sđd, tr 267, 271.
[15] Nguyễn Bá Thành - Hương Khê 135 năm, Sđd, tr 68,79.
[16] Sạu là ngô: ngày xưa một số vùng của Hương Khê gọi ngô là sạu (sạu sạu).
[17] Ở Hương Khê còn lưu truyền bài thơ thách cưới bằng khoai như sau:
                                Người ta thách lợn, thách gà
                                Nhà em thách cưới một nhà khoai lang
                                Củ to thì để mời làng
                          Còn như củ nhỏ họ hàng ăn chơi
                          Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi
                                Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà
                                Còn bao củ hỏng, củ hà
                                Để cho con lợn, con gà nó ăn.
Bài thơ này có thể có tác giả nhưng hiện nay chúng tôi chưa xác minh được.
[18] Về cuộc biểu tình Rôôc Cồn xem thêm phần Hương Khê trong phong trào giải phóng dân tộc.
[19] Về nhân vật Ngô Đăng Minh xem thêm phần Nhâ vật Hương Khê thời vua Lê chúa Trinh.
[20] Về tiểu sử nhân vật Dương Đô xem phần Nhân vật Hương Khê thời kỳ vua Lê chúa Trịnh.
[21] Phần này lược thuật từ Hương Khê 135 năm …, tr. 57, 58.
[22]Hương Khê 135 năm …, tr. 175, 176.

[23]  Hương Khê 135 năm … , sđd, tr 56.
[24] Lịch sử Giáo dục Hà Tĩnh, Nxb Chính  trị Quốc gia, năm  2005, tr 257.
[25] Trích: Nghị quyết số 14 – NQ/TW, ngày 11/01/1979 của Bộ Chính trị về Cải cách giáo dục.
[26]22/22 xã, thị trấn đạt chuẩn PCGD mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập GCGD Tiểu học đúng độ tuổi mức độ 3; 16/22 xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3; 17/22 xã đạt phổ cập giáo dục trung học. 
1 Nguyễn Bá Thành, Bản thảo “Hương Khê xưa và nay” tr 178, 179.
1 Theo Hồ sơ Di tích lịch sử: Nhà thờ họ Đặng, Sở Văn hóa Thông tin và Truyền thông Hà Tĩnh, 20…, tr 4.

Không có nhận xét nào: