Thứ Hai, 4 tháng 11, 2019

Địa chí Hương Khê, phần thứ 3: Kinh tế


PHẦN THỨ BA
KINH TẾ

Xưa kia, Hương Khê là một vùng rừng núi đại ngàn. Các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào việc săn bắt, hái lượm, khai thác các nguồn lợi sẵn có trong rừng. Nông nghiệp thô sơ theo thói quen quảng canh, kỹ thuật canh tác lạc hậu. Trải qua nhiều giai đoạn biến thiên của lịch sử, chống chọi với thiên tai, địch họa, ngày nay, Hương Khê đã có một nền kinh tế tương đối toàn diện với đầy đủ các ngành: Nông nghiệp - Lâm nghiệp; Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp; Thương nghiệp… Tốc độ tăng trưởng ngày càng cao. Tuy nhiên, so với cả nước, Hương Khê vẫn là một huyện miền núi khó khăn, dù còn nhiều tiềm năng để khai thác.

Chương 1
NÔNG NGHIỆP
Hương khê là huyện nông nghiệp, đất đai rộng nhưng “roọng nương thì ít, rú ri thì nhiều”, diện tích sản xuất cây lương thực ít, manh mún và kém màu mỡ. Lịch sử phát triển nông nghiệp nơi đây gắn liền với quá trình khai hoang lấn núi vì thế hầu hết ruộng cấy, đất trồng màu đều nằm xen kẻ giữa đồi cao, đồi thấp, rất khó khăn cho việc làm thủy lợi, tưới tiêu nội đồng và đưa cơ giới hóa vào sản xuất. Chỉ mới khoảng ba chục năm trở lại đây, người dân Hương Khê mới thực sự chú ý đầu tư thâm canh trong sản xuất, sử dụng các giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao...

I. NGÀNH TRỒNG TRỌT
1.     Tình hình đất đai
Theo sách Đồng Khánh Địa ngự lãm địa dư chí lược Nghệ An tỉnh1 thì tổng diện tích ruộng đất công tư các hạng hiện nộp thuế của huyện Hương Khê theo địa bạ năm 1890 là 4.170 mẫu, 8 sào 12 thước 9 tấc 5 phân 3 ly. Trong đó: Ruộng zcxx 1.902 mẫu, 7 sào, 1 thước, 9 tấc. 9 phân, 3 ly; Đất có 2.215 mẫu, 1 sào 10 thước 9  tấc 6 phân (mỗi mẫu Trung bộ là 5.000m2). Như vậy, nếu so với diện tích toàn huyện là 180.000 ha (theo con số trước năm 2000), thì diện tích đất sản xuất nông nghiệp của toàn huyện chỉ chiếm hơn 1% (khoảng 2.100 ha).
Đến những năm 30 thế kỷ XX, Hương Khê vẫn là huyện miền núi đất rộng người thưa, toàn huyện có khoảng 9.210 ha đất canh tác. Bình quân ruộng đất canh tác tính theo đầu người trước có khoảng 7 sào Trung Bộ. Tuy nhiên, số ruộng đất nằm trong tay địa chủ chiếm tới 4.745 ha, hào lý và địa chủ Nhà chung chiếm hơn 2.000 ha. Nhiều xã như Gia Phố, Phú Phong, Hương Long, Hương Giang có đến 70% ruộng đất thuộc về địa chủ1. 
Trong kháng chiến chống Pháp đến trước cải cách ruộng đất, huyện Hương Khê đã thực hiện nhiều chính sách lớn của cách mạng như tịch thu, trưng thu, giao cấp một phần ruộng đất của địa chủ cho nông dân. Bên cạnh đó, các địa phương đẩy mạnh công tác khai hoang làm vườn phở, ruộng phở (theo cách gọi của người Hương Khê chỉ ruộng khai hoang, vườn khai hoang). Ruộng đất công được tạm giao cho nông dân cày cấy. Một số diện tích cây cà phê được phá bỏ để trồng cây lương thực. Công tác thủy lợi được chú trọng, xẻ mương, tưới nước, tiêu úng, khai phá đất đai trồng thêm hoa màu, gấp rút mở rộng diện tích trồng lúa. Do đó, số ruộng đất công mở rộng thêm được 399 mẫu, 9 sào (chủ yếu là đất tịch thu, trưng thu, ruộng bỏ hoang của địa chủ). Từ tháng 4.1953 đến tháng 7.1953 thu thêm được 373 mẫu, 4 sào, 3 thước. Số ruộng đất cố nông được chia trong cải cách ruộng đất hơn 1.426 mẫu2. Cộng số ruộng đất của cố nông toàn huyện là 2.096 mẫu, 1 sào, 10 thước. Trong đó, chủ yếu là diện tích đất canh tác lúa, diện tích làm màu và các loại cây hoa màu khác là không đáng kể.
Những năm đầu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1964), diện tích gieo trồng cả năm của huyện là 13.159 ha, trong đó cây lương thực chiếm 92,3%. Tháng 11/1968, sau khi đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, nhân dân Hương Khê khẩn trương chuyển sang khôi phục kinh tế. Toàn huyện đã khai hoang thêm được 2.764 ha3 (chủ yếu là đất trồng màu), nâng tổng số diện tích đất nông nghiệp của huyện lên 17.145,6 ha, trong đó có 14.763,9 ha canh tác ổn định...
Giai đoạn sau khoán 10, huyện Hương Khê đẩy mạnh việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng khai thác tiềm năng đất đai, lao động và thế mạnh của từng vùng, từng địa phương để chuyển dần sang nền nông nghiệp hàng hóa. Toàn huyện quy hoạch thành 3 vùng kinh tế lớn: vùng thâm canh; vùng cây ăn quả; vùng cây công nghiệp, nguyên liệu phục vụ tiểu thủ công nghiệp. Đi đôi với quy hoạch vùng kinh tế, diện tích trồng lúa giảm từ 7.500 ha năm 1996 xuống còn 7.000 ha năm 2000. Diện tích ngô, khoai, sắn giảm, tăng diện tích lạc, đậu.
Tháng 8 năm 2000, Hương Khê cắt 5 xã (Hương Thọ; Hương Minh; Hương Đại; Hương Điền; Vũ Quang) nằm ở phía bắc huyện để thành lập huyện mới Vũ Quang. Việc chia tách đã làm cho diện tích gieo trồng của huyện giảm đi đáng kể, nhất là diện tích trồng lúa từ 7.000 ha giảm còn 4.344,88 ha. Tuy nhiên, năng suất và sản lượng lương thực toàn huyện những năm trở về sau không giảm mà còn tăng. Đây là kết quả của cả một quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh, tăng vụ, ứng dụng các phương pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao hiệu suất sử dụng đất của Hương Khê.
Theo số liệu thống kê hiện nay, huyện Hương Khê có diện tích 126.293,85 ha. Cơ cấu các loại đất được thể hiện trong bảng sau:
TT
Chỉ tiêu
Hiện trạng sử dụng đất năm 2015
Quy hoạch đến năm 2020
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Cấp tỉnh phân bổ (ha)
Cấp huyện xác định, xác định bổ sung (ha)
Tổng số
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Tổng diện tích tự nhiên

126.293,85
100
126.293,85
0,00
126.293,85
100
1
Đất nông nghiệp
NNP
113.714,14
90,04
116.596,98
306,04
116.903,38
92,56
1.1
Đất trồng lúa
LUA
4.342,66
3,44
4.151,53
75,65
4.227,18
3,35
1.2
Đất trồng cây hàng năm
HNK
3.899,69
3,09
3.429,84
130,09
3.559,93
2,82
1.3
Đất trồng cây lâu năm
CLN
17.750,03
14,05
17.533,59
1.751,56
19.285,15
15,27
1.4
Đất rừng phòng hộ
RPH
29.926,63
23,7
30.203,91
0,00
30.203,91
23,92
1.5
Đất rừng đặc dụng
RDD
17.479,86
13,84
17.479,86
0,00
17.479,86
13,84
1.6
Đất rừng sản xuất
RSX
39.992,97
31,67
43.120,95
1.644,32
41.476,63
32,84
1.7
Đất nuôi trồng thủy sản
NTS
102,2
0,08
102,2
22,44
124,64
0,10
1.8
Đất nông nghiệp khác
NKH
220,1
0,17
575,1
-29,03
546,07
0,43
2
Đất phi nông nghiệp
PNN
7.239,85
5,73
7.887,27
45,04
7.932,31
6,28
2.1
Đất Quốc phòng
CQP
380,56
0,3
431,62
0,00
431,62
0,34
2.2
Đất an ninh
CAN
0,68
0,001
0,98
0,00
0,98
0,00
3
Đất chưa sử dụng
CSD
5.339,86
4,23
1.809,60
-351,44
1.458,16
1,15

2.     Các loại cây trồng chính
Về lúa, trước cách mạng tháng Tám, ở Hương Khê phổ biến có các loại giống:
+ Lúa Ré Quạt: lúa cấy vụ Chiêm, hạt to, cây cao và tốt nên gặp gió cây hay bị đổ.
+ Lúa đỏ: gạo màu đỏ, chịu sâu, chịu bùn tốt, gạo ngon nhưng không năng suất.
+ Lúa bát: cấy tháng 8, gạo trắng, thơm nên bà con thường để dành xay làm bánh gói hoặc hầm cháo.
+ Lúa Cu: màu đỏ, có đặc điểm giống lúa đỏ
+ Lúa Chành, lúa Chạo: trồng vụ mùa theo hình thức trĩa vãi lúa khô, trồng chủ yếu trên những vùng đất không chủ động được nước.
+ Nếp nâu: hạt màu nâu, to, màu đỏ, cây tốt nhưng năng suất không cao.
+ Nếp Lào: hạt màu vàng, năng suất kém.
+ Nếp Sứ: hạt nhỏ, dẻo.
+ Nếp nại: cây cao, dễ gãy, năng suất thấp; nếp xà đào, có hạt màu hồng đào, ăn cứng hơn nếp nại.
+ Nếp cải, nếp lem: hạt to dẻo nhưng ít bông, dùng liềm, hái để thu hoạch, thường được nhân dân dùng làm cốm hương.
Nhìn chung năng suất trong thời kỳ này thấp, phần lớn do bị chi phối bởi đặc điểm của vùng đồi núi dốc, nhiều khe suối, đất đai thường bị khô hạn về mùa nắng, lũ lụt, ngập úng về mùa mưa. Có những nơi một năm cấy được hai vụ lúa nhưng có lẽ số diện tích này không nhiều. Năng suất lúa đạt khoảng 30 - 40kg/sào. Ngay cả ở những vùng đất đai bằng phẳng màu mỡ, được phù sa của sông Ngàn Sâu bồi đắp hàng năm như Hương Giang, Hương Thủy, Lộc Yên, Hòa Hải, Phương Mỹ, Hà Linh thì năng suất các loại cây trồng cũng thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân. Cuộc sống của người nông dân chủ yếu vẫn là dựa vào việc khai thác các nguồn sản vật tự nhiên từ rừng, như đốt than2, lấy củi, khai thác gỗ, nghề đi săn, bắn thú rừng; hái lượm …
Sau đây là một vài con số thể hiện năng suất và diện tích các loại cây trồng chính ở Hương Khê vào năm 1925, được tòa công sứ pháp tại Hà tĩnh ghi chép lại:
Lúa vụ hè: Diện tích 4.700 ha, thu hoạch 5.800 tấn.
Lúa bát ngoạt: Diện tích 1.200 ha, thu hoạch 2.200 tấn.
Ngô 1000 ha, thu hoạch 280 tấn;
Khoai 200 ha, thu hoạch 120 tấn;
Đậu 150 ha, thu hoạch 24 tấn; 
          Mía 100 ha, thu hoạch 10 tấn;
          Dâu 30 ha, thu hoạch 6 tấn
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ chính quyền cách mạng của Hương Khê công bố bãi bỏ các loại thuế của chế độ cũ, đồng thời thực hiện giảm thuế ruộng đất và thuế môn bài, giảm tô, giảm tức và xóa nợ công. Phong trào “Diệt giặc đói” diễn ra ở Hương Khê rất sôi nổi với nhiều hình thức, thu hút đại bộ phận nhân dân tham gia. Các bãi bờ, cồn trọt, lùm lòi, hoang hóa đều được khai phá để trồng trỉa. Một số diện tích cây cà phê được phá bỏ để trồng cây lương thực. Công tác làm thủy lợi được chú trọng, xẻ mương, tưới nước, tiêu úng, khai phá đất đai trồng thêm hoa màu, gấp rút mở rộng diện tích trồng lúa… nhờ đó, cuối năm 1946, đầu năm 1947 kinh tế nông nghiệp của huyện đã có bước chuyển biến tích cực.
Thời kỳ xây dựng hợp tác xã, tình hình sản xuất nông nghiệp của Hương Khê có những thay đổi quan trọng. Trong lĩnh vực trồng trọt, diện tích và năng suất của các loại cây trồng tăng nhanh, tạo cơ sở để huyện vươn lên giải quyết vấn đề lương thực.
Năm 1959, năng suất lúa đạt 1.588 kg/ha, sản lượng 17.956 tấn, bình quân lương thực đầu người 331kg.
Năm 1965, Hương Khê được mùa toàn diện, năng suất lúa đạt 1.491kg, riêng vụ chiêm đạt 1.657 kg, vụ thu 1.308 kg, vụ mùa 1.373 kg. Tổng sản lượng lương thực toàn huyện tăng 25,9%. Các giống lúa mới như Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8, Chân Châu lùn... được đưa vào sản xuất cho năng suất, sản lượng cao hơn giống lúa cũ.
Từ sau năm 1975, nhiều giống lúa mới có năng suất và hiệu quả cao được đưa vào gieo trồng đại trà trên địa bàn huyện như giống Lúa 751 cây thấp, gạo ngon; Lúa 752, IR1820, 314, năng suất cao hơn lúa 751, trồng nhiều trong những năm 1980.
Giai đoạn 2000 - 2017, Hương Khê đẩy mạnh việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Các giống lúa mới năng suất cao được đưa vào thay thế các giống lúa cũ như giống lúa lai Nhị ưu 838, Syn6 TH3-3; các giống lúa thuần có năng suất khá, thích nghi rộng như KD18, KD đột biến và một số giống chất lượng cao như  VTNA2, P6, HT1 Chuyển đổi mùa vụ theo hướng giảm diện tích lúa Mùa, tăng diện tích vụ Đông Xuân - Hè Thu.
Năm 2000, toàn huyện có 2.707 ha lúa Đông Xuân, năng suất 30 tạ/ha, sản lượng đạt 8.112,7 tấn, thì năm 2015, là 3.427 ha, năng suất 54,35 tạ, sản lượng đạt 18.625 tấn.
Lúa Hè Thu: có 1.175,7 ha, năng suất 14,1 tạ/ha; sản lượng đạt 1.660,4 tấn. Đến năm 2015 là 1.310 ha, năng suất 33 tạ/ha, sản lượng đạt 4.324 tấn.
Riêng năm 2016, thời tiết diễn biến thất thường nhưng diện tích trồng lúa của huyện vẫn đạt 5.589 ha, năng suất 47,39 tạ/ha; sản lượng 26.486 tấn. Tổng sản lượng đạt trên 35 ngàn tấn, tăng 2.000 tấn so với năm 2015.
- Bên cạnh cây lúa, cây ngô được người dân Hương Khê trồng tương đối nhiều. Theo tài liệu ghi chép năm 1925 của tòa Công sứ Pháp tại Hà Tĩnh thì diện tích trồng ngô ở Hương Khê gấp gần 5 lần so với hyện Hương Sơn (1000 ha so với 205 ha). Tuy nhiên, năng suất lại thấp, chỉ đạt 280 tấn.
Hiện nay, ngô đã trở thành là sản phẩm chính để vỗ béo đàn gia súc, gia cầm; ngô được bán trên thị trường đem lại thu nhập hàng ngày cho các gia đình. Do đó, diện tích và sản lượng cây ngô diễn ra theo chiều hướng gia tăng. Trong 5 năm từ năm 2001 đến năm 2016, diện tích cây ngô tăng gần 4 lần, từ 618 ha lên 2.402 ha. Năng suất tăng từ 24,3 tạ/ha lên 35,6 tạ/ha. Riêng sản lượng tăng 14,5 lần từ 535 tấn năm 2001 lên 8.551 tấn năm 2016. Hà Linh, Hương Thủy, Phúc Đồng, Hương Bình, Hương Vĩnh, Hương Xuân, Hòa Hải là những xã trồng nhiều ngô ở Hương Khê. Một số địa phương đã triển khai việc liên kết với các doanh nghiệp phát triển diện tích trồng ngô và doanh nghiệp thu mua sản phẩm cho người dân theo hợp đồng.
- Cũng như nhiều địa phương khác, trước đây, khoai lang cũng là cây lương thực quan trọng của Hương Khê, nhất là trong điều kiện nguồn lương thực chưa đảm bảo.Từ sau năm 2000 trở lại nay, diện tích cây khoai lang giảm mạnh, từ 1.854 ha năm 1991 xuống còn 313,1 ha năm 2015. Hiện nay cây khoai lang đang đem lại giá trị kinh tế lớn, nhất là loại giống khoai lang mới (khoai lang đỏ, khoai lang vàng), năng suất cao, ngon và bán giá cao, vì thế nhiều địa phương đang quay lại phát triển loại cây này.
Ngoài cây khoai lang, ở Hương Khê còn có các loại khoai khác như khoai môn, nưa thường được trồng trên đất ruộng. Khoai Từ, khoai Vạc được trồng nhiều sau đồi hoặc góc vườn. Trước đây, các loại khoai này cũng là nguồn lương thực, thực phẩm quan trọng ăn thay cơm của người nông dân nơi đây.
- Sắn: có hai loại, một loại cây lá xanh sẫm, thân và mặt dưới lá phớt tím; một loại lá màu xanh nhạt, thân và mặt dưới lá phớt trắng. Cây sắn được trồng trên hầu hết các loại đất ở Hương Khê, nhưng thích hợp là loại đất đồi, những vùng đất có độ xốp cao. Tuy nhiên, hiện nay, diện tích trồng sắn ở Hương Khê chỉ còn khoảng 80 ha, chủ yếu phục vụ chăn nuôi trong gia đình.
Như vậy có thể thấy rõ, những năm gần đây diện tích cây trồng hàng năm của huyện không có nhiều biến động lớn. Nhưng từ hiệu quả của công cuộc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, cơ giới hóa, cộng với việc đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi, làm tốt công tác phòng chống úng; nâng cao hiệu quả kinh tế trên một diện tích canh tác, làm cho năng suất, sản lượng cây trồng tăng cao, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế trên địa bàn huyện.
3. Cây công nghiệp ngắn ngày
Phát huy lợi thế về diện tích về đất bãi bồi, nhất là dọc sông ngàn sâu, nên từ xưa, các gia đình nông dân Hương Khê đã biết trồng các loại cây lạc, đậu, mía... Người dân trồng để phục vụ nhu cầu trong gia đình là chủ yếu, một số bán ra chợ và phần nào chế biến thành các loại hàng chủ yếu như: lạc với mật mía, bánh đa nấu thành kẹo lạc, kẹo cu đơ, mía chế biến thành mật... Trong giai đoạn xây dựng và phát triển kinh tế tập thể (1960 - 1980), cây lạc là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Hương Khê. Ngày nay, lạc và đậu vẫn là những mặt hàng có giá trị kinh tế cao, được bán trên thị trường trong và ngoài nước; nhiều tư thương đến thu mua sản phẩm ngay tại các cánh đồng.
- Về lạc: trước đây, nhân dân chủ yếu trồng các giống lạc địa phương như lạc cúc, loại lạc này hạt nhỏ, vỏ mỏng, chắc hạt, năng suất thấp; giống lạc sen, có từ thời kỳ xây dựng hợp tác xã, loại lạc này năng suất cao hơn nhưng không ngon và bùi như lạc cúc. Năm 2016, toàn huyện có khoảng 2.161 ha lạc chủ yếu sử dụng giống L14, L23 và L27, năng suất trung bình 22,56tạ/ha, sản lượng đạt 4.849 tấn (năm 2016)1. Một số xã có diện tích trồng lạc nhiều của Hương Khê: Hương Đô; Hà Linh; Phương Mỹ; Gia Phố; Hương Thủy; Lộc Yên; Hương Xuân.
- Về đậu: điều kiện tự nhiên phù hợp nên từ xưa cây đậu xanh đã là một trong những cây màu được nhân dân trồng nhiều. Đây là loại cây có thời gian sinh trưởng ngắn (khoảng 70 ngày), có lợi thế cạnh tranh tốt và đầu ra ổn định. Phổ biến có các loại đậu: đậu chiện, đậu tằm, đậu lai xanh, đậu xanh lòng. Năm 2015, diện tích cây đậu xanh trên địa bàn huyện có 2.514 ha, năng suất 39,69 tạ/ha, sản lượng đạt 7.860 tấn.
Cây mía: chủ yếu là cây mía trắng, nguyên liệu làm mật mía. Năm 1976, toàn huyện có 76 ha trồng mía, đạt 1.200 tấn; năm 1980 là 108 ha đạt 2.700 tấn, 1982 là 210 ha đạt 9.996 tấn. Tuy nhiên, từ những năm 90 trở lại đây, mật mía không còn được ưa chuộng và sử dụng phổ biến như trước nên diện tích cây mía cũng dần bị thu hẹp nhường chỗ cho những loại cây màu có giá trị kinh tế.
Một số loại cây có hạt chứa dầu như vừng (chủ yếu là vừng trắng) đỗ tương, diện tích không đáng kể, chủ yếu trồng thời vụ, xen canh.

Diện tích, năng suất và sản lượng một số cây lương thực chính từ 1991 đến 20161

1991
1995
2000
2005
2010
2015
2016
Diện tích (ha)
Lúa
7.915
7.264
5.592,7
4.525,3
5.086,00
5.540,02
5.589
Ngô
1.532
1.429
794
1.228,2
1.233
1.980,1
2.402
Khoai
1.854
939
1.035
967,4
827
313,1

Sắn
849
698
417
461,5
332
79,2

Lạc
1.201
1.410
2.660
2.704
2.315
2.204,17
2.161
Đậu
1.123
2.555
2.839
2.958
3.006
2.514

Các loại rau
653
810
895
1.182
917
992

Năng suất (tạ/ha)

Lúa
10,4
18,5
24,4
36,77
32,49
45,87
47,39
Ngô
16,04
25,1
23,6
23,95
26,99
39,69
35,6
Khoai
38,8
45,4
41,9
50,59
58,73


Sắn
56
75
64,9
74,40
10,68


Lạc
9,9
10,6
12,3
16,67
16,02
22,56
22,56
Đậu
2,7
5,0
5,6
6,56
6,63
9,79

Các loại rau
50,2
41,2
41
42,37
46,48
52,67

Sản lượng (tấn)

Lúa
8.232
13.444
13.662
16.640
16.524
25.412
26.486
Ngô
2.458
3.585
963
2.942
3.328
7.860
8.551
Khoai
7.192
4.264
4.352
4.893,8
3.565


Sắn
4.745
5.235
2.701
3.436,0
375


Lạc
1.197
1.503
3.262
4.508,5
3.709
4.973
4.849
Đậu
309
1.278
1.600,6
1.941,9
2.956
2.461

Các loại rau
3.283
3.341
3.652
5.008,0
4.262
5.226


3. Kinh tê vườn và cây ăn quả
Là vùng miền núi, lắm nương đồi, nhiều sơn bãi kinh tế vườn vẫn luôn là một thế mạnh trong nền kinh tế nông nghiệp Hương Khê. Từ buổi đầu lập làng, lập xã, đất rộng người thưa, vườn chính là một ngọn đồi, cây cối, tre pheo rậm rạp. Rồi bằng sức lao động của mình, con người nơi đây đã khai phá những ngọn đồi hoang sơ rậm rạm tự nhiên thành những khu vườn nhân tạo với những cây trồng chính phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình. Trong vườn trồng nhiều loại cây trồng quen thuộc, có giá trị như: bưởi, cam, mít, chè, chuối, cau trầu và nhiều loại cây đặc sản khác. Trong đó, loại cây có giá trị nhất, được trồng nhiều nhất là cây cau. Theo tài liệu ghi chép của Tòa Công sứ Pháp tại Hương Khê viết năm 1925: mỗi năm, người ta thu hoạch được khoảng 6 triệu quả cau, bán được đến 50.000 đồng.
Vườn còn là “trại” chăn nuôi nhỏ với đàn gia súc, gia cầm phong phú. Thu nhập kinh tế vườn ở Hương Khê theo tài liệu điều tra hợp tác hóa từ những năm 1970 đã chiếm từ 65 - 75% thu nhập hàng năm của hộ nông dân. Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nhằm phát triển thế mạnh kinh tế của huyện, Hương Khê thực hiện chương trình “Cải tạo vườn tạp, xây dựng vườn mới trồng cây ăn quả”, nhằm mục đích tạo một vùng cây ăn quả đặc sản có chất lượng tốt, quy mô 800 ha, đảm bảo xuất khẩu. Dự án này được triển khai mạnh trên địa bàn 14 xã gồm: Hương Trạch, Phúc Trạch, Hương Đô, Lộc Yên, Phú Phong, Phú Gia, Gia Phố, Hương Xuân, Hương Thủy, Hương Vĩnh, Hương Long, Hương Bình, Hà Linh, Hương Giang với ba loại cây chủ lực Bưởi Phúc Trạch, cam bù, chỉ xác. Năm 1995, Hương Khê đã xây dựng được 8.900 vườn cây ăn quả với 150.000 cây bưởi Phúc Trạch, 10 vạn cây cam các loại1. Thu nhập từ kinh tế vườn mỗi năm đạt khoảng 20 tỷ đồng. Từ đây, kinh tế vườn đã trở thành hướng xóa đói, giảm nghèo, làm giàu bền vững của người dân Hương Khê.
Trong phát triển kinh tế vườn, vườn - rừng, huyện Hương Khê có 4 loại hình trang trại chủ yếu: trang trại trồng cây ăn quả, trang trại trồng cây lâm nghiệp, trang trại chăn nuôi, trang trại kinh doanh tổng hợp. Tuy nhiên, loại hình trang trại trồng cây ăn quả thường cho thu nhập cao và ổn định hơn. Hiện nay, toàn huyện có hơn 5.000 hộ làm kinh tế vườn, trang trại với diện tích trên 6.000 ha, trong đó tập trung phát triển mạnh cây bưởi Phúc Trạch và cây cam.
Cây Bưởi: Hương Khê có nhiều loại như bưởi Phúc Trạch, bưởi đường, bưởi chua… nhưng ngon nhất, nổi tiếng nhất vẫn là bưởi Phúc Trạch, đây là giống bưởi tự nhiên, có từ lâu đời của Hương Khê. Và cũng chỉ ở vùng địa lý đặc thù mà quả bưởi mới có những phẩm chất ngon đặc biệt, không thể nhầm lẫn với nơi khác.
Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả Phủ Quỳ (Nghệ An) thì trong hơn 100 giống bưởi ở nước ta, bưởi Phúc Trạch được đánh giá là ngon nhất và có giá trị kinh tế lớn. Quả Bưởi Phúc Trạch được Chính phủ Bảo hộ Pháp tặng thưởng mề đay trong Hội thi Trái cây Đông Dương năm 1938. Năm 2002, được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận là một trong bảy loại cây ăn quả quý hiếm cấm không được xuất khẩu giống và năm 1989, được Cục sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học công nghệ chính thức cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa. Để bảo tồn và phát huy nguồn giống quý giá của giống bưởi Phúc Trạch, năm 2010, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã phê duyệt dự án “Bảo tồn, nhân giống và phát triển sản xuất giống bưởi Phúc Trạch theo hướng hàng hóa” và cấp Giấy chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Phúc Trạch” cho UBND huyện Hương Khê. Vùng bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo văn bằng là 2.966 ha, phân bố trên 20 xã của huyện Hương Khê - Hà Tĩnh (bao gồm các xã: Hương Trạch, Phúc Trạch, Hương Đô, Lộc Yên, Gia Phố, Hương Giang, Hương Thủy, Phú Phong, Hương Xuân, Phú Gia, Hương Bình, Hương Long, Phúc Đồng, Hà Linh, Hương Vĩnh, Hòa Hải, Hương Trà, Phương Mỹ, Phương Điền, Hương Liên). Việc cấp giấy chứng nhận bảo hộ CDĐL Phúc Trạch đã tạo điều kiện cho người sản xuất và người kinh doanh bưởi Phúc Trạch cơ hội nâng cao vị thế cạnh tranh, giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường. Từ đó, nâng cao hiệu quả kinh tế, mang lại nhiều lợi ích cho người trồng bưởi, góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn của vùng.
Một số điểm chính trong “Dự án bảo tồn, nhân giống và phát triển sản xuất  giống bưởi Phúc Trạch theo hướng hàng hóa”:
Chính sách của tỉnh là hợp đồng 4 bên ràng buộc đồng thời trích ngân sách hỗ trợ 1,4 triệu đồng/cây đầu dòng/năm để người dân bảo tồn các cây này.
Từ các cây đầu dòng, lấy giống, vi ghép đỉnh sinh trưởng, tạo ra 25 cây S0, được nuôi dưỡng tại Khoa Sinh học, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp VN), sau đó đưa về trại giống bưởi Phúc Trạch (xã Phúc Trạch), nuôi dưỡng, bảo tồn trong nhà lưới. Từ đây, các nhà khoa học tiếp tục tạo ra 250 cây S1 (gọi là cây nhân nhanh mắt ghép). Đây là nguồn để nhân giống cung cấp cho người dân có nhu cầu. Cứ 3 - 4 năm, nguồn S0, S1 này sẽ được thay đổi để đáp ứng nguồn gen cho việc tạo ra bưởi Phúc Trạch giống. Ngoài việc bảo tồn trong nhà lưới, dự án còn xây dựng hệ thống vườn bảo tồn tập trung ngoài trời…
Sau khi triển khai, Huyện đã xây dựng được một trại giống bưởi Phúc Trạch và 3 doanh nghiệp đủ điều kiện sản xuất giống, có khả năng sản xuất trên 1,7 vạn cây giống mỗi năm, đủ cung ứng cho nhu cầu trồng hàng năm trên địa bàn. Tất cả giống ghép đều được lấy mắt ghép từ các cây đầu dòng trên địa bàn; các cây chiết được kiểm tra, xác định lô giống đạt yêu cầu chất lượng mới được cung ứng cho nhân dân. Từ năm 2015, Huyện đã có chính sách hỗ trợ 40.000 đồng cho mỗi cây giống để khuyến khích bà con chọn mua giống chuẩn.
Trong quá trình chăm sóc cây, để tăng khả năng đậu quả cho cây, bên cạnh việc ứng dụng các phương pháp KHKT (phun thuốc kích thích ra hoa đối với cây bưởi ra hoa muộn), người dân thường thụ phấn bổ sung cho bưởi Phúc Trạch bằng cách lấy phấn của cây bưởi chua (Giống bưởi Phúc Trạch nhân giống bằng hạt) quét lên nhụy hoa bưởi đường (giống bưởi Phúc Trạch được nhân giống bằng cách chiết cành).
Từ sau năm 2011, diện tích, năng suất và sản lượng bưởi Phúc Trạch tăng đáng kể. Năm 2016, toàn huyện có 1.869 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm là 1.100 ha, năng suất bình quân đạt 8,5 tấn/ha (cao nhất đạt 9,5 tấn/ha), sản lượng 9.350 tấn, giá trị sản xuất đạt hơn 262 tỷ đồng (tăng 45,4% so với năm 2015)1. c xã Phúc Trạch, Hương Trạch, Hương Đô, Lộc Yên Hương Xuân… được xem là “thủ phủ” của loại đặc sản này.
Nhằm khai thác tốt tiềm năng, lợi thế đặc sản bưởi Phúc Trạch, huyện Hương Khê đã có nhiều giải pháp để đưa cây đặc sản này thực sự trở thành cây mũi nhọn kinh tế của huyện, như: chính sách hỗ trợ người dân kinh phí mua cây giống; xây dựng các trung tâm sản xuất cây giống đạt chất lượng; áp dụng tiến bộ KHKT từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch; xây dựng thương hiệu và thị trường tiêu thụ ổn định cho quả bưởi. Tháng 9/2016, bưởi Phúc Trạch đã chính thức xuất hiện trong chuỗi siêu thị Vinmart, đây là một bước ngoặt quan trọng trong khẳng định vị thế của quả bưởi Phúc Trạch. Bởi lẽ, việc cung ứng cho hệ thống Vinmart cũng đồng nghĩa với việc bưởi Phúc Trạch đạt tiêu chuẩn, vào được hệ thống các siêu thị trong hệ thống bán lẻ cả nước, mở ra hy vọng tươi sáng về sự phát triển của loại quả đặc sản này.
 Hiện nay, cây Bưởi Phúc Trạch đã được UBND tỉnh Hà Tĩnh xác định là một trong 15 sản phẩm chủ lực của tỉnh Hà Tĩnh (theo Quyết định số 853/QĐ - UBND ngày 27/3/2012), mục tiêu phát triển, mở rộng diện tích trồng Bưởi Phúc Trạch vào Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
Cây Cam: Đặc trưng khí hậu và chất đất ở Hương Khê rất thích hợp với việc phát triển các loại cây ăn quả lâu năm như: cam, bưởi, mít... Đây cũng là một trong những loại cây có giá trị kinh tế và phát triển ngày càng mạnh trong kinh tế vườn - trang trại của huyện.
 Năm 2000, toàn huyện chỉ có 583 ha trồng cam nhưng năm 2016, diện tích trồng cam lên đến 1.557 ha, trong đó có khoảng 850 ha đã cho thu hoạch, năng suất bình quân đạt 5 tấn/ha (cao nhất đạt 9 tấn/ha), sản lượng 4.250 tấn, giá trị sản xuất đạt hơn 100 tỷ đồng (tăng 6,5% so với năm 2015).
- Cam giấy: có đặc điểm quả nhỏ, vỏ xanh và mỏng như vỏ quýt, có mùi thơm rất đặc trưng, loại cam này cho thu hoạch từ độ giữa tháng 8 - tháng 10 âm lịch.
- Cam bù: Quả cam bù to mọng, khi chín hết có màu đỏ tươi và đều, phía trong phớt hồng, vị cam ngọt đậm đà đượm chút vị chua, thơm; đặc biệt múi cam to dày và hầu như không có hạt. Loại cam này được trồng nhiều ở vùng thượng huyện như Hương lâm, Hương Liên, Hương Vĩnh, Phú Gia. Mùa thu hoạch từ tháng 11 âm lịch đến tháng giêng năm sau. 
- Cam Khe Mây: Những năm 1994 - 1995, thực hiện chương trình phát triển các mô hình cây ăn quả vùng kinh tế mới Yên Sơn, các chuyên gia về cây ăn quả của ngành nông nghiệp Hà Tĩnh đã tổ chức đưa giống cam bù Hương Sơn (cây giống tạo từ nguồn mắt ghép chọn ở các vườn cam địa bàn huyện Hương Sơn) và cam chanh (cây giống tạo từ nguồn mắt ghép ở các vườn cam của xã Đức Bồng, huyện Vũ Quang ngày nay) về trồng tại vùng Khe Mây. Thích ứng với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng đặc thù của vùng này nên cây cam sinh trưởng tốt, cho năng suất cao và phẩm chất quả đặc biệt, tạo nên thương hiệu Cam Khe Mây.
- Cây Mít: là một trong những loại cây ăn quả phổ biến trong vườn của người Hương Khê. Một mặt nó phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu nơi đây, mặt khác bởi những giá trị thiết thực mà cây mít mang lại. Người ta có thể sử dụng tất cả các bộ phận của cây từ thân cây, lá cây, quả, hạt. Xơ mít có thể dùng để muối dưa, gọi là nhút. Một món ăn không thể thiếu được trong các bữa cơm hàng ngày. Ngoài ra, tất cả những gì mà người ta không ăn đều có thể dùng làm thức ăn gia súc (heo, bò) kể cả vỏ có gai, lõi trắng giữa trái. Lá mít cũng là một thức ăn “cao cấp” cho bò, dê, và dùng làm nguyên liệu chính để nuôi hươu. Gỗ mít thường được dùng làm cột nhà và các đồ gia dụng khác (vì thịt mềm, không nứt, dễ chế tác). Mặt khác, do cây to, cao, sống lâu, chịu hạn, chịu nắng tốt, tán lá dày, xanh quanh năm nên người dân nơi đây trồng nhiều mít trong vườn cũng nhằm cải thiện môi trường nóng nực nơi đây. Ngày nay, quả mít ở Hương Khê đã và đang trở thành một sản phẩm được mọi người ưa chuộng, có giá trị kinh tế.
Bên cạnh những cây ăn quả chính trên thì chuối, na, ổi, đu đủ đang là những loại cây ăn quả có giá trị kinh tế, được trồng nhiều trong vườn nhà. Việc trao đổi, mua bán từ các loại hoa quả này đã bổ sung thêm cho người nông dân một nguồn thu nhập đáng kể.
Ngoài ra Hương Khê còn có một hệ thống các cây ăn quả tự nhiên phong phú như: đu đủ, hồng, trám, tro (cọ), tắt, nghèn, chay, sôông (tai chua), sim, móc, khồ lồ, quả mây, hột hèo, hột sót, ổi, khế, nho dại, du (dâu đất), dâu da, quéo, quả sắn, quả ngấy...
Có thể nói Hương Khê là huyện có lợi thế so sánh về kinh tế vườn so với nhiều huyện khác. Từ vườn nhà - vườn rừng - vườn đồi là quá trình thay đổi nhận thức về ý thức bảo vệ, thâm canh rừng để đem lại hiệu quả kinh tế và bảo vệ nguồn tài nguyên cũng như môi trường sinh thái nơi đây.
4. Cây công nghiệp dài ngày
Cây chè: là một trong những sản vật đặc trưng của huyện Hương Khê, vùng nào cũng có. Chè được trồng trong vườn nhà, vườn đồi, vườn trại, chủ yếu nấu nước uống trong gia đình, dư dả thì bà con đem bán, trao đổi với miền xuôi.  Cây chè công nghiệp được đưa vào trồng trên đất Hương Khê từ năm 1959, trên đất của Nông trường Quốc doanh 20/4 (thành lập ngày 20.4.1959 theo Quyết định số 28 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Tỉnh), nay là Xí nghiệp chè 20/4 (Công ty CP chè Hà Tĩnh). Những năm gần đây, Xí nghiệp Chè 20/4 đang tiến hành liên kết sản xuất với các hộ dân trên địa bàn theo hình thức giao, nhận khoán: Xí nghiệp chịu trách nhiệm cung ứng cây giống, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm chè búp tươi; hộ nông dân nhận đất của Xí nghiệp trồng, chăm sóc, thu hái. Hiện nay, diện tích cây chè công nghiệp trên địa bàn có khoảng 500 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm đạt gần 422 ha, sản lượng búp tươi đạt trên 3.500 tấn. Năng suất đạt bình quân đạt 10 tấn/ha, giá trị 60 triệu đồng/ha, trong đó vùng chè cao sản đạt 23 tấn/ha, giá trị đạt gần 150 triệu đồng/ha, giá trị sản xuất đạt 12.732 triệu đồng.
Cây cao su: Cây cao su được trồng trên đất Hương Khê từ thời thuộc Pháp trong các đồn điền của địa chủ, tư sản người Việt và người Pháp, như đồn điền của Bùi Huy Tín, Ngô Soa, Coudoux, Bùi Huy Ổn. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, các đồn điền này bị phá bỏ, chuyển sang trồng các loại cây lương thực, cây màu, cây công nghiệp ngắn ngày... Cây cao su được vẫn trồng trong các nông trường lâm nghiệp như nông trường 20/4; nông trường Hà Đông, tuy diện tích không nhiều. Cho đến năm 1997, cây cao su đại điền đã được đưa vào trồng đầu tiên trên đất của xã Hương Xuân, Nông trường 20/4 ở Truông Bát - Hà Linh (Năm 1997, Nông trường Truông Bát được sát nhập vào Tập đoàn Công nghiệp Cao-su Việt Nam thành Công ty cao su Hà Tĩnh). Từ đó, cây cao su đã được trồng mở rộng sang các huyện lân cận như: Vũ Quang, Hương Sơn, Ðức Thọ… Năm 2007, diện tích trồng cây cao su đại điền ở Hương Khê tiếp tục được mở rộng sau khi Công ty Sản xuất kinh doanh thông chính thức trở thành đơn vị thành viên của Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam (CNCSVN) và mang tên Công ty TNHH MTV Cao su Hương Khê Hà Tĩnh. Diện tích trồng cao su của công ty tập trung tại các xã Hương Xuân, Hương Trà, Hương Vĩnh, Hương Đô, Hà Linh, Hương Thủy, Phương Mỹ, Phúc Đồng, Phúc Trạch.
Những năm gần đây, bên cạnh việc tiếp tục mở rộng diện tích cao su đại điền, huyện Hương Khê đã có nhiều chính sách phát triển thêm diện tích cao su tiểu điền dưới dạng giao khoán cho các hộ nông dân. Năm 2016, Hương Khê trồng mới thêm được 538,15 ha, nâng tổng số diện tích cao su của huyện lên 7.005,98 ha. Trong đó, diện tích khai thác mủ là 2.252,7 ha. Giá trị sản xuất đạt 4.448,47 triệu đồng.
II. NGÀNH CHĂN NUÔI
Hương Khê là huyện có nhiều vùng đất bãi, đồi núi, cồn... có nhiều tiềm năng để phát triển ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc. Tìm hiểu qua các nguồn thư tích cổ, mà cụ thể là “Hòm tư liệu Quy Hợp1” cho thấy: ở Quy Hợp có nhiều đồi cỏ xanh tốt, chạy men theo các khe suối. Đây chính là nguồn thức ăn, nước uống cho những đàn lợn, trâu bò, voi ngựa mà người ta đưa đi trao đổi buôn bán. Vì thế các sứ bộ Lào sang Việt Nam, các đoàn cống tiến voi, buôn bán phần lớn đi đường Trìm Trẹo - Quy Hợp (đến Thà Khẹc). Còn theo ghi chép của Toà công sứ Pháp năm 1925, Hương Khê có khoảng 11.500 con trâu - bò. Tuy nhiên, số trâu bò được nuôi trong các hộ nông dân chiếm tỷ lệ rất ít, chủ yếu được nuôi trong các đồn điền của Bùi Huy Tín, Ngô Soa, Coudoux, Paoli, Baurefreiy, Frossard, Tôn Thất Quảng, và các trại, ấp của địa chủ lớn (như đồn điền Bùi Huy Tín có 300 ha bãi cỏ chăn nuôi trâu, bò).
Ngành chăn nuôi Hương Khê, đến trước năm 1954 vẫn hoạt động theo phương thức truyền thống. Hoạt động chăn nuôi chủ yếu diễn ra ở quy mô gia đình theo kiểu khép kín, tự sản xuất giống, sử dụng thức ăn tự nhiên, chăn nuôi từ khi gia súc, gia cầm nhỏ tới khi xuất chuồng. Sản phẩm chăn nuôi đều là các giống gia súc, gia cầm địa phương, năng suất thấp, trọng lượng xuất chuồng thấp. Các loại trâu, bò chủ yếu chăn nuôi để lấy sức kéo, phục vụ trồng trọt và vận chuyển ở nông thôn.
Giai đoạn 1960 - 1990, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chăn nuôi là đảm bảo sức kéo, phân bón, cải thiện đời sống và làm nghĩa vụ thực phẩm cho Nhà nước. Bởi sau khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp, Nhà nước đã giao nghĩa vụ thực phẩm cho các hợp tác để từ đó, hợp tác xã giao cho xã viên. Vì thế, các hợp tác xã hình thành 2 hình thức chăn nuôi: chăn nuôi tập thể và chăn nuôi hộ gia đình:
Chăn nuôi tập thể:
Theo Điều lệ hợp tác xã, toàn bộ trâu, bò đều do hợp tác xã quản lý nhưng việc chăn nuôi trâu, bò lại giao cho các gia đình xã viên. Cứ 2 - 3 hộ xã viên nuôi 1 con theo hình thức luân phiên. Huyện Hương Khê đã đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích phát triển chăn nuôi trâu, bò như hộ nuôi một con trâu (bò) mỗi vụ được tăng thêm 20kg thóc. Nhiều giống lợn ngoại có trọng lượng lớn được đưa vào nuôi như Đại Bạch, Landrat… Công thức lai tạo giống được triển khai thực nghiệm trên cơ sở nái nền Việt Nam như Lang Hồng, Móng Cái, Mường Khương. Thụ tinh nhân tạo bước đầu được thực hiện do quy trình đã được Bộ Nông nghiệp tập huấn. Đưa lợn ngoại vào chăn nuôi đã thực sự cải tạo tình hình chăn nuôi ở nước ta nói chung và Hương Khê nói riêng. Trong đó, dùng lợn lai thế hệ F1 (đực ngoại x nái nội) - thường gọi là lợn lai kinh tế đã cho hiệu quả cao hơn nhiều sơ với lợn nội truyền thống.
Chăn nuôi hộ gia đình: chủ yếu tập trung vào các loại gia cầm như lợn, gà, ngan, vịt... phát triển mạnh từ những năm 1980 trở đi.
Tình hình chăn nuôi của huyện trong thời kỳ xây dựng hợp tác xã được thể hiện qua những con số sau (đơn vị tính nghìn con)

Loại/năm
1961
1965
1970
1975
Trâu
8.738
10.157
10.176
9.795
7.360
8.279
8.919
9.347
Lợn
9.336
11.456
18.458
18.188

Từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ngành chăn nuôi Hương Khê thay đổi một cách cơ bản, với việc giảm thiểu và xóa bỏ chăn nuôi hợp tác xã, mở rộng quy mô chăn nuôi hộ gia đình và hình thành những hộ chăn nuôi chuyên nghiệp. Từ đây, các hình thức chăn nuôi mới như trang trại, gia trại phát triển nhanh nhất là chăn nuôi đại gia súc. Các tiến bộ khoa học công nghệ mới được ứng dụng ngày một rộng rãi. Công tác phòng dịch và chữa bệnh cho giai súc, gia cầm cũng được triển khai có hiệu quả. Hệ thống dịch vụ nông nghiệp như khuyến nông, thú y đã được xây dựng tới cơ sở và hoạt động khá tốt.
Những năm gần đây, Hương Khê đã có những chính sách khuyến khích người dân mở rộng quy mô, đưa con giống có chất lượng tốt vào sử dụng, đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi trang trại theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Từ tập quán chăn nuôi gia súc, gia cầm nhỏ lẻ phân tán, hiện nay, nhiều hộ chăn nuôi trên địa bàn huyện đã từng bước hình thành các trang trại quy mô vừa và lớn cho hiệu quả kinh tế cao. Theo số liệu thống kê, năm 2016, Hương Khê có 669 mô hình chăn nuôi (bò, lợn, gà, hươu, ong)..., trong đó có 36 mô hình lớn, 27 mô hình quy mô vừa, 606 mô hình quy mô nhỏ.
Những nỗ lực phát triển ngành chăn nuôi của Hương Khê trong các năm gần đây đã giúp thúc đẩy sản lượng và giá trị sản xuất trong chăn nuôi của huyện liên tục phát triển.
Năm 2008, giá trị sản xuất chăn nuôi là 164,188 tỷ đồng, chiếm 25,7% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.
Năm 2010, Giá trị sản xuất chăn nuôi là 178,297 tỷ đồng, chiếm 29,3% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
Năm 2013, Giá trị sản xuất chăn nuôi là 212,418 tỷ đồng, chiếm 28,1% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
Năm 2016, tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 48,2% trong ngành nông nghiệp.
Sau đây là một số diễn biến cụ thể tình hình chăn nuôi trên địa bàn huyện trong những năm gần đây:
Năm 2005: Tổng đàn Trâu, Bò có 32.956 con, trong đó đàn trâu: 15.425 con, đàn bò 17.531 con (bò lai sin 159 con); đàn Lợn có 35.860 con; gia súc, gia cầm là 367.000 con.
Năm 2010: Tổng đàn trâu, bò đạt 39.000 con, tăng 17,8% so với năm 2005 (đàn bò lai sin sau 5 năm đạt 3.539 con); đàn lợn 37.000 con, tăng 3,2% so với năm 2005; đàn gia cầm 430.000 con, tăng 17,8% so với năm 2005.
Năm 2016: Đàn bò có 26.000 con, tăng 6% so với năm 2015; đàn lợn tăng 31% so với năm 2015 đạt 75.000; đàn gia cầm có 670.000 con, tăng 12,4% so với năm 2015.
Kết quả phát triển tổng đàn chăn nuôi giai đoạn 2012 - 2016
Danh mục
ĐVT
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
1. Đàn trâu bò

38.759
40.300
41.300
43.040
42.756
43.500
Trong đó:







+ Đàn trâu
con
17.246
18.300
18.100
18.240
17.356
17.500
+ Đàn bò
con
19.513
22.000
23.200
24.800
25.400
26.000
2. Đàn lợn
con
35.700
36.000
39.800
45.999
57.000
75.000
+ Lợn nái
con
2.900
3.500
3.528
3.800
3.473
5.300
+ Lợn đực giống
con
25
35
38
45
24
40
3. Đàn Hươu
con
1.273
1.700
2.100
2.500
1.758
1.627
4. Đàn gia cầm
1000 con
391
396
412
435
596
670
5. Sản lượng thịt hơi các loại
Tấn
5.243
5.700
6.653
9.025
10.351
11.400
6. Thủy sản







+ Sản lượng
Tấn
274
200
286
296
350
250
+ Giá trị sản xuất
Triệu đồng
2.740
2.600
3.713
4.442
5.037
3.400
7. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi

253.653
388.000
574.118
-
632.720
740
8. Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp
%
33,9
41
45,5
41,2
48
48,2
III. THỦY LỢI   
Trước đây, để dẫn nước vào ruộng, người dân Hương Khê áp dụng nhiều cách. Nếu ruộng ở gần sông nước tự nhiên (khe, hói) thì người ta khai những rãnh nhỏ cho nước chảy từ ruộng này sang ruộng khác. Để dẫn nước vào những chân ruộng xa, cao... người ta làm những guồng xe nước hay còn gọi là “xe bầy” dẫn nước từ sông, khe, suối vào. Khi dòng nước đẩy guồng xe quay lên, nước trong các ống tre sẽ chảy vào một cái máng rồi chuyển vào ruộng. Cứ như thế, guồng xe lặng lẽ quay suốt ngày đêm, đưa nước tưới cho các cánh đồng lúa, màu. Các guồng nước này tồn tại cho đến những năm 1964 mới dần bị tháo bỏ. Tuy nhiên, với đặc điểm khí hậu ở Hương Khê thì trước đây, bất cứ hình thức “dẫn thủy nhập điền”nào cũng không cung cấp đủ nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, nhất là vào mùa khô, hạn hán kéo dài.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề thủy lợi nên từ sau cách mạng tháng Tám đến nay, công tác thủy lợi luôn được Đảng bộ và nhân dân Hương Khê quan tâm, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu để phát triển kinh tế huyện nhà. Không có Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nào của huyện lại không nhắc đến nhiệm vụ xây dựng thủy lợi, làm hồ đập, kênh mương. Đặc biệt, trong những năm 60 - 70 - 80 của thế kỷ XX, công tác giao thông, thủy lợi được coi là nhiệm vụ hàng đầu để phát triển nông nghiệp. Cùng với hàng trăm con đập là hàng nghìn km kênh mương tưới tiêu, thoát nước được hình thành. Huyện đã cơ bản chủ động được việc chống úng, chống hạn cho đồng ruộng, góp phần đẩy mạnh thâm canh, đưa khoảng 80% đất trồng lúa lên hai vụ. Trong phạm vi toàn huyện, vòng quay của đất đã được nâng lên khoảng 2,4 lần/năm.
Hiện nay, với  165 hồ đập lớn nhỏ, Hương Khê đang là huyện có hệ thống hồ, đập thủy lợi khá hoàn chỉnh, bao gồm cả tự nhiên và nhân tạo, như: hệ thống đập Sông Tiêm (xã Phú Gia); Hồ Mục Bài (xã Hương Xuân); Hồ Đập Họ (xã Hương Long); Hồ Nhà Lào (xã Phú Phong); Hồ Đá Bạc (xã Hương Bình); Đập Hội (xã Hương Trạch); xã Phúc Trạch: hồ Khe Sông, hồ Khe Trồi, đập Ma Leng; xã Hương Thủy có hai công trình lớn là hồ đập Làng và hồ đập Trạng; hồ Khe Dài (xã Gia Phố), Hương Giang có công trình Khe Con, Phúc Đồng có La Giang, Rú Mạo, Lộc Yên có đập Khe Táy … hàng chục đập lớn nhỏ khác có dung lượng tưới tiêu dưới 50 ha như đập Ma Ca, đập Hội, đập Tráng, đập Thuộc, đập Lư, đập Khẩn, đập Thùng Trứa, đập Khe Trai, hồ Cây Hương, hồ Bàu Nậy, đập Tráng… loại đập cung cấp nước cho trên 10 ha có đến 77 công trình. Tổng diện tích tưới của toàn bộ hệ thống công trình trong huyện theo thiết kế đạt 14.794,5 ha. Điều đó cho thấy, thành quả lớn lao của Đảng bộ và nhân dân nơi đây trong công cuộc “dẫn thủy nhập điền”.
Trong đó quan trọng nhất phải kể đến Đập sông Tiêm (xã Phú Gia). Công trình này được khởi công xây dựng từ năm 1963, có nhiệm vụ tưới, tiêu cho các xã Phú Gia, Phúc Đồng, Hưng Long, Gia Phố, Phú Phong. Ngoài ra, công trình này còn làm nhiệm vụ cấp tưới, tạo nguồn cho một số công trình nằm ở phía hạ đảng ủy của đập. Ban đầu, hệ thống đập sông Tiêm được thiết kế cung cấp nước tưới cho 2.756 ha đất nông nghiệp (trong đó có 1.700 ha lúa và 950 ha màu, tạo nguồn cho nuôi trồng thủy sản 60 ha). Thực tế, đến nay công trình mới chỉ đáp ứng được 857 ha. Hệ thống tưới này gồm 3 tuyến kênh:
+ Hệ thống kênh tưới chính, với chiều dài 30.450 m, trong đó: Kênh Nam tưới 750 ha cho xã Hương Xuân, Hương Vĩnh; Kênh Bắc tưới 1.199 ha cho các xã Phúc Đồng, Hòa Hải, Hương Long, Hương Bình; Kênh giữa tưới 807 ha, cho các xã Phú Gia, Phú Phong, Gia Phổ, Thị trấn Huyện.
+ Hệ thống kênh cấp 1: thuộc kênh chính Bắc dài 21.150 m; thuộc kênh giữa dài 6.050 m; kênh Nam dài 7.450 m.
Ngoài ra còn phải kể đến một số hồ, đập có năng lực tưới tiêu cho hơn 100 ha đất canh tác như:
- Đập Đá Hàn (xã Hòa Hải): được xây dựng từ năm 1977 - 1980 có diện tích lưu vực 13,4 km2, năng lực tưới tiêu đạt 400 ha đất canh tác. Đập mới được xây dựng lại giai đoạn 2008 – 2012, cách so với vị trí đập cũ khoảng 1.000m. Công trình được thiết kế có nhiệm vụ:
+ Cấp nước qua hệ thống kênh cho 2.612 ha; trong đó tưới trực tiếp cho 1324,2 ha lúa; 285,6 ha mầu; 23 ha ao hồ nuôi trồng thủy sản và taohj nguồn cho 979,2 cây công nghiệp và cây ăn quả.
+ Xả nước với lưu lượng Q = 3,82 m3/s để bảo vệ môi trường sinh thái hạ đảng ủy, kết hợp phát điện với công suất lắp máy khoảng 1.000 kw và tạo ra nguồn bơm tưới cho 2.388 ha phía bờ hữu sông Ngàn Sâu.
+ Cấp nước sinh hoạt cho 23.396 nhân khẩu qua hệ thống kênh.
+ Giảm lũ vùng hạ lưu.
+ Khu tưới của công trình thuộc các xã Hòa Hải, Phúc Đồng, Hà Linh, Phương Mỹ và Phương Điền.
- Hồ Khe Nậy: xây dựng năm 1984 - 1985 ở xã Hòa Hải có diện tích lưu vực 2,2 km 2 với dung tích thiết kế 1,1 triệu m3 nhưng thực tế chỉ có dung tích 0,3 triệu m3.
- Đập Khe Táy, được xây dựng trong giai đoạn 2008 - 2011 với diện tích lưu vực là 99,5 km2, nhiệm vụ tưới thiết kế cho 500 ha canh tác. Tuy nhiên hiện nay công trình mới chỉ đảm nhận tưới cho một phần diện tích phía Tây xã Lộc Yên bên bờ hữu của nhánh, một phần xã Gia Phố và Hương Giang do hệ thống kênh mương chưa được đầu tư hoàn chỉnh. Công trình mặc dù chưa được bàn giao nhưng đang phát huy tốt nhiệm vụ tưới cấp nước cho vùng.
- Hồ Đập Họ (xã Hương Long) được xây dựng trong giai đoạn 1974 - 1975 có diện tích lưu vực 3 km2 với dung tích thiết kế 1,6 triệu m3. Công trình được thiết kế tưới cho 150 ha đất canh tác, thực tế công trình mới đảm bảo được cho hơn 130 ha đất canh tác. Hiện công trình đang được tu sửa để đảm bảo diện tích tưới theo nhiệm vụ thiết kế.
Trên thực tế các công trình thủy lợi của huyện mới chỉ tưới được cho 3.954,1 ha, đạt 26,72% so với thiết kế và 67.3% so với tổng diện tích canh tác. Trong đó, diện tích tưới được chủ yếu là lúa nước, đạt từ 2.800 - 3.072 ha; tưới cho màu, diện tích màu còn cây ăn quả, cây công nghiệp diện tích được tưới không đáng kể so với diện tích canh tác hiện tại. Điều này chứng tỏ hệ thống hồ đập thủy lợi trên địa bàn huyện vẫn chưa đảm bảo năng lực tưới, tiêu trong vùng. Các công trình chưa phủ hết diện tích cần tưới hiện có, thêm vào đó, nhiều công trình thủy lợi đã lâu nên đã xuống cấp hoặc hư hỏng nặng nên không đạt được hiệu suất sử dụng. Vì thế, năm 2015, UBND huyện Hương Khê đã lập Dự án “Quy hoạch phát triển hệ thống thủy lợi huyện Hương Khê - tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, nhằm khai thác và nâng cao năng lực tưới tiêu cho huyện, đồng thời phát huy tiềm năng, lợi thế của hệ thống thủy lợi trong phát triển nông nghiệp nông thôn, xây dựng Hương Khê trở thành một huyện có nền nông nghiệp phát triển mạnh của tỉnh Hà tĩnh.
Có thể nói, trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp chính quyền nên ngành nông nghiệp Hương Khê đã có những chuyển biến tích cực. Về cơ bản đã phân bố các vùng phát triển cây trồng, vật nuôi phù hợp với sinh thái. Một số cây trồng, vật nuôi đặc trưng của huyện đã xây dựng được thương hiệu như Bưởi Phúc Trạch, Cam Khe Mây, cây cao su… đã và đang trở thành mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao, đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất đã góp phần tăng thêm khối lượng sản phẩm và giá trị trên một đơn vị diện tích, đưa kinh tế nông nghiệp Hương Khê chuyển dần sang nền nông nghiệp hàng hóa tập trung.
Hiện nay, ngành Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ lực của huyện Hương Khê, nhưng một số năm gần đây, tỷ trọng của ngành có xu hướng giảm. Do vậy, trong chiến lược phát triển lâu dài, nền nông nghiệp Hương Khê vẫn cần được đầu tư hơn nữa để phát triển theo hướng chuyên sâu, đẩy mạnh phát triển cây trồng hàng hóa cơ hiệu quả kinh tế cao, chăn nuôi theo mô hình công nghiệp, tạo đà thúc đẩy nền kinh tế huyện phát triển.

Chương 2
LÂM NGHIỆP
Hương Khê là một trong các huyện miền núi có nhiều tiềm năng về rừng. Diện tích rừng ở đây khá lớn, chiếm tới 77% diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Nếu so sánh với tổng diện tích rừng của tỉnh Hà Tĩnh thì Hương Khê được đánh giá là huyện có diện tích và trữ lượng rừng lớn nhất tỉnh. Trong tổng số 99.160,4 ha đất rừng thì rừng phòng hộ có 30.203,91 ha; rừng đặc dụng có 17.479,86 ha; rừng sản xuất có 41.476,63 ha1.
Trước đây, rừng Hương Khê có đầy đủ các đặc điểm của thảm rừng vùng Đông Nam Á, trong rừng có nhiều gỗ quý như lim, sến, gõ… nhiều lâm sản như song, mây, củ nâu, khoai mài, dược liệu quý như quế, sa nhân, đẳng sâm, các loại cây cỏ làm thuốc nhuộm màu tự nhiên… Rừng cũng là mái che môi trường sống cho nhiều loại động vật hoang dã quý, hiếm như voi, hổ, gấu, bò tót, trâu rừng, lợn lòi, nai, hoẵng…  nhiều loại động vật bò sát và chim chóc ít thấy ở nơi khác như kỳ đà, trăn đất, các loại rắn, loại chim… Ngoài hệ thống động - thực vật phong phú, rừng núi Hương Khê với hàng ngàn con khe suối lớn nhỏ còn là nguồn nước vô tận thường xuyên cung cấp cho đời sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Có thể nói nhờ vào cái kho báu rừng đại ngàn ấy, người dân miền núi nơi đây có hàng trăm thứ nghề khai thác: từ gỗ lạt, đến rau cỏ, thuốc thang..., từ chất đốt đến nguyên vật liệu... từ lương thực, thực phẩm đến thuốc men, từ đất đai trồng cấy đến khoáng sản, tài nguyên đều dựa vào rừng.  Tuy nhiên, việc khai thác các loại lâm sản trên chỉ có mức độ theo từng hộ gia đình nhỏ lẻ, từng tổ hoặc từng đội thường gọi là tổ sơn tràng hoặc đội sơn tràng. Phương pháp khai thác hoàn toàn thủ công, dụng cụ chủ yếu là rìu, cưa, rựa… vận chuyển bằng sức người hoặc trâu, bò… việc khai thác cũng chỉ phục vụ nhu cầu trong gia đình. Quy mô cũng như phương tiện và kỹ thuật khai thác đều mang tính chất thủ công nên việc khai thác không ảnh hưởng lớn tới khả năng tái sinh của rừng (kể cả gỗ, chim, thú và các loại lâm sản). Kể cả việc phát nương làm rẫy cũng được coi là hoạt động sản xuất bình thường, không đến mức hủy hoại rừng.
Nói thêm về nghề khai thác gỗ, người dân Hương Khê xưa sống giữa rừng vàng nhưng cuộc sống vẫn nghèo đói, sống giữa bạt ngàn đinh, lim, sến, táu nhưng nhà của họ vẫn là nhà nạng, nhà tre tạm bợ. Bởi vì gỗ là tài sản quốc gia, gỗ quý chỉ dùng để kiến thiết cung điện, lăng tẩm. Vì thế, người dân nơi đây đã nghèo lại càng kiệt quệ hơn vì nghĩa vụ “biệt nạp gỗ lim”. Năm 1822 (Năm Minh Mạng thứ ba), hơn 500 dân thợ sơn tràng của xã Phúc Lộc (vùng Phúc Trạch, Lộc Yên sau này) đã “xin chịu binh đao, tha cho thuế gỗ”, vì khi làm thợ sơn tràng khai thác gỗ lim nộp cho nhà nước thì họ được miễn binh dịch. Vua hạ lệnh theo sổ đinh là kén binh như lệ, tha cho một nửa thuế thiếu.
Sau kháng chiến chống Pháp, nhu cầu tái thiết đất nước đòi hỏi nguồn lâm sản lớn nên hàng loạt Lâm trường ra đời. Lúc đó, Hương Khê có tới 4 lâm trường, trong đó có một lâm trường trồng rừng, ba lâm trường khai thác là Chúc A2; Trại Trụ; Vũ Quang. Nhiệm vụ chủ yếu của các lâm trường này là khai thác gỗ và khai thác nhiều hơn trồng, vì vậy, việc khai thác rừng diễn ra với tốc độ nhanh, đặc biệt là khai thác gỗ. Hàng nghìn lít mật ong cùng hàng trăm loại cây dược liệu khác cũng được nhân dân khai thác để bán  và trao đổi với Nhà nước.
Những năm tiếp theo, xu hướng này vẫn đang tiếp diễn, đặc biệt là trong giai đoạn 1982 - 1990. Rừng vẫn được khai thác nhiều, dựa theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh và Bộ Lâm nghiệp. Điểm khác biệt là giai đoạn sau này, việc quy hoạch lâm trường và xây dựng kế hoạch khai thác đã được chú trọng nhiều hơn, dựa trên kỹ thuật chọn “chọn những cây có tuổi” để khai thác kết hợp với chăm sóc và bảo vệ rừng.
Từ sau năm 2002, thực hiện chủ trương đóng cửa rừng, bảo vệ rừng và phát triển vốn rừng, phần lớn các đơn vị lâm trường quốc doanh, các hộ gia đình đã chuyển từ khai thác rừng sang nhiệm vụ trồng, bảo vệ rừng và làm dịch vụ lâm nghiệp. Nhiệm vụ khai thác gỗ giảm đến mức tối đa, phát triển công tác trồng rừng. Trên địa bàn huyện Hương Khê chỉ còn Công ty Lâm nghiệp Dịch vụ Chúc A là đơn vị được giao kế hoạch khai thác rừng tự nhiên (bình quân mỗi năm 4.000m3). Các đơn vị chủ rừng khác (Quốc doanh và ngoài quốc doanh) chỉ được khai thác gỗ rừng tập trung và gỗ trồng phân tán, gỗ vườn.
Có thể nói, nguồn tài nguyên rừng ở Hương Khê trải qua nhiều thập kỷ bị khai thác tràn lan đã làm cho chất lượng rừng tự nhiên nơi đây suy giảm, làm hạn chế đến chức năng rừng phòng hộ, tính đa dang sinh học của rừng. Từ đó, đặt ra những vấn đề vô cùng cấp bách trong việc bảo vệ tài nguyên hệ sinh thái và sinh thái rừng nơi đây.
Những năm gần đây, công tác bảo vệ rừng ở Hương Khê đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống tổ chức bảo vệ rừng được xác lập từ huyện đến xã. Diện tích đất lâm nghiệp đã giao cho các chủ rừng quản lý, bảo vệ và phát triển rừng như: Vườn QG Vũ Quang, Khu BTTN Kẻ Gỗ, Ban QL BVR Sông Tiêm, Ban QL BVR Ngàn Sâu, Công ty Cao su Hà Tĩnh, Công ty Cao su Hương Khê, Công ty Lâm nghiệp và Dịch vụ Chúc A, Tổng đội thanh niên xung phong xây dựng kinh tế Phúc Trạch, giao khoán cho các hộ gia đình trên địa bàn trên những khu rừng có đủ điều kiện. Các hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân bảo vệ rừng, phòng chống cháy, chặt phá rừng được làm thường xuyên góp phần hạn chế đáng kể tình trạng khai thác và vận chuyển, buôn bán lâm sản trái phép.
Đất lâm nghiệp phân theo chủ quản lý1
TT
Chủ quản lý
Tổng
Rừng đặc dụng
Rừng phòng hộ
Rừng sản xuất

Tổng
100.606,8
17.622,6
30.844,3
52.139,9
1
Khu BTTN Kẻ Gỗ
5.823,6
5.823,6
-
-
2
Vườn QG Vũ Quang
11.962,5
11.799,0
163,5

3
Ban QL RPH Sông Tiêm
15.077,6
-
11.640,7
3.436,9
4
Ban QL RPH Ngàn Sâu
16.771,0
-
7.185,8
9.585,2
5
Công ty LN và DV Chúc A
22.421,9
-
9.018,8
13.403,1
6
Công ty Cao su Hà Tĩnh
5.635,3
-
6,0
5.629,3
7
Công ty Cao su Hương Khê
9.797,9
-
1.974,4
7.823,5
8
Tổng đội TNXP  XDKT Phúc Trạch
298,3
-
-
298,3
9
UBND các xã
8.814,3
-
855,1
7.959,2
10
Hộ gia đình
4.004,4
-
-
4.004,4

Phong trào trồng rừng mới cũng có nhiều bước đột phá, đã có những chương trình, dự án trồng rừng như chương trình 327, 661, 147, liên doanh... cơ cấu cây trồng có những cải thiện đáng kể, đa dạng, phong phú về loài vừa đảm bảo được giá trị phòng hộ, vừa mang lại giá trị cho người làm rừng, nổi bật có các loài như keo lai, bạch đàn mô, cao su, trầm hương...  Từ 2013 đến 2016, Hương Khê đã trồng mới được 6.995 ha rừng tập trung (chỉ riêng năm 2016 là 3.115 ha), nâng độ che phủ rừng lên trên 70%. Chất lượng rừng trồng cũng ngày càng được nâng lên, tỷ lệ thành rừng đạt trên 96%.
Giá trị kinh tế lâm nghiệp ngày càng rõ nét, năm 2015 đạt trên 210 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2010. Trong đó, lĩnh vực khai thác gỗ và lâm sản tăng nhiều nhất, đạt 162,68 tỷ đồng, chiếm 87,56% giá trị ngành sản xuất lâm nghiệp, còn lại là lĩnh vực trồng và nuôi rừng.
      Bảng Giá trị sản xuất Lâm nghiệp một số năm gần đây1
Năm
Tổng số /triệu đồng
Trồng và chăm sóc rừng
Khai thác gỗ và lâm sản khác
Thu nhặt sản phẩm từ rừng không phải gỗ
2011
66.287
18.538
41.541
6.208
2012
107.549
22.752
77.655
7.142
2013
120.714
24.820
86.974
8.920
2014
168.344
26.965
131.011
10.368
2015
208.377
28.156
166.453
13.768

Có thể thấy rõ, với lợi thế hơn ¾ diện tích là đất lâm nghiệp, Hương Khê vẫn đang có quỹ đất rừng sản xuất lớn để trồng rừng và các loại cây dược liệu. Trên thực tế, nguồn lực này còn tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho hàng vạn hộ dân từ việc nhận khoán bảo vệ rừng, trồng rừng, khai thác lâm sản và các dịch vụ khác, đời sống của người làm rừng ngày càng được cải thiện, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế thiệt hại do biến đổi khí hậu. Thông qua việc đầu tư phát triển rừng trồng nguyên liệu, giúp người dân tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, nâng cao nhận thức và trình độ dân trí, đổi mới tư duy sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần làm thay đổi toàn diện về bộ mặt kinh tế - xã hội của địa phương. 
Nói đến rừng ở Hương Khê, không thể không nhắc đến nghề săn, bắn thú rừng. Bởi trước kia, nghề này khá phổ biến và tồn tại cho đến những năm 80 của thế kỷ XX. Việc đi săn một phần để có thịt cải thiện bữa ăn trong gia đình, một phần để bảo vệ mùa màng. Quy mô có thể là cá nhân hoặc từng nhóm, từng phường tùy theo đặc điểm của từng làng, từng xã cụ thể. Việc săn, bắn các loại chim, thú cũng chỉ bằng các công cụ thô sơ như nỏ (nộ) là chủ yếu, sau có thêm súng kíp tự tạo.
Săn bắt ong rừng cũng là một nghề khá đặc trưng của vùng rừng núi Hương Khê. Mùa săn ong rừng diễn ra từ khoảng giữa tháng 10 và kết thúc vào cuối tháng 12, khi thời tiết đang giao mùa. Lúc này, đàn ong phải di trú về bìa rừng kiếm những nơi ấm áp để trú đông. Biết được quy luật này, người dân vùng biên giới Hương Khê thường tìm cách săn ong rừng đưa về nhà thuần nuôi lấy mật. Từ nghề này, sau này đã hình thành nên nghề nuôi ong lấy mật, rất có giá trị kinh tế ở một số địa phương của huyện Hương Khê.
Chương 3
THỦY SẢN

Hương Khê là huyện có nhiều suối, khe, hồ, đập, ao tự nhiên và nhân tạo phong phú, cùng với đó là hàng loạt khu đồng thấp có nước ngập quanh năm, cho nên nguồn thủy sản tự nhiên và nuôi khá phong phú. Nguồn thực phẩm quan trọng này không chỉ đáp ứng nhu cầu thức ăn trong đời sống của con người mà còn góp phần tạo nên những giá trị văn hóa ẩm thực độc đáo. Chẳng phải ngẫu nhiên mà “con cá mát” đã trở thành món “đặc sản” của người dân miền núi Hương Khê.
Theo bản “Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020”, hiện nay tổng diện tích mặt nước của huyện là 2.636,66 ha, bao gồm (sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng) vì thế, lượng thủy sản tự nhiên của huyện là khá lớn. Tuy nhiên, cho đến đầu thế kỷ XXI, giá trị sản xuất của ngành thủy sản chiếm không đầy 1% tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Năm 2002, tổng sản lượng cá nuôi của toàn huyện là 232,4 tấn, sản lượng tôm nuôi và các thủy sản khác hoàn toàn không có gì. Mười ba năm sau, tình trạng trên vẫn chưa có gì thay đổi, diện tích nuôi trồng thủy sản chỉ có 315 ha, tổng sản lượng là 350 tấn, trong đó khai thác 20 tấn, nuôi trồng 330 tấn, giá trị sản xuất đạt 5.307 triệu đồng. Nuôi trồng thủy sản Hương Khê vẫn đang là một tiềm năng lớn cần được khai phá.
Hiện trạng nuôi, trồng thủy sản những năm gần đây
H   Hạng mục
2011
2012
2013
2014
2015
1. Tổng diện tích nuôi trồng (ha)
244
277,7
283,7
288,7
315
2. Sản lượng thủy sản (tấn)
304,7
395,1
394,4
451,8
350
a) Sản lượng nuôi
60,7
330
307,3
359,1
330
b) S.lượng khai thác tự nhiên
244
65,1
87,1
92,7
20
Trước đây, ở tất cả các làng, xã, việc đánh bắt cá tự nhiên trên đồng ruộng, ao, hồ, đập, khe rất phổ biến. Người nông dân nơi đây cũng rất hiểu thuộc tính của từng loại thủy sản, từ đó, có cách bắt riêng với từng loại.
Những lúc trời mưa người ta thường đón bắt cá rô hay lội ngược dòng nước tràn “cá rô lóc ngược”, có người bắt được hàng giỏ. Loại cá bống về mùa hè hay lên nằm hóng mát ở chỗ cạn các bãi cát, người ta thường dùng đuốc soi bắt. Về mùa hạ, dọc sông Ngàn Sâu, cá thường tụ hội ở những vực sâu đua nhau nhảy lên khỏi mặt nước mà dân Hương Khê gọi là “cá nhởi”. Những đêm đó cũng là đêm tụ hội của dân chài và những người “kéo vó”. Dưới sông Ngàn Sâu thường vạn chài hay đóng cọc tre thành từng khóm để cho cá, tôm hay trú ẩn, nhờ thế người ta thường bắt được nhiều tôm to ở đó.
Một số công cụ đánh bắt điển hình ở Hương Khê có:
Rập chì, lưới tròn, có viền, bên trong viên được cài những miếng chì, đánh bắt theo kiểu vưà lặn vừa chụp;
Rập cong: hình thức giống rập chì, kiểu dáng giống cái nơm hình trụ, nhưng được đan bằng lưới, vừa đi vừa úp dùng để đánh bắt ở những chỗ nước sâu có khi đến cổ.
Sa: một loại dàn tre lót dưới dòng chảy, cá theo dòng nước trôi vào thì không ra được.
Sáo che: công cụ là một tấm lưới đan bằng tre gọi là sáo tre, có độ rộng và dài như một tấm phản;
Róc (hay còng gọi là đơm róc), là một loại công cụ đan bằng tre, được đan theo hình cái phễu, lót phía dưới dòng nước, các loại thủy sản khi chui vào róc thì không ra được.
Câu, câu đay: dây câu bằng đay dài từ 30 - 50 m;
Câu Rê (cần câu dài) dùng để câu những con cá lớn nặng độ vài kg.
Chương 4
TIỂU, THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP

Trước đây, phần lớn các nghề thủ công ở Hương Khê đều dựa trên các nguồn nguyên liệu sẵn có từ rừng như gỗ, tre, nứa, giang, song, mây, cau… nguồn nông sản phong phú như đậu, lạc, vừng… người nông dân tranh thủ thời gian nông nhàn sản xuất ra các sản phẩm gia dụng hoặc nông cụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình, quy mô nhỏ lẻ. Đáng kể nhất, có lẽ là nghề trồng cau và chế biến cau khô. Theo ghi chép của tòa Công sứ Pháp năm 1925 tại Hà Tĩnh: nghề trồng cau ở Hương Khê tạo ra được một nguồn hàng đặc biệt trên thị trường Hà Tĩnh, hàng năm, một lượng cau đáng kể (có lẽ là cau khô) được vận chuyển theo đường sông ra Bến Thủy - Vinh và cả Bắc Kỳ, tạo ra một nguồn thu lớn cho nhân dân Hương Khê, tuy không giàu có lắm nhưng dễ chịu không phải cày cấy vất vả như những vùng miền khác. Tuy nhiên, sản lượng hàng năm không ổn định do phụ thuộc vào khả năng đậu quả của cây cau.
Từ sản vật là quả cau, đã hình thành nên nghề bửa cau thủ công (chế biến cau khô). Trước những năm 1960, nghề này rất phát triển và là nghề mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân. Vì thế, với nhiều gia đình, đây lại là nghề chính. Ngoài cau nhà, họ phải tìm mua cau vườn, cau chợ Un, chợ Gia (Phú Gia), chợ Đồn (Lộc Yên) trong vùng để có đủ nguyên liệu. Trong nhà phải có đủ đồ đựng, cất giữ, thường là loại chum kiệu, cao ngang người đứng, đựng được 10 cóm. Bửa cau phải có dao sắc “sắc như dao cau”, nhiều loại khác nhau. Dao cắt ngàu, lưỡi hơi dài, mỏng, to bản; dao róc vỏ, ngắn hơn, sắc vừa phải; dao bửa (bổ) chắc, sống hơi mập, rất sắc. Cau róc xong, phơi cho ráo, khỏi trơn, đưa vào bàn xiết. Người làm cắp cán dao vào nách, đặt quả cau đúng vào vị trí, con cò bằng gỗ khoét lỗ vừa sát với quả cau, cho chụm cau nhô ra, người thợ với thao tác điêu luyện, đưa nhát dao nhanh như máy. Đồ đựng, đồ phơi cau cũng lắm thứ: rổ cau đựng riêng từng loại, cau chưa tách vỏ, đã tách vỏ, đã cắt chụm và cau miếng vừa bửa xong, cau đã hong phơi khô v.v...  Từ nghề bửa cau đã kéo theo nhiều nghề khác phát triển theo như: đan đồ tre, rèn dao, đốt than, làm quanh gánh.
Nghề trắc mật: hàng năm, khoảng từ sau rằm tháng Chạp đến hết tháng Giêng, người dân xóm núi Hương Khê lại rộn ràng vào mùa kéo che (nấu mật mía). Đây là nghề truyền thống của người dân nơi đây. Cây mía, sau một năm chăm bón sẽ được đốn hạ, róc sạch rễ, lá, chặt vát từng khúc ngắn rồi cho vào che ép lấy nước. Che mía là hai quả trục được làm bằng gỗ mít, gỗ nhãn phía trên có bành răng cưa và ách cho trâu hoặc bò mang. Kéo che phải là những con trâu mộng hoặc bò đực to khỏe của gia đình. Nếu nhà nào không có trâu, bò kéo sẽ phải đổi công với nhà khác để được mượn trâu hoặc bò. Nước mía sau khi kéo ép xong được cho vào chảo, nấu sôi, vớt bọt và cho vào thùng lắng để nguội. Sau khi lắng, nước mía được cho vào chảo sắc trong khoảng từ 5 đến 7 tiếng. Việc nấu mật cũng phải mất cả ngày, người nấu phải vớt bọt liên tục đến khi có bọt cái (tức bọt mật). Mật muốn màu đẹp, thơm ngon, để cả năm không bị chua là cả một bí quyết gia truyền và phụ thuộc rất nhiều vào khâu trắc mật. Bởi vậy mà, cùng một ruộng, một che nhưng mật có nhà ngon, nhà dở là chuyện thường tình. Trước đây, mật mía được dùng rất phổ biến và đa dạng: dùng chấm bánh chưng, nấu kẹo múc, kho cá, uống với nước chè xanh và đặc biết là nguyên liệu không thể thiếu của món kẹo Cu đơ nổi tiếng Hà Tĩnh. Thông thường mỗi làng chỉ có vài ba cái che (máy ép mía làm thủ công), do đó, mùa kéo che cũng là mùa gắn kết tình làng nghĩa xóm, người làng sẽ luân phiên nhau kéo mật. Ngày nay, phần vì diện tích trồng mía ít đi, phần vì hàng hóa tiêu dùng sẵn có nên nghề này không còn phổ biến như xưa, người dân cũng chuyển sang kéo che vào dịp ra giêng, khi việc nhà nông đã có việc nhàn hạ.
Nghề Nuôi tằm, dệt lụa, ở các vùng ven sông Ngàn Sâu có nhiều bãi phù sa màu mỡ, thích hợp cho việc trồng dâu nên nhân dân có điều kiện nuôi tằm. Việc nuôi tằm vừa lấy tơ, vừa có phân bón vô cùng tốt. Tuy nhiên sản phẩm làm ra chủ yếu chỉ để phục vụ nhu cầu trong gia đình và trao đổi trong xã.
Nghề làm bánh tráng, bánh mướt, bún: nghề này hầu như xã nào cũng có nhưng ngon và nổi tiếng nhất là làng bánh Ninh Cường ở xã Gia Phố. Làng có hai thôn là Phố Cường và Phố Thịnh, quanh năm người Ninh Cường sản xuất đủ các loại bánh từ bánh mướt, bún đến bánh tráng, bánh ram. Trong đó nổi tiếng nhất là “bánh đa, bánh tráng”. Quy trình làm hai loại bánh này đều giống nhau, chỉ khác là bánh tráng có thêm nguyên liệu hạt vừng đen, cái nồi dùng để tráng to hơn và một số kỹ thuật pha trộn nguyên liệu khác. Bánh đa ở đây vừa dầy vừa to đặc biệt là có rất nhiều vừng đen, ăn vừa béo, thơm, vừa giòn. Mỗi chiếc bánh còn có vị cay nồng của tiêu và tỏi, gia vị đậm đà rất khó để quên. Do đó, khi đói có thể ăn trừ cơm, chỉ thấy no mà không thấy chán. Loại bánh này được làm hoàn toàn bằng gạo ngon, không pha thêm ngô, sắn như ở nhiều nơi khác. Thông thường khi làm bánh đa, nguời ta chọn loại gạo gié vụ mùa, vừa dẻo, vừa thơm, không dùng gạo xay từ các vụ lúa trước, năm trước vì lúa để lâu nên gạo mất chất. Khách cầm bánh, bẻ từng miếng, chấm với nước mắm cốt pha chanh, ớt cay xè, có vài giọt cà cuống thì càng ngon tuyệt, ngoài ra người ta còn ăn bánh tráng xúc nham (gỏi) bắp chuối, hến xào, hột xăng…
Nghề làm đũa cau Nàng Rưng (cau rừng): nghề này mới xuất hiện từ những năm 1970 đến nay, phát triển chủ yếu trên địa bàn xã Phúc Trạch. Hiện nay, nghề làm đũa cau Nàng Rưng khá phát triển, sản phẩm được nhân dân nhiều nơi yêu thích.
Ngoài ra, Hương Khê còn có một số nghề đặc trưng khác làm nhà gỗ (Lộc Yên), nghề chế tác Trầm Hương ở Hương Trạch - Phúc Trạch…một số nghề thủ công đến nay không tồn tại nữa (nghề bữa cau), hoặc chỉ tồn tại ở quy mô nhỏ (nghề trắc mật), trong phạm vi kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên cũng có những ngành nghề tiếp tục được mở rộng và phát triển như nghề chế tác đồ mộc, trầm hương, làm bánh tráng, bánh mướt, bún ...
Từ năm 90 của thế kỷ XX, trở lại nay, Hương Khê đã có nhiều chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp như: Nhà máy gạch Tuy  nen tại xã Hương Bình, Phúc Đồng và Phúc Trạch; nhà máy chế biến cao su tại xã Hà Linh; khai thác đá xây dựng ở Hương Trạch. Bên cạnh đó, kêu gọi các nhà đầu tư, kết hợp với nguồn vốn Nhà nước để xây dựng cơ sở hạ tầng cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề Gia Phố, Bắc Thị Trấn, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở 2 xã Phúc Trạch và Hương Trạch. Đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến lâm sản, huyện đã có hàng chục cơ sở chế biến có quy mô hiện đại; hai làng nghề chế biến lâm sản: Bình Sơn và Hương Bình cùng hàng trăm cơ sở chế biến lâm sản, chế biến đồ gia dụng nhỏ, lẻ trong nhân dân.
Theo đó, số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp có chiều hướng phát triển và chủ yếu là các cơ sở tư nhân. Các xưởng chế biến, sữa chữa cơ khí, sửa chữa điện tử, đồ mộc dân dụng, sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng, các nghề thủ công như: chế biến và gia công trầm hương, đồ mộc... phát triển mạnh mẽ. Năm 2005, toàn huyện mới có 08 doanh nghiệp nhà nước, 28 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Năm 2010, số doanh nghiệp trên địa bàn tăng gấp 3 lần là 80 và doanh nghiệp (trong đó 5 doanh nghiệp Nhà nước). Các doanh nghiệp mới được thành lập tăng nhanh qua từng năm. Năm 2016, toàn huyện có trên 324 doanh nghiệp tư nhân có số vốn đầu tư từ 350 triệu đồng trở lên, so với năm 2005 tăng hơn 10 lần (28 doanh nghiệp), 101 hợp tác xã (tăng 77 HTX so với năm 2010 và tăng 12 HTX so với năm 2015), 130 tổ hợp tác hoạt động trên tất cả các lĩnh vực.
Hoạt động công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Hương Khê đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của địa phương, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng GDP của huyện. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2010 đạt 155 tỷ 500 triệu đồng (bằng 229,32% năm 2005), năm 2015 đã đạt 253 tỷ 875 triệu đồng, năm 2016 đạt 1.363 tỷ (bao gồm cả XDCB), góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, thúc đẩy kinh tế phát triển và xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên cho đến nay, ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Hương Khê vẫn còn chậm phát triển, quy mô nhỏ, sản phẩm công nghiệp - TTCN trên địa bàn huyện mới chỉ đáp ứng nhu cầu thông thường của người dân địa phương, chưa có sự gia tăng “bứt phá” vào các sản phẩm cao cấp có giá trị kinh tế lớn để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, hoặc phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu để tạo ra sự chuyển đổi tích cực về cơ cấu kinh tế của huyện nhà, chưa có các ngành nghề chủ lực có quy mô lớn trên địa bàn huyện.
Ngày 02/6/2014, Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định phê duyệt đồ án quy hoạch  xây dựng vùng Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình đến năm 2030. Mục tiêu Quy hoạch là tạo ra một không gian liên kết kinh tế tại khu vực Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình; đáp ứng các yêu cầu về an ninh, quốc phòng của quốc gia và khu vực... Đây cũng là vùng giàu tiềm năng phát triển du lịch với các giá trị đặc biệt về cảnh quan thiên nhiên và nền văn hoá đa dạng, giàu bản sắc của 2 tỉnh. Phạm vi quy hoạch của dự án có tổng diện tích tự nhiên toàn vùng là 611.939 ha. Trong đó, diện tích tự nhiên vùng Nam Hà Tĩnh là 294.180 ha, vùng Bắc Quảng Bình là 317.759 ha. Ranh giới lập Quy hoạch vùng Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình gồm 03 huyện của tỉnh Hà Tĩnh (Kỳ Anh, Hương Khê, Cẩm Xuyên); 03 huyện và 01 thị xã của tỉnh Quảng Bình (Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn).
Theo định hướng phát triển không gian vùng của dự án, Hương Khê sẽ trở thành đô thị lớn, điểm trung gian nối liền Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cha Lo với các huyện Hóa Tiến, Đồng Lê, Quy Đạt, Cha Lo - Bái Dinh. Đây là khu vực tập trung phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng, xi măng và vật liệu xây dựng, dịch vụ thương mại, du lịch… Định hướng đến năm 2030, xây dựng Hương Khê - Cha Lo thành cụm công nghiệp lớn.
Sau khi dự án đi vào hoạt động, Hương Khê vươn lên trở thành một trung tâm kinh tế phát triển mạnh của tỉnh Hà Tĩnh.
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn huyện những năm gần đây1

2011
2012
2013
2014
2015
DVT: Triệu  đồng
Tổng số
230.669
247.732
254.946
254.408
253.875
Nhà nước
19.854
18.749
7.845
19.190
23.115
Trung ương
18.659
17.342
5.540
15.627
18.992
Địa phương
1.195
1.407
2.305
3.563
4.123
Ngoài Nhà nước
210.815
228.983
247.101
235.218
230.760
Tập thể
1.285
1.268
933
1.905
1.171
Tư nhân
105.962
108.270
87.767
32.466
31.921
Cá thể
103.568
119.445
158.401
201.657
197.668
Chỉ số phát triển (%)
Nhà nước
8,94
7,93
3
7,79
9,08
Trung ương
93,73
92,28
68,27
82,58
83,68
Địa phương
6,27
7,72
31,73
17,42
16,32
Ngoài Nhà nước
91,06
92,07
97,00
92,21
90,92
Tập thể
0,67
0,46
0,46
0,51
0,57
Tư nhân
49,40
34,32
34,32
13,82
13,98
Cá thể
49,93
65,22
65,22
85,67
85,45

Chương 5
THƯƠNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ
I. THƯƠNG NGHIỆP
Trước đây, tình hình thương nghiệp ở Hương Khê hầu như không mấy phát triển. Các hoạt động buôn bán chủ yếu tập trung ở vùng trung tâm huyện lị Chu Lễ; còn ở các vùng quê, việc mua bán hàng nông sản, thực phẩm, hàng gia dụng sản xuất tại chỗ, tạp hóa được thông qua hệ thống chợ quê. Việc buôn bán lâm sản chủ yếu vẫn là các sản phẩm khai thác từ rừng như gỗ, nứa, mây, song, lá tro, củ nâu… vận chuyển rất cồng kềnh, số lượng lớn nhưng giá trị thấp. Việc giao thương trao đổi hàng hóa chỉ phát triển trên những địa bàn có sông Ngàn Sâu chảy qua, chủ yếu là những cư dân miền xuôi vùng Chi La, La Giang, La Sơn lên đây trao đổi hàng hóa với các cư dân bản địa, khai thác sản vật của rừng đưa về.
Theo tài liệu ghi chép của Công sứ Pháp tại Hà Tĩnh, từ năm 1925, ở Hương Khê đã có các chợ:
- Chợ Chu Lễ nằm ở trung tâm huyện lỵ Hương Khê, là nơi cung cấp, giao lưu hàng hóa giữa tỉnh lỵ và các huyện trong tỉnh,  nơi có đông người bôn bán cư trú.
- Chợ Yên Ấp (Bãi Đức), chợ này xuất hiện sau khi đường xe lửa Vinh - Đông Hà được xây dựng, chợ là điểm tiêu thụ hàng hóa từ các nơi đưa đến và cung cấp  sản vật của địa phương cho các vùng khác trong tỉnh.
Và một hệ thống chợ khác như: chợ Vạn, chợ Vịnh, chợ Nổ, chợ Hào, Chợ Vân, chợ Gia, chợ Dâu, chợ Đò, chợ Đồn Điền, chợ Xuân, chợ Nam Trị, chợ Hạ Hoàng, chợ Hôm Huyện, chợ Trúc....các chợ này có từ trước năm 1945.
Trong số đó có những chợ lớn được cả vùng biết đến như Chợ La Khê (Hương Trạch), Chợ Un (nay thuộc Thị trấn), chợ Trúc, chợ Vạn, chợ Vịnh, chợ Vân, chợ Gia, chợ Hôm, việc buôn bán ở các chợ này diễn ra tương đối sầm uất. Nhiều thương lái từ Đức Thọ dọc sông Ngàn Sâu lên đưa mắm, muối, vải, lương thực thực phẩm lên chợ để bán hoặc trao đổi các sản vật của địa phương như cọ, cau, mật ong, cây dược liệu... Một đặc điểm tương đối rõ nét của Hương Khê là hầu hết các chợ cổ đều có đặc điểm nằm sát ngay hai bờ sông Ngàn Sâu, hay nói cách khác bám hai bên sông Ngàn Sâu mà tụ họp. Một số chợ vốn là chợ lớn, nay tuy vẫn được duy trì nhưng quy mô hàng hóa cũng như số người họp chợ đã thu hẹp đáng kể do giao thông đường thủy đã mất đi vai trò lịch sử của nó. Các chợ ở Hương Khê suốt mấy chục năm nay đều họp phiên theo ngày âm, năm ngày một phiên theo ngày chẵn hoặc mười ngày một phiên theo ngày lẻ.
Có thể kể đến một số chợ lớn như:
Chợ Đồn, xã Phúc Trạch, có từ trước năm 1945, chợ này có vị trí  nằm ở phía trước đồn Phúc Trạch nên gọi là chợ Đồn.
Chợ Un (nay là chợ Sơn - Thị trấn), ban đầu, chợ Un nằm trên cánh đồng Un thuộc xã Lộc Yên. Thời Pháp thuộc chợ chuyển ra họp ở xã Gia Phố. Trước đây, Chợ Un cứ 5 ngày là một phiên xuôi và 5 ngày là một phiên ngược. Dân buôn thuyền từ Vinh, Nam Đàn, Đức Thọ, Hương Sơn, Can Lộc, Quảng Bình theo dòng Ngàn Sâu đưa về đây các loại hàng hóa thuỷ hải sản, vải vóc, nồi đất… và mua về lâm thổ sản như củ nâu, mây, song, dược liệu, cau, chè, cam bưởi… Hiện nay, chợ Sơn trở thành chợ chính, trung tâm buôn bán của huyện Hương Khê.
Trước năm 1945, xã Hương Thủy có: chợ Sòng, chợ Đò, chợ Hôm. Các chợ này chủ yếu nằm dọc hai bên sông Ngàn Sâu, nơi có các chuyến đò ngang đò dọc. Qua nhiều lần di dời, hiện nay xã còn 2 chợ: chợ Sòng và chợ Đò (mỗi tháng họp 5 phiên).
- Chợ Gia (xã Phú Gia) là chợ vùng biên giới, được hình thành từ lâu, là nơi buôn bán, trao đổi của nhân dân trong vùng và của cả người Lào. Sản phẩm được buôn bán ở chợ rất phong phú, nhưng chủ yếu là những sản vật của rừng, năm 2016 chợ mới được nâng cấp.
-  Chợ Vang (xã Phương Điền), chợ này có từ trước năm 1930. Trước đây, chợ phục vụ chủ yếu nhân dân thuộc bến tàu hỏa ga Thanh Luyện, khu vực sông từ sông Lam ngược sông Ngàn Sâu. Hiện nay, chợ chủ yếu phục vụ cho nhân dân Phương Điền và nhân dân dọc trục đường Hồ Chí Minh. Chợ họp vào các ngày lẻ (âm lịch) trong tháng.
- Chợ Hương Trà (xã Hương Trà) mới được xây dựng theo chương trình dự án CBRIP năm 2007 với diện tích khuôn viên là 2.000 m2 (trong đó: đình chính diện tích là 205 m2, 2 dãy 8 ki ốt diện tích 80 m2). Những ngày họp chợ, xe cộ tấp nập, đông đúc, nhộn nhịp, các mặt hàng được bày bán phong phú và đa dạng. Cùng với địa thế thuận lợi sự phát triển của chợ chính là điều kiện để Hương Trà phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các xã trong huyện. 
- Chợ Lũy (ở vùng Mỹ Khê), chợ Hôm nằm  gần bờ sông Ngàn Sâu (Phương Trạch) được hình thành từ thế kỷ XVIII, đây là trung tâm trao đổi của nhân dân trong vùng. Mỗi tháng họp 15 phiên, nhân dân các xã lân cận như xã Phương Điền, Hà Linh và cả ở vùng Đức Thọ cũng đến để mua bán, trao đổi hàng hóa.
-  Chợ Trúc (xóm 1 xã Hà Linh) khá nổi tiếng trong huyện, trước kia chợ thuộc làng Trúc Lâm. Từ trước, Trúc là một thị tứ khá tấp nập, có cửa hàng mậu dịch, cửa hàng lương thực, trạm thu mua lâm sản, bưu điện, bến đò, bệnh viện… Bởi vậy, chợ được hình thành khá sớm từ thời Pháp thuộc. Hàng tháng chợ họp 15 phiên vào các ngày chẵn. Hàng hóa chủ yếu là các loại nông sản. Đến nay, hoạt động buôn bán ở chợ Trúc vẫn được duy trì và phát triển; Chợ Trạm thành lập muộn hơn chợ Trúc, được xây dựng trên phần đất gần trạm y tế (trung tâm xã), nay thuộc xóm 8. Mỗi tháng chợ họp 15 phiên theo ngày lẻ. Người dân trong xã và các xã lân cận (như Phương Điền, Phương Mỹ, Phức Đồng) đưa các nông sản về đây trao đổi buôn bán. Đến nay, chợ được xây dựng lại trên diện tích 1.760 m2,, gồm 6 ki ốt và 10 gian hàng chợ Trạm rất phát triển và trở thành đầu mối của bà con trong xã.
- Chợ Sòng là chợ chung của xã Hương Giang và Hương Thủy, sau hòa bình (1975), chợ được chuyển về địa phận xã Hương Thủy. Ngày nay có chợ Cây Trôi, sỡ dĩ có tên gọi là chợ Cây Trôi là vì ngày trước có Cây Trôi to lớn ở vị trí này, người dân thường buôn bán các loại thực phẩm thường dùng hàng ngày ở đây, sau đó cây trôi bị chết, khu vực họp chợ này vẫn gọi là chợ Cây Trôi. Quy mô nhỏ, các mặt hàng trao đổi chủ yếu là thực phẩm và vật dụng hàng ngày như: thịt, cá, quần, áo… Ngoài chợ phiên ra, còn có các quán tạp hóa nhỏ lẻ, phục vụ nhu cầu mua bán hàng ngày người dân.
Ngày nay, các hoạt động dịch vụ thương mại có những bước phát triển lớn, đó là sự ra đời của các doanh nghiệp lớn trên đất Hương Khê. Sự xuất hiện của các ngành nghề mới như khai thác cát, đá, sỏi, sản xuất vật liệu xây dựng gạch, vôi, mộc dân dụng, gò hàn sắt thép...  và các loại hình dịch vụ như vận tải tư nhân, cửa hàng, cửa hiệu sửa chữa điện máy, đại lý đồ điện, vải, quần áo, các trung tâm mua sắm. Năm 2016, Hương Khê có trên hơn  3.000 hộ kinh doanh cá thể, 324 doanh nghiệp, trong đó có 15 doanh nghiệp hoạt động có quy mô sản xuất khá lớn với doanh thu mỗi năm trên 30 tỷ đồng như: Công ty TNHH-TM Hoàng Anh, Đức Tài, Hoàng Ngọc, Hoàng Sơn Hải, Phương Ngân, Doanh nghiệp tư nhân Quỳnh Nga. Nhiều trang trại kinh tế tổng hợp chăn nuôi kết hợp trồng trọt đã được đầu tư xây dựng, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân.
Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng thương mại - dịch vụ hàng năm đạt trên 15%, năm 2015 đạt 20,2%; năm 2016, tốc độ tăng trưởng toàn ngành đạt 9,1%;  tổng mức bản lẻ hàng hóa, dịch vụ tăng bình quân trên 20%/năm. (so sánh năm 2015 với 2010; 2016 với 2015);

II. DỊCH VỤ
Trong nhiều năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa,  các loại hình thương mại, dịch vụ ở Hương Khê phát triển khá đa dạng, từ dịch vụ vận tải; dịch vụ bưu chính viễn thông đến dịch vụ tài chính tín dụng; dịch vụ lưu trú, nhà hàng ăn uống, giải trí... đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Bên cạnh hệ thống dịch vụ do Nhà nước đảm nhiệm như dịch vụ tín dụng, dịch vụ bưu chính viễn thông thì phần lớn các hoạt động thương mại dịch vụ khác đều do tư nhân đảm nhận.
Trước đây, hoạt động tài chính được thông qua hệ thống hợp tác xã tín dụng cấp xã và cấp huyện. Sau khi hệ thống hợp tác xã tín dụng giải thể, các hoạt động này do hệ thống ngân hàng Nhà nước như Ngân hàng Chính Sách, Ngân hàng Đầu tư và phát triển nông thôn, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng ngoại thương, Quỹ Tín dụng nhân dân đảm nhận. Ngoài ra huyện còn thu hút được một số lượng vốn nước ngoài thông qua thực hiện các dự án:135, chương trình NTM, 30A, 30B, DANIDA HUBITAS …Với tổng số vốn hàng trăm tỷ đồng. Các dịch vụ vay vốn đã có tác dung tích cực trong phát triển cây trồng vật nuôi và các ngành nghề khác ở Hương Khê, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập. Tuy nhiên vốn vay còn hạn chế, chủ yếu là vốn vay ngắn hạn nên không phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh nhất là đối với các hộ trang trại, hộ trồng cây công nghiệp, khoanh nuôi bảo vệ rừng.
 Dịch vụ kĩ thuật là lĩnh vực có xu hướng phát triển khá mạnh ở Hương Khê. Trong đó nổi lên là dịch vụ cung cấp giống cây ăn quả: bưởi, cam; cây công nghiệp: chè, cao su, gió trầm…, dịch vụ kĩ thuật chăn nuôi: lợn, gia cầm… cho các hộ gia đình. Phần lớn các hoạt động này do tư nhân đảm nhận nên chất lượng chưa cao.
Vị trí địa lý thuận lợi, hệ sinh thái phong phú và hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh, Hương Khê có điều kiện kết nối với các huyện Vũ Quang (vườn Quốc gia Vũ Quang), Hương Sơn (cửa khẩu quốc tế Cầu treo), Can Lộc (khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc), thành Phố Hà Tĩnh, khu công Nghiệp Vũng Áng, khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng, khu kinh tế cửa khẩu Cha Lo (Minh Hóa - Quảng Bình) và nước bạn Lào để phát triển loại hình dịch vụ du lịch sinh thái.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện Hương Khê có nhiều di tích lịch sử như: địa danh Sơn Phòng - Hàm Nghi (xã Phú Gia), Đền Trầm Lâm và Đền Đức Đại Vương ngàn Trụ (xã Phú Gia), Rôộc Cồn (xã Phú Phong); Chùa Vĩnh Đại và đền thờ Trần Phúc Hoàn tại xã Hương Vĩnh; 16 di tích đã được Nhà nước xếp hạng (5 di tích cấp quốc gia, 11 di tích cấp tỉnh). Di tích Sở Chỉ Huy tiền phương Tổng Cục Hậu cần, Đoàn 500 và Đoàn 59 (xã Hương Đô), Khu chứng tích chiến tranh Hương Phúc (xã Hương Trạch)... là tiềm năng để huyện phát triển các hoạt động du lịch tâm linh và du lịch văn hóa - lịch sử trong tương lai. Tuy nhiên, đến nay ngành du lịch và dịch vụ du lịch ở Hương Khê vẫn đang là tiềm năng, chưa được khai thác mạnh.
Giá  trị sản xuất dịch vụ GTVT huyện Hương Khê1
Đơn vị : triệu đồng
Năm
2000
2005
2010
2015
Tổng
6.082
13.384
14.576

Vận tải hàng hoá
4.912
10.854
9.900

Vận tải hành khách
1.170
2.530
9.510


Ngoài các loại hình dịch vụ cơ bản trên, Hương Khê còn có loại hình dịch vụ nhà hàng, khách sạn, dịch vụ ăn uống… Với hơn 70 cơ sở kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà hàng, phân bố tập trung ở khu vực thị trấn và các xã dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh . Tuy nhiên, loại hình dịch vụ này chưa phát triển, phần lớn chỉ tập trung ở khu vực trung tâm Thị trấn Hương Khê.
Thương mại, dịch vụ đóng vai trò quan trọng để chuyển nền nông nghiệp sản xuất tự túc, sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Hiện nay, tỷ trọng thương mại dịch vụ ở Hương Khê còn khiêm tốn, chiếm 12,1% GDP của huyện (2000), đến năm 2005 chiếm 16,1%, năm 2016 chiếm 20,2% GDP huyện.







Chương 6
GIAO THÔNG VẬN TẢI - ĐIỆN - BƯU ĐIỆN

I. GIAO THÔNG VẬN TẢI
Đầu thế kỷ XIX, Hương Khê vẫn còn là một vùng đất khá hoang sơ, đường sá, giao thông chưa được mở mang, phát triển nhiều. Từ trung tâm huyện lỵ, nối liền với hệ thống đường đi các ngả chỉ có loại đường bộ “rộng hai thước ta” (lối mòn, khoảng 0,80 m) đi về các ngả: một đi về hướng Đông, qua Truông Bát đến Hà Tĩnh dài 50 dặm; một đi về phía Tây, qua Phú Gia đến Trà Lũ giáp Lào dài 200 dặm; một đi Lộc Yên lên thôn Bái Đức giáp Thanh Lãng dài 80 dặm; một từ huyện lỵ ra Bắc đến Hòa Duyệt, Lâm Thao dài 60 dặm1. Các con đường liên hương, liên thôn phần lớn do đi nhiều mà nên. Về đường sông cũng chỉ có một ít thuyền buồm của các huyện miền xuôi đi lại chở hàng hóa, đa phần là chuyến đò ngang, đò dọc phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân.
Chuyển biến lớn, sâu sắc trong hệ thống đường giao thông ở Hương Khê là vào cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX, tuyến đường sắt Bắc - Nam qua địa phận của Hương Khê được hoàn thành. Sự ra đời của đường sắt với những ga tàu hỏa trên đất Hương Khê (Hòa Duyệt, Thanh Luyện, Chu Lễ, Gia Phổ, Phúc Trạch, Tân Ấp) đã làm thay đổi căn bản hệ thống giao thông vận tải nơi đây. Từ một vùng xa xôi hẻo lánh, “mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”, Hương Khê được thông thương, nối liền với mọi miền của tổ quốc. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng tuyến đường sắt dọc qua huyện đã kéo theo sự hình thành và nâng cấp các tuyến đường bộ, hình thành các nhà ga, các điểm dừng tàu, khai thông đường sông trên đất Hương Khê. Tuy nhiên, hệ thống giao thông Hương Khê phát triển mạnh nhất trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ. Cùng với các lực lượng bộ đội, dân quân huyện Hương Khê đã làm được 4.987 km đường giao thông các loại trong toàn huyện, như 22 km đường cơ động từ Đức Hương lên Đức Thọ, đường Đức Bồng lên Hương Minh, Can Lộc qua Truông Bát lên Hà Linh, nhiều tuyến đường giao liên vào Tuyên Hóa, (Quảng Bình), đường 15B tránh Hương Thủy, Gia Phố... nối liền và rút ngắn mội khoảng cách giữa Hương Khê với thế giới bên ngoài. Trong đó, quan trọng bậc nhất phải kể đến con đường Trường Sơn, nay là Đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường này là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược, chạy từ Bắc vào Nam đi qua miền Trung Việt Nam, Hạ Lào và Căm Pu chia. Hệ thống này cung cấp binh lực, lương thực, vũ khí, khí tài cho quân dân Miền Nam kháng chiến chống Mỹ xâm lược trong 16 năm (1959 - 1975). Từ miền Trung vào, Đường mòn Hồ Chí Minh đi qua 20 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Gia Lại, Kon Tum, Đắc Lắc, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương, Kiên Giang.
 Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, đường Trường Sơn chính là con đường cứu nước của nhân dân ta. Trong thời kỳ đổi mới, đường mòn Hồ Chí Minh trở thành con đường xóa đói giảm nghèo của nhân dân các huyện miền núi, trong đó có Hương Khê. Vì thế, ngày 1/12/2013 Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh với 34 di tích tại 11 tỉnh. Huyện Hương Khê tự hào đóng góp một trong hai di tích của tỉnh Hà Tĩnh được công nhận đó là Sở chỉ huy Sư đoàn 559 tại xã Hương Đô (Hương Khê) là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Như vậy, Hương Khê  đã có một hệ thống giao thông khá đầy đủ, có cả đường bộ, đường sắt, đường thủy. Có 3 tuyến đường Quốc lộ chính là đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc -  Nam và đường Quốc lộ 15A tạo cho huyện thuận lợi để liên kết vùng, nối Hương Khê với hai miền Nam - Bắc cũng như các vùng kinh tế khác trong tỉnh. Với những lợi thế đó, Hương Khê được Chính phủ quy hoạch nằm trong vùng phát triển Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình. Khu vực tập trung công nghiệp khai khoáng, công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng, dịch vụ thương mại, du lịch. Đồng thời, chú trọng phát triển kinh tế nông lâm theo hướng hiệu quả bền vững gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
Giai đoạn 2010 - 2015, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, được sự giúp đỡ của Trung ương và tỉnh, Hương Khê đã tập trung huy động các nguồn lực phát triển hệ thống giao thông. Tiếp tục bê tông hóa được 879 km đường giao thông (do xã quản lý), và 200 km kênh mương nội đồng. Hiện nay, huyện đã có một hệ thống giao thông nội huỵên tương đối tốt, được cứng hóa đạt tiêu chuẩn. Các tuyến đường liên thôn, liên xóm đều được bê tông hóa, đổ nhựa hoặc hoặc rải đá cấp phối. Góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân, đáp ứng yêu cầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong huyện.
Về đường bộ có:
- Quốc Lộ: Đường Hồ Chí Minh, điểm đầu tại Nhà thờ Nam Trung (giáp xã Hương Thọ, huyện Vũ Quang), điểm cuối tại La Khê (Quảng Bình) có tổng chiều dài là 41 km, được rải nhựa ong vào cuối năm 2002. Đây là một con đường lớn mà vai trò kinh tế - xã hội của nó thật vô cùng. Là con đường lịch sử trong chiến tranh và con đường xóa đói giảm nghèo của nhân dân các huyện miền núi, trong đó có Hương Khê.
Đường 15A, đoạn 1, chạy từ Đỉnh Đông Bụt (giáp Can Lộc) đến Ngã ba Phúc Đồng, giao với đường Hồ Chí Minh dài 12 km là trục đường nối thành phố Hà Tĩnh với huyện Hương Khê; Đoạn 2, chạy qua thị Trấn Hương Khê đến tận La Khê (Quảng Bình) có chiều dài 34km. Đây là tuyến đi song song, có nhiều đoạn rất gần đường Hồ Chí Minh, nối trung tâm huyện.
Tỉnh lộ 17, dài 55km, chạy từ xã Lộc Yên (giáp huyện Cẩm Xuyên) đến UBND xã Hương Liên. Đến năm 2020, Tỉnh lộ 17 sẽ là trục giao thông chính nối khu kinh tế Vũng Ánh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Thành phố Hà Tĩnh với huyện Hương Khê và đi lên mốc N9. Sau khi Chính phủ cho phép mở cửa khẩu quốc tế tại mốc N9, Tỉnh lộ 17 sẽ đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của cả tỉnh Hà Tĩnh. Ngoài ra nó còn có tác dụng là đường tránh lũ, đảm bảo giao thông thông suốt khi đường 15A bị ngập lụt, đồng thời là tuyến đường nâng cao năng lực đường HCM.   Các tuyến huyện lộ có: huyện lộ 15, huyện lộ 18.
Đường huyện 1: là đường huyện 16 hiện tại, dài 12km, đoạn đầu từ Ngã ba Hương Long (giao đường Hồ Chí Minh) đến Ngã ba chợ Nổ (giao Huyện lộ 18). Tuyến đường này đi qua trung tâm các xã Hương Long, Hương Bình, Hòa Hải, nối các xã này với đường Hồ Chí Minh và trung tâm huyện. 
Đường huyện 2: là trục đường liên xã 21 hiện tại. Đây là tuyến đường liên kết các xã Hà Linh, Hương Giang, Hương Thủy, Lộc Yên, Hương Đô, Phúc Trạch với đường 15A, có tác dụng phát triển kinh tế khu vực phía Tây dãy Trà Sơn - một trong những khu vực ưu tiên phát triển của huyện.
Đường huyện 3: là đường liên xã 1 hiện tại. Đây là tuyến đường duy nhất liên kết trung tâm các xã Phương Mỹ, Phương Điền với đường Hồ Chí Minh.
Đường huyện 4: là đường liên xã 15 hiện nay. Đây là trục đường ngắn nhất nối trung tâm xã Hương Liên với đường Hồ Chí Minh và xã Phúc Trạch.
Đường huyện 5: là đường liên xã 24 hiện tại. Đây là tuyến đường trục chính nối trung tâm các xã nghèo là Hương Lâm, Hương Liên với Quốc lộ 17 trong tương lai, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế cho khu vực 2 xã này.
Đường huyện 6: là đường Tỉnh lộ 15 hiện tại - tuyến đường chạy qua ba xã Hương Thủy, Hương Giang, Hương Phố và là trục duy nhất đóng vai trò quan trọng để nối các xã Hương Thủy, Hương Giang với đường 15A, đường Hồ Chí Minh và khu vực trung tâm thị trấn huyện.
Đường huyện 7: là tuyến trục chính xã Hương Giang. Đây là trục đường duy nhất hiện nay liên kết xã Hương Giang với thị trấn Huyện.
Đường huyện 8: là đường liên xã 7 hiện tại. Đây là trục đường chính nối trung tâm các xã Hương Vĩnh, Phú Gia với đường Hồ Chí Minh và trung tâm huyện.
Đường huyện 9: là tuyến đường nối trung tâm các xã Hương Long, Hương Vĩnh, Phú Gia với bản Giàng và Đồn biên phòng 575. Đây cũng là tuyến đường ngắn nhất nối trung tâm huyện với trung tâm các xã Phú Gia, Hương Vĩnh. Tuyến đường góp phần củng cố An ninh - Quốc phòng, tạo cơ sở cho việc phát triển kinh tế khu vực biên giới giữa hai Việt Nam và Lào.
Đường huyện 10: là đường liên xã 10 hiện tại. Đây là trục đường chính duy nhất liên kết trung tâm xã Hương Xuân với đường Hồ Chí Minh và trung tâm huyện, đi qua địa bàn các xã Phú Phong, Hương Xuân.
Đường huyện 11: là đường huyện 18 hiện tại, đi qua các xã Hà Linh, Phúc Đồng, Hòa Hải kết nối với đường Hồ Chí Minh, đường 15A - đoạn 1 (Động Bụt - Phúc Đồng) với trung tâm các xã Hòa Hải - Hà Linh. Tuyến đường này nhằm mục đích phát triển giao lưu kinh tế khu vực ba xã, đảm bảo an ninh - quốc phòng khu vực biên giới Việt  - Lào.
Đường huyện 12: là tuyến đường nối đường 15A và 2 xã Hương Đô - Phúc Trạch, đi qua trung tâm xã Phúc Trạch
Đường liên huyện 13: là tuyến đường liên xã 14 hiện tại. Đây là trục đường ngắn nhất hiện nay liên kết trung tâm xã Gia Phố với trung tâm thị trấn huyện.
Đường huyện 14: là tuyến đường liên xã 18 hiện tại. Đây là trục đường nối trung tâm huyện với trung tâm xã Lộc Yên
Về đường liên xã, hiện nay, huyện Hương Khê có tất cả 24 tuyến đường liên xã với tổng chiều dài 207,60 km nối các xã với nhau, cơ bản từ sau khi thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, các tuyến đường đều đã được kiên cố hóa bằng bê tông, sạch đẹp, thuận tiện cho nhân dân phát triển sản xuất đi lại. 
Hệ thống đường biên giới: Hương Khê có 60 km đường biên giới giáp với nước bạn Lào, địa hình vùng biên hết sức hiểm trở. Do đó, để đẩy mạnh tiềm lực kinh tế - quốc phòng cho khu vực biên giới, Nhà nước và Bộ Quốc phòng đã cho xây dựng ở đây một hệ thống các đường vùng biên giới, là tuyến đường liên tục chạy dọc theo biên giới, cách biên giới một khoảng cách hợp lý (khoảng 15km) để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng khu vực biên giới.
Ngoài ra, huyện có 436 km đường bộ cơ giới qua lại được; 270 km đường lâm nghiệp và 700 km đường đất dành cho xe cải tiến giao lưu trong nội bộ. Toàn huyện có 7 cây cầu treo do nhân dân tự làm có sự hỗ trợ của Nhà nước: Hói Đôi, Hói Trung, Hói Trí, Phúc Đồng, Lộc Yên, Hương Giang, Gia Phố.

Hiện trạng đường huyện, xã quản lý năm 2016
Loại đường
Tổng chiều dài (km)
Nhựa hóa (km)
Bê tông hóa (km)
Đường cấp phối (km)
Đường đất (km)
Đường huyện lộ
167,5
94,0
50,0
4,0
19,5
Đường trục xã, liên xã
374,79
85,53
240,03
8,0
41,23
Đường trục thôn xóm, ngõ xóm, nội đồng
1.270,52
20,58
990,52
72,3
187,14
Tổng cộng
1.812,81
200,11
1.280,55
84,30
247,87

Về đường sắt có: Đoạn đường sắt Vinh - Đông Hà trên tuyến đường sắt xuyên Việt có chiều dài hơn 299 km, được khởi công từ năm 1922. Tuy nhiên, đoạn chạy qua huyện Hương Khê được làm chính xác vào năm nào thì hiện vẫn chưa sưu tầm được, chắc vào khoảng hai năm 1925 - 1926 vì đến tháng 1/1927 đã làm được 89km thì đến ga Tân Ấp, giáp giới giữa Hương Khê và Quảng Bình. Tuyến đường sắt Hương Khê có chiều dài 48,75 km với 6 điểm ga: Phương Mộ (Phương Mỹ), Thanh Luyện (Phương Điền); Chu Lễ (Hương Thủy); ga trung tâm Hương Phố (TT.Hương Khê); Phúc Trạch (xã Phúc Trạch), La Khê (Hương Trạch)1. Trong số đó, ga Hương Phố (nay thuộc thị trấn Hương Khê) là ga lớn của huyện Hương Khê và tỉnh Hà Tĩnh, tất cả các loại tàu đều dừng ở ga Hương Phố, đây còn là ga vận chuyển nhiều hàng hóa nhất của huyện. Các mặt hàng vận chuyển qua ga chủ yếu là gỗ, đi khắp các tỉnh thành ra Bắc vào Nam, sang cả Lào, Trung Quốc. Sau gỗ là các loại hoa quả như bưởi, cam được vận chuyển qua đường sắt nhiều, chủ yếu là chuyển ra các tỉnh phía bắc như Nghệ An; Thanh Hóa; Hà Nội...
Về đường thủy: Hệ thống sông ngòi trong địa bàn huyện Hương Khê gồm có các sông Ngàn Sâu, sông Tiêm, sông Rào Nổ, sông Hào. Trước kia, khi hệ thống giao thông đường bộ chưa phát triển thì sông Ngàn Sâu chính là tuyến giao thông quan trọng, thiết yếu của Hương Khê với thế giới bên ngoài. Con sông này chạy dọc giữa huyện với chiều dài hơn 112 km, chạy qua 13 xã: Hương Lâm, Hương Liên, Phúc Trạch, Hương Đô, Lộc Yên, Gia Phố, Hương Thủy, Hương Giang, Phương Mỹ, Hương Điền; Hà Linh, Hương Thọ.
Từ sông Ngàn Sâu có các phụ lưu:
- Sông Tiêm, bắt nguồn từ dãy núi Giăng Màn, chảy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, chạy qua các địa bàn 5 xã: Hương Vĩnh, Phú Gia, Hương Xuân, Phú Phong, Gia Phố rồi nhập vào sông Ngàn Sâu tại xóm 10 xã Gia Phố. Sông có chiều dài 39 km, diện tích lưu vực là 209 km2, độ dốc trung bình 10,4%, mật độ sông suối 1,28km/ km2. Lòng sông hẹp, độ uốn khúc lớn, thường gây ra lũ lụt hai bờ sông.
- Sông Rào Nổ, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn và chảy qua địa phận 3 xã  Hòa Hải, Phúc Đồng, Hương Điền. Sông có chiều dài 29km, diện tích lưu vực đạt 204 km2.
- Sông Ngàn Tươi dài khoảng 50km, chạy qua các xã: Vũ Quang, Hương Điền, Hương Đại, Hương Minh, Hương Thọ (các xã này sau cắt về huyện Vũ Quang).
- Phía tả ngạn có Rào Rồng dài 20 km, có thác Chù Đôộng tráng điệu, rào Tre dài 20km, hói Lo dài 15km. Có Xói Hàn, Đá Bàn và nhiều khe lớn có khả năng làm được thủy điện từ 15 đến 25kW.
Hiện nay, Hương Khê có hàng trăm xe vận tải thường xuyên hoạt động. Trong đó, xe trọng tải trên 10 tấn là 38 chiếc, xe trọng tải từ 5 đến 10 tấn là 86 chiếc, xe trọng tải dưới 5 tấn là 39 chiếc cùng hàng trăm xe công nông loại vừa và nhỏ. Có thể nói, khả năng vận tải của xe cơ giới trên địa bàn huyện là khá lớn. Đó là chưa kể sức chuyên chở của tàu hàng tàu chợ qua các ga trên địa bàn huyện. Theo số liệu thống kê của phòng thống kê huyện Hương Khê thì số lượng vận tải hàng hoá của xe cơ giới hiện nay là 4.120.700 tấn/năm, tăng 580.000 tấn so với năm 2000. Với vị trí địa lý thuận lợi và hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh, sức chuyên chở lớn, Hương Khê còn có điều kiện kết nối với các huyện Vũ Quang (vườn Quốc gia Vũ Quang), Hương Sơn (cửa khẩu quốc tế Cầu treo), Can Lộc (Khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc), Thành Phố Hà Tĩnh, Khu Công Nghiệp Vũng Áng, khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng, Khu kinh tế cửa khẩu Cha Lo (Minh Hóa - Quảng Bình) và nước bạn Lào.

II. ĐIỆN
Năm 1986, Hương Khê đã đưa được điện lưới Quốc gia về phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân. Đường điện đầu tiên đã được kéo từ Trạm 60KV (Thạch Linh - Thạch Hà) về vùng trung tâm huyện.
Năm 1989, huyện Hương Khê đóng trạm điện đầu tiên 35KV ở khu vực Thị trấn, chủ yếu phục vụ cho các trạm bơm điện và các cơ quan hành chính sự nghiệp của huyện. Năm 1994, Hương Khê có thêm 74km đường dây điện 35KV, 46km đường dây điện 10KV, 20 trạm hạ thế đưa điện về 15/27 xã phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân. Năm 2000, điện lưới Quốc gia đã về đến 25/27 xã, thị trấn của huyện, hơn 80% hộ dân được dùng điện lưới Quốc gia, tăng 10 xã so với năm 1996.
Năm 1999, Công ty Điện lực Hương Khê được thành lập, thực hiện nhiệm vụ kinh doanh bán điện trên địa bàn 22 xã, thị trấn thuộc huyện Hương Khê. Hệ thống lưới điện được giao quản lý gồm 01 trạm trung gian 35 kV/10 kV với công suất 8100 kVA; 327,13 km đường dây trung thế; 392 km đường dây hạ áp và 161 trạm phân phối các loại, với công suất đặt 24.295 kVA. Tận dụng các nguồn vốn của dự án, ngành Điện lực Hương Khê đã nỗ lực phấn đấu xây dựng phát triển lưới điện, quy mô lưới điện được mở rộng, vươn xa đến các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Đầu năm 2016, dự án đường dây và  trạm biến áp 110kV Hương Khê - Hà Tĩnh đã được khởi công xây dựng tại xã Gia Phố. Hơn một năm sau, ngày 31/5/2017, Trạm biến áp 110kV đã chính thức đóng điện, đi vào hoạt động. Công trình có tổng mức đầu tư 190,7 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn vay tín dụng thương mại, đầu tư xây mới tuyến đường dây 1 mạch có chiều dài 37,77 km, xây dựng mới TBA 110 kV nối từ Trạm 110 Thạch Linh về Hương Khê. Đây là trạm biến áp hiện đại nhất Hà Tĩnh, được xây dựng với phương thức không có người trực. Trạm sẽ giảm được lực lượng trực vận hành tại chỗ, và đặc biệt là giảm được thời gian mất điện. Công trình được đưa vào sử dụng đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định cho 22 xã thuộc huyện Hương Khê và 12 xã thuộc huyện Vũ Quang, với 38.837 hộ dân và các cơ quan, tổ chức đóng trên địa bàn; hỗ trợ cấp điện cho TP. Hà Tĩnh khi cần thiết. Đây là công trình lớn, góp phần thiết thực vào việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cũng như hiệu quả kinh tế của người dân nơi đây.

III. BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
Ngành Bưu điện Hương Khê được hình thành từ sau năm 1954, chủ yếu phục vụ nhu cầu liên lạc giữa cấp huyện với cơ sở. Những năm 1960 - 1965, đội ngũ công nhân bưu điện Hương Khê lên đến 22 - 29 người. Phương tiện phục vụ thông tin liên lạc đã có tổng đài 32 - 100 số bằng từ thạch, ma - nhê - tô liên lạc với cấp tỉnh qua đường dây hữu tuyến (dây trần), khi đó, toàn huyện mới có 12 - 19 máy điện thoại của cấp ủy Đảng, chính quyền UBND huyện, Huyện ủy, Công an, Huyện đội và một số cơ quan quan trọng.
Những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, phương tiện thông tin liên lạc của huyện có thêm bộ đàm vô tuyến điện 15-50W chỉ huy liên lạc bằng điện báo điện tín. Có đường tuyến bằng tải ba 1 kênh đến 12 kênh và đường dây hữu tuyến (dây trần hay dây bọc). Toàn huyện có 20 - 25 số máy điện thoại, chủ yếu phục vụ nhu cầu trao đổi thông tin các cơ quan Ủy ban nhân dân, huyện ủy công an, huyện đội, tòa án, viện kiểm sát và các cơ quan ban ngành trong huyện.
Từ năm 1986 đến năm 1996, Bưu điện Hương Khê đã được bưu điện tỉnh đầu tư trang thiết bị viba Aw RMD 1500 truyền dẫn nhiều kênh, xây dựng cột ăng ten cao 60 m để tiếp sóng chuyển tiếp từ cao điểm 337 Hồng Lĩnh. Về mảng ngoại vi được ngành bưu điện tỉnh đầu tư xây dựng mạng cáp chôn 3000m với tổng kinh phí 610.000.000đ và 5000 m cáp treo loại 50 x 2 và 30 x 2, đưa dung lượng cáp gốc lên 650 đôi và tổng đài lên 200 số.
Cùng với cả tỉnh, ngành bưu chính viễn thông của Hương Khê tăng tốc nhanh chóng. Bưu điện Hương Khê đã được trang bị tổng đài NEX 61 XS Nhật Bản 500 số hòa mạng Quốc gia. Từ đó phương tiện thông tin điện thoại đã được mọi người quan tâm sử dụng khá nhanh. Năm 1992, toàn huyện có 114 máy điện thoại cố định mạng Vinaphone, đến nay Hương Khê đã được phủ sóng mạng lưới điện thoại cố định, di động, mạng intenét không dây với đầy đủ các mạng Vinaphone; Mobie phone; Viettel. Mạng internet băng thông rộng đã được triển khai đến các xã, cơ quan, trường học trong huyện và được sử dụng phổ biến trong các tầng lớp dân cư Hương Khê. Các điểm trung tâm giao dịch bưu điện văn hóa được xây dựng ở 22 xã, thị trấn.
Về bưu chính: đường thư cấp 2 từ tỉnh về huyện đã đi bằng xe ô tô chuyên dùng mỗi ngày một chuyến. Đường thư cấp ba từ huyện về xã đã được trang bị xe máy 100%. Đến thời điểm năm 2000, bưu điện Hương Khê đã có 7 đường thư, cả 7 đường này đều đi bằng xe máy.
Hiện nay, ngành Bưu chính viễn thông Hương Khê được trang bị khá hiện đại và đồng bộ, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc đến các vùng trong nước và thế giới bằng các hình thức điện thoại, điện báo... một cách nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu trao đổi và truy cấp thông tin của nhân dân trong huyện.



1 Theo các nhà nghiên cứu, sách được vua Đồng Khánh ra sắc chỉ sai làm, bắt đầu từ khoảng tháng 5 năm 1887 và được hoàn thành trong khoảng thời gian từ đó cho đến mấy năm đầu đời Thành Thái.
1 Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2000), Sđd trang 21.
2 Mỗi mẫu có 10 sào, mỗi sào Trung Bộ có 15 thước, mỗi thước có 33m2, 2 mẫu Trung Bộ tương đương 1 ha.
3 Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê (1930 - 2000), Sđd trang 253 - 254.
2 Than không chỉ để dùng, để “hầm” (hong) khô các loại thổ sản như cau, sắn, như khoai… mà còn là một mặt hàng quan trọng để trao đổi, buôn bán với các vùng lân cận như Thạch Hà, Đức Thọ, Cẩm Xuyên.
1  Niên giám  thống kê huyện Hương Khê 2011- 2015



1 Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê, Sdd tr. 349 - 350.
1 Theo Báo cáo “Thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2016; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp năm 2017” của UBND huyện Hương Khê, tài liệu lưu tại VP UBND huyện.

1 Hòm tư liệu Quy Hợp là một tráp công văn của nhiều đời tổng binh Quy Hợp, tài liệu này được Trần Văn Quý phát hiện tại nhà thờ cụ Trần Thúc Hoàn vào tháng 8 năm 1974.
1 Quy hoạch sử dụng đất UBND huyện Hương Khê giai đoạn 2015 - 2017.

2 Lâm trường Chúc A (Hương Khê) la một trong những Lâm trường ra đời sớm nhất ở Hà Tĩnh. Lâm trường có cơ sở đóng trên địa bàn xã Hương Lâm (Hương Khê). Nhiệm vụ chính là khai thác gỗ lớn. Hàng năm, lâm trường khai thác từ 20 đến 25 ngàn m3 gỗ, tu bổ 1.600 ha rừng trồng và chăm sóc 250 ha rừng. Ngày 11/9/2005, theo Quyết định Số: 294/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Lâm trường Chúc A thành Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp và Dịch vụ Chúc A. Sau khi chuyển đổi, Công ty thực hiện nhiệm vụ cung ứng sản xuất sản phẩm công ích. Sản xuất kinh doanh Nông - lâm nghiệp, bảo vệ rừng. Trong đó, nhiệm vụ bảo vệ rừng là chủ yếu. Hiện tại, lâm phận quản lý của công ty là 15.118 ha, chủ yếu là rừng phòng hộ.

1 Hạt Kiểm lâm Hương Khê “Báo cáo Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Hương Khê giai đoạn 2009 - 2020”.
1 Niên giám thống kê huyện Hương Khê, 2011 - 2015.
1 Niên giám thống kê huyện Hương Khê. 2011 -  2015.
1 Trích: số liệu tại phòng thống kê huyện Hương Khê

1  Hương Khê 135 năm 1867 - 2002”. Trang 302  - 303.
1 Báo cáo tổng hợp: Quy hoạch PTHTTL huyện HK đến năm 2020 & định hướng đến năm 2030.

Không có nhận xét nào: