Thứ Hai, 4 tháng 11, 2019

Địa chí Hương Khê. Phần thứ 5: Quốc phòng và an ninh


PHẦN THỨ NĂM
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH


Một vấn đề lớn được đặt ra trong nghiên cứu "Địa chí Hương Khê" về lĩnh vực quốc phòng, an ninh là vị trí địa chiến lược của huyện.
Để làm sáng tỏ vấn đề này cần phải xét các yếu tố cấu thành vị trí địa chiến lược của một vùng lãnh thổ, trong đó địa chính trị (bao gồm và chủ yếu là địa quân sự) là cốt lõi với việc xem xét 2 yếu tố chính là yếu tố tự nhiên (vị trí địa lý, đặc điểm địa hình, quy mô lãnh thổ) và yếu tố xã hội (quy mô dân số, đặc tính cộng đồng các dân tộc và nhận thức của chính quyền sở tại trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể) tác động tới chế độ chính trị và vị thế của nó đối với quốc gia. Mặt khác, các yếu tố địa kinh tế, hành chính và dân cư cũng là những yếu tố góp phần khẳng định thêm. Tức là khi đánh giá một vùng lãnh thổ có vị trí địa chiến lược hay không cần tập trung đánh giá 2 yếu tố chính nói trên. Từ góc độ quốc phòng, an ninh, ta thấy Hương Khê đã hội đủ điều kiện để trở thành huyện có vị trí địa chiến lược. Cụ thể:

Trong mục Đặc điểm tự nhiên, Phần thứ Nhất, Chương 1 đã cung cấp khá đầy đủ những tư liệu về vị trí (tọa độ, duyên cách) và điều kiện tự nhiên của Hương Khê. Nên trong phần này chỉ tóm tắt những đặc điểm nổi bật về vị trí và các đặc điểm tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình phát triển của công tác quốc phòng, an ninh trong suốt quá trình phát triển lịch sử của Hương Khê với 3 vấn đề cụ thể sau đây:
1.   Đặc điểm vị trí: Do duyên cách có phần phía Tây giáp Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình nên Hương Khê vừa là huyện địa đầu của tỉnh vừa là huyện biên giới, có Quy Hợp - cửa khẩu quan trọng được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử. Đây là yếu tố tạo cho huyện nét riêng biệt mà các triều đại phong kiến trước đây cũng như Đảng và Nhà nước ta từ ngày thành lập đến nay quan tâm. Với vị trí đặc biệt này, tính cơ động trong vận động chiến thuật, thậm chí cả chiến lược quân sự sẽ trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn rất nhiều. Những vấn đề cụ thể về vai trò của vị trí trong từng giai đoạn lịch sử sẽ có đánh giá thêm (xem phần Xét quá trình lịch sử trong II. Yếu tố xã hội).
2.   Đặc điểm địa hình: Trước và sau thành lập huyện Vũ Quang, đặc điểm địa hình liên quan đến công tác quốc phòng, an ninh của của Hương Khê không có sự thay đổi lớn: vẫn là huyện miền núi có địa hình rất phức tạp. Toàn bộ diện tích của huyện nằm gọn trong một thung lũng của dãy Giăng Màn (thuộc Trường Sơn) phía Tây và Trà Sơn phía Đông. Bao quanh huyện với diện tích chiếm đến 75% là các cụm đồi núi có độ chênh cao khác nhau; trong đó đáng chú ý là một số dãy núi ở đây có nhiều hang động, nơi có thể cất giấu quân lương, vũ khí và hàng hóa cũng như khả năng vận động tác chiến.
Ở Hương Khê có nhiều sông như: sông Ngàn Sâu, sông Tiêm, sông Rào Nổ. Sông Ngàn Sâu chảy dọc huyện có lưu vực là phần đất nằm trong thung lũng thuộc huyện Hương Khê, Vũ Quang và Đức Thọ với các sông, suối nhỏ và những bình nguyên đan xen, tạo thành mạng lưới giao thông thủy hết sức quan trọng trong cơ động tác chiến. Đó là chưa kể đến việc ứng dụng nước trên các khe suối để thực hiện các chiến thuật quân sự như chiến thuật "sa nang úng thủy" mà Phan Đình Phùng đã làm và giành thắng lợi to lớn tại trận Hói Trùng khiến quân Pháp và những tên bán nước khiếp sợ trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896).
3.   Đặc điểm diện tích: Đến trước tháng 8.2000, khi chưa thành lập huyện Vũ Quang, Hương Khê là huyện miền núi có diện tích khoảng 1.850,50km2 - lớn nhất tỉnh Hà Tĩnh và cũng là một trong những huyện lớn nhất nước. Từ tháng 8/2000 đến 2016, sau khi tách 5 xã thuộc vùng hạ huyện để thành lập huyện mới Vũ Quang, Hương Khê vẫn là huyện có diện tích lớn nhất tỉnh. Diện tích lớn là lợi thế để đảm bảo sản xuất cung cấp lương thực, thực phẩm tại chỗ - một yếu tố hết sức quan trong trong công tác quân sự. Tuy nhiên, việc thành lập huyện mới Vũ Quang đã làm cho tiềm năng đất đai, nguồn nước, dân số và lao động của huyện giảm đáng kể, ảnh hưởng một phần đến nguồn lực tại chỗ về mọi mặt trong đó có cả chiến thuật quân sự và công tác an ninh.
4.   Đặc điểm rừng núi: Có 2 đặc điểm nổi bật của rừng núi Hương Khê liên quan trực tiếp đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đó là:
Chiếm phần lớn diện tích của huyện: Theo số liệu thống kê trung bình về các loại diện tích đất ở Hương Khê thì diện tích đồi núi chiếm đến 75% diện tích tự nhiên của huyện. Trước năm 19601, toàn bộ diện tích đồi núi của Hương Khê là rừng nguyên sinh, có thảm thực vật hết sức đa dạng, trong đó đá và các loại cây làm vật liệu xây dựng nhà và các công trình như gỗ, các loại, tre, soong mây hết sức phong phú; có nhiều loại động vật có thể săn bắt làm thực phẩm. Ở các xã Hương Phú, Hương Long có một khu rừng đặc biệt gọi là Trầm Lâm (rừng ngập nước), tương đối bằng phẳng, có một số đồi thấp. Nhìn từ góc độ quân sự, rừng rậm có tác dụng to lớn trong việc xây dựng căn cứ, ngụy trang, vận động chiến thuật trong tác chiến cũng như trong công tác bảo vệ an ninh. Đó là lợi thế mà rừng núi Hương Khê đã góp phần quan trọng trong lĩnh vực quân sự trong suốt quá trình phát triển của lịch sử.
Ngày nay, mặc dù rừng đã bị khai thác cạn kiệt nhưng trước những tác dụng của rừng, những biện pháp khắc phục của Chính phủ đang tạo điều kiện để khôi phục lại rừng. Cũng theo số liệu thống kê, cho đến nay, trong số 75% diện tích đồi núi, diện tích có rừng chiếm trên 80%, còn lại là diện tích đồi trọc: chiếm khoảng 20%2. Đó là thắng lợi trong việc khôi phục lại rừng và tiếp tục khôi phục tiềm năng quân sự của rừng.
Có nhiều dãy núi cao và hang động: Giăng Màn là một trong những dãy núi dài nhất, lớn nhất của dãy Trường Sơn bao bọc huyện Hương Khê về phía Tây như một bức tường thành và cũng là một đoạn biên giới giữa Việt Nam và Lào. Trên đó có núi Phú Lễ nằm cạnh sông Ngàn Sâu tương truyền là nơi chứa quân lương mà nhân dân Hương Khê đóng góp ủng hộ nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi cầm đầu trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược (Thế kỷ XV) và núi Thống Lĩnh (thuộc xã Hương Trạch) gồm 9 đỉnh nằm ở phía Nam huyện, giáp với tỉnh Quảng Bình là những vị trí tiền tiêu trong lịch sử của cuộc trường kỳ chống xâm lược của các thế hệ đi trước. Một số ngọn núi có nhiều hang động có sức chứa lớn, trở thành nơi cất giấu quân lương như lèn Phú Lễ. Dãy Trà Sơn phía Đông huyện cũng có nhiều ngọn núi tuy không cao nhưng cũng là những vị trí có tầm quan trọng trong chiến thuật tác chiến quân sự.
Từ góc độ công tác quốc phòng, an ninh, có một diện tích lớn là một lợi thế để xây dựng căn cứ địa khởi nghĩa hoặc kháng chiến; một số núi cao có giá trị đặc biệt về mặt chiến thuật: tiện quan sát, chỉ huy trong quá trình tác chiến, dễ xây dựng trận địa và bố trí binh, hỏa lực; các hang động tự nhiên thuận tiện cho việc cất dấu quân - lương, vũ khí và các phương tiện, trang bị kỹ thuật. Đây là những điều kiện cơ bản để trong quá trình phát triển của lịch sử, vùng đất Hương Khê trở thành vùng địa chiến lược. Tuy nhiên, địa hình hết sức hiểm trở cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình cơ động lực lượng và phương tiện, giao thông liên lạc, nhất là vào mùa mưa lũ, tầm nhìn hạn chế khó phát huy được tác chiến cơ giới.

1.   Xét quá trình lịch sử: Trong Phần Hai: Lịch sử đã nêu khá đầy đủ các sự kiện diễn ra trên đất Hương Khê. Từ góc độ công tác quốc phòng, an ninh xin trích những sự kiện chính có liên quan:
Thời nhà Lý (1009 - 1225), Hoành Sơn còn là biên ải của Đại Cồ Việt (năm 1054, Lý Thánh Tông mới đổi Quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt) nên vùng đất Hương Khê ngày nay là vùng biên viễn và thường bị giặc Chiêm-la (Chiêm Thành), Ai-lao, Xiêm-la quấy phá. Lý Nhật Quang trị nhậm châu Nghệ An đã cho xây dựng nơi đây các đồn binh, ải đạo, tổ chức lực lượng tiêu diệt quân Chiêm Thành, Ai-lao, Xiêm-la, giữ yên bờ cõi. Sau khi ông mất, nhân dân Hương Khê đã xây đền thờ ông. 
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược do Lê Lợi cầm đầu, vùng đất Cổ Đỗ (Hương Sơn) và Thổ Hoàng (Hương Khê và Vũ Quang ngày nay) trở thành căn cứ Đỗ Gia - một vùng có diện tích rất lớn, địa hình hiểm trở, nhân dân luôn hưởng ứng, lại là nơi có nhiều danh tướng nên đã góp phần to lớn giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh, lập nên nhà Hậu Lê (1427 - 1789).
Dưới triều Tây Sơn (1771 - 1789), theo các nhà sử học, cuộc hành quân của Hoàng đế Quang Trung đánh tan 28 vạn quân Thanh chắc phải qua Thượng Đạo. Nên sau thắng lợi, Hoàng đế đã tập trung một lực lượng lớn binh lực ở Hương Khê, tập kích đánh tan quân xâm lược Xiêm-la xâm lấn. Sau khi ông mất, nhân dân đã xây đền thờ để tưởng nhớ công lao của ông. 
Từ năm 1885 - 1888, sau khi thất thủ trong cuộc tấn công tiêu diệt Tòa Khâm và đồn Mang Cá của Pháp, vua Hàm Nghi phải bỏ kinh thành Huế ra Sơn Phòng Tân Sở (Quảng Trị), rồi đến Hương Khê và cho xây Sơn Thành, tiếp tục ban Chiếu Cần Vương chống Pháp. Đây là quyết định đúng đắn của Đại thần Tôn Thất Thuyết - người giữ trọng trách Phụ Chính triều Nguyễn và các Đại thần trong phe chủ chiến hộ giá vua Hàm Nghi chạy ra Sơn Phòng bởi Hương Khê có những yếu tố đặc biệt về vị trí: có thể tiến thoái dễ dàng (thậm chí có thể sang Lào qua cửa khẩu Quy Hợp), có địa hình hiểm trở, phù hợp với vũ khí thô sơ và năng lực vận động tác chiến của binh sĩ lúc bấy giờ trước đội quân xâm lược có vũ khí hiện đại hơn hẵn. Trên cơ sở những toan tính đó, nên sau khi nhà vua bị bắt (1888), hưởng ứng Chiếu Cần Vương, Phan Đình Phùng - Thủ lĩnh của Cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã tiếp tục chọn nơi đây làm căn cứ khởi nghĩa, trong đó cho đóng Đại bản doanh thuộc 2 huyện Hương Khê và Vũ quang ngày nay. Và nhờ đó, mặc dù không cân sức nhưng Cuộc khởi nghĩa có tầm quy mô lớn nhất trong phong trào Cần Vương này tồn tại hơn 10 năm (1885 - 1896).
Trong những năm của cuộc kháng chiến chống pháp (1945 - 1954), Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ đã chọn Hương Khê làm An toàn Khu (ATK): nơi đặt Chỉ huy chiến dịch Bình - Trị - Thiên và là nơi sơ tán các lực lượng kháng chiến và đồng bào các tỉnh thuộc khu vực bị chiếm đóng Bình - Trị - Thiên để vừa trực tiếp chỉ huy, tiếp viện cho Chiến trương Bình - Trị - Thiên vừa đảm bảo an toàn cho cán bộ, nhân dân các vùng địch chiếm đóng và hỗ trợ cho Hà Tĩnh nói chung, Hương Khê nói riêng trong trường hợp Pháp có thể nống ra Hà Tĩnh.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), từ năm 1964 - 1971, xã Hương Đô là nơi đóng Sở Chỉ huy của các bộ tư lệnh quan trọng của Bộ Quốc phòng như Bộ Tư lệnh 559 - Cơ quan tiền phương, thành lập để tăng cường chỉ đạo tuyến Nam Quân khu IV và đảm bảo cung cấp hàng cho Tuyến 559. Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn đặt Sở Chỉ huy Tiền phương tại đây là chọn được yếu tố bất ngờ, trung tâm của nhiều đường giao thông dọc - ngang liên hoàn, là vị trí thuận lợi để hợp đồng 3 tuyến: Tiền tuyến (Đoàn 559), Trung tuyến (Đoàn 500) và Tuyến sau (Tổng cục Hậu cần).
Nếu như trong các cuộc chiến tranh dựng và giữ nước thời phong kiến, mãnh đất Hương Khê đã trở thành huyền thoại, thì trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhất là trong hai lần ném bom miền Bắc của lực lượng không quân Mỹ, Hương Khê được coi là huyện có vị trí hết sức quan trọng: trở thành yết hầu của yết hầu trong công tác vận chuyển hàng hóa, khi tài và binh lực cho chiến trường miền Nam.
Như vậy, trong lịch sử cận đại, Hương Khê đã 3 lần trở thành căn cứ chống quân xâm lược Chiêm Thành, Xiêm-la, Ai-lao của nhà Lý, quân Minh (Trung Quốc) của nhà Lê, Xiêm-la của Hoàng đế Quang Trung và trong lịch sử hiện đại cũng đã 3 lần là căn cứ chống Pháp của vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng và trở thành ẠTK của Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và là nơi đóng Bộ Chỉ huy 559, 500 của Bộ Quốc phòng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Từ thế kỷ XV trở đi, khi nhà Hậu Lê (1428 - 1879) thống nhất Đại Việt, ý nghĩa phên dậu chống quân xâm lược phương Bắc và phương Nam của Hương Khê không còn nữa, nhưng là căn cứ địa, phên dậu cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền phía Tây của Tổ quốc thì vẫn rất rõ nét bởi Hương Khê tiếp giáp với tỉnh Khăm-muộn (Lào), có biên giới dài trên 50km.

3.  Về truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân
Đây là một yếu tố quan trọng trong việc xác định vị trí địa chiến lược và đã được ghi nhận qua nhiều kênh, như bộ sách "Lịch sử Đảng bộ" các cấp cũng như trong Phần Hai: Lịch sử đã nêu khá nhiều. Trong phần này, xin được lưu ý một điều là truyền thống đó được biểu hiện một cách sâu sắc qua những câu chuyện truyền miệng (nhiều khi đã trở thành huyền thoại), sắc phong, văn bia, các di sản lịch sử, văn hóa nơi thờ tự các nhân vật và các sự kiện qua 2 thời kỳ:
           Trước năm 1930, nơi hội tụ nhất mà nhiều người biết được vẫn là các cơ sở hoạt động tâm linh (đền, miếu, chùa, nhà thờ, đình) với những sự tích sinh động, trong đó, các cơ sở thờ nhân thần là minh chứng cụ thể như nhà thờ Trần Ngọc Hoàn, Ngô Đăng Minh, Nguyễn Hữu Hộ... cho tinh thần yêu nước và đấu tranh của nhân dân Hương Khê chống các thế lực xâm lược như Chiêm Thành, Xiêm-la, Ai-lao, Trung Quốc.
           Từ năm 1930 lại nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hương Khê đã đứng lên làm cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ với bao sự hi sinh, mất mát về người và của trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Pôn-pốt mà “Lịch sử Đảng bộ” các cấp đã ghi nhận.
           Với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, trong những năm gần đây, một khối lượng lớn cơ sở hoạt động tâm linh đã được Nhà nước các cấp công nhận là Di tích Lịch sử (hoặc Di tích Lịch sử, Văn hóa) cấp quốc gia, cấp tỉnh, một số cơ sở khác đã lập hồ sơ đề nghị công nhận.
           Một sự kiện lớn là cho đến nay, bằng nguồn vốn ngân sách và sự đóng góp của nhân dân, huyện và các cơ sở đã hoàn thành xây dựng Nghĩa trang liệt sĩ (hoặc Nhà bia) làm nơi thờ tự hơn 1.500 anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội - là minh chứng sinh động nhất cho phong trào yêu nước, đấu tranh cách mạng và cống hiến của nhân dân Hương Khê cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
        3. Về hệ thống giao thông1
Hệ thống giao thông được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử, luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác quân sự, là yếu tố góp phần xác định vị thế địa chiến lược đối với quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Nghiên cứu quá trình phát triển hệ thống giao thông của Hương Khê cho thấy nhận định đó là rất có cơ sở. 
Đường bộ: Trong Phần thứ Nhất: Địa lý đã đề cập khá cụ thể về hệ thống giao thông của Hương Khê. Nên phần này chỉ phân tích những nét lớn sự tác động (ảnh hưởng) của hệ thống giao thông đến quá trình phát triển công tác quốc phòng, an ninh trong chiến lược bảo vệ lãnh thổ.
Trước hết là Thượng Đạo - là con đường được nhắc đến nhiều trong lịch sử nước ta và cho rằng đây là con đường Thiên Lý xuyên quốc gia đầu tiên. Vậy Thượng Đạo có đi qua Hương Khê là vấn đề cần được làm sáng tỏ thêm:
Trong Mục 1.1 và 1.2 của Mục I: Điều kiện tự nhiên và Tài nguyên thiên nhiên đã nói khá chi tiết về Thượng Đạo qua Hương Khê. Xin bổ sung một số phát hiện mới về Thượng Đạo để khẳng định Thượng Đạo đi qua Hương Khê:
Theo nhà sử học Bùi Thiết2: “Thực chất của Thượng Đạo là tuyến đi ven theo phía Đông dãy Trường Sơn từ Hà Nội vào đến tận Bình Định. Tất nhiên, với hàng ngàn cây số chiều dài đó, có những đoạn không có Thượng Đạo mà nhập vào với Trung Đạo, như đoạn từ Huế ra đến quá Đồng Hới (Quảng Bình)...
Ông giả thuyết rằng: “Lịch sử hình thành Thượng Đạo có lẽ được bắt đầu từ cuộc kháng chiến chống nhà Hán xâm lược của quân dân Âu Lạc do Hai Bà Trưng khởi xướng và lãnh đạo. Sau khi Hai Bà Trưng thất thủ ở Cấm Khê (nay thuộc huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) thì lực lượng của các tướng Đô Dương và Chu Bá đã nhanh chóng rút vào Thanh Nghệ bằng Thượng Đạo;...
Từ cuối nhà Tiền Lê đến đầu nhà Lý thì Thượng Đạo được sử dụng một cách hữu hiệu...”.
Có lẽ nhờ có Thượng Đạo đi qua mà thời Lý, vùng đất Thổ Hoàng - Hương Khê cũ - địa đầu biên ải phía Tây Nam của Đại Việt, có vị trí trọng yếu về quốc phòng đã được Hoàng tử Lý Nhật Quang3 kịp thời cũng cố các đồn binh, ải đạo nhằm xây dựng phòng tuyến vững chắc để kiểm soát và ngăn chặn sự xâm nhập của quân Chăm-pa và Ai-lao, Xiêm-la sang quấy nhiễu, cướp phá. Các tư liệu lịch sử cho rằng, thời Lý Nhật Quang trị nhậm châu Nghệ An đã cho làm 2 đường (Thượng Đạo): một đường lên Trà Lân (Con Cuông), Trấn Ninh (phần lớn đất Lào hiện nay), một ra Thanh Hóa và Thăng Long.
Cuốn Nghệ Tĩnh sơn thủy vịnh1 chép về Thượng Đạo: Phía ấy có đường thông ra phủ Trà Lân và phủ Trấn Ninh cùng các vùng khác của nước Ai-lao. Sử chép: Lê Thái Tổ từ Trà Lân vào vây hãm thành Nghệ An, sai Đinh Liệt theo đường tắt (Thượng Đạo?) vào chiếm trước huyện Đỗ Gia, tức là đi theo con đường ấy. (Đỗ Gia tức vùng đất huyện Cổ Đỗ - Hương Sơn ngày nay và Thổ Hoàng - Hương Khê và Vũ Quang ngày nay).
Theo nghiên cứu của các nhà sử học, cuộc hành quân cấp tốc của Quang Trung nhằm tiêu diệt 28 vạn quân Thanh mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) chắc sẽ phải qua Thượng Đạo. Nên sau thắng lợi, ông đã kết hợp đường bộ và đường sông vận chuyển vũ khí, quân đội từ Trung Đô qua sông Lam, sông La lên Ngàn Sâu về Hương Khê để tiêu diệt quân Xiêm-la qua ải Quy Hợp quấy nhiễu. Cho đến nay, nhân dân ở đây còn lưu giữ những câu chuyện dài kể về giai đoạn lịch sử này và ngôi đền Voi Ngựa mà nhân dân lập để thờ sau khi ông mất là minh chứng cho sự kiện này.
Những cứ liệu lịch sử nêu trên là bằng chứng chứng tỏ Thượng Đạo đi qua Hương Khê chí ít cũng là từ thời kỳ đầu nhà Lý (Thế kỷ XI) và nhờ đó làm cho Hương Khê có vị trị trọng yếu về quốc phòng trong con mắt của các nhà quân sự.
Trong kháng chiến chống Pháp và nhất là trong chống Mỹ, nhờ có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy, chủ yếu là mạng lưới đường chiến lược 15 (15A và 15B - từ 1970 được gọi là Đường Hồ chí Minh)3 và các nhánh vào các kho, trạm và sông Ngàn Sâu, Hương Khê trở thành nơi tập kết lực lượng (vũ khí, người và phương tiện chiến tranh), trở thành yết hầu của yết hầu vận chuyển người, vũ khí, hàng hóa cho chiến trường miền Nam, Lào.
Ngày nay, hệ thống giao thông đường bộ ở Hương Khê chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và do đó được đầu tư mạnh mẽ, hình thành một số tuyến quan trọng như:
Đường Hồ Chí Minh (đường Trường Sơn - nhánh Đông) đi qua các xã: Phương Mỹ, Phương Điền, Phúc Đồng, Hương Bình, Hương Long, Hương Phong, Gia Phố, Lộc Yên, Hương Đô, Phúc Trạch, Hương Trạch vào Quảng Bình. Từ km 356 (Khe Cò huyện Hương Sơn) đến km 436 (La Khê) dài 80km đi qua thị trấn các huyện Hương Sơn, Vũ Quang và Hương Khê, đường tương đối bằng phẳng, nền đường rộng 9m, mặt đường rộng 8m, rải bê tông nhựa. Đường Hồ Chí Minh không chỉ để vận tải, giao thương mà vấn đề quan trọng nhất vẫn là phục vụ nhiệm vụ cơ động tác chiến của công tác quốc phòng, an ninh.
Quốc lộ 15A: Đoạn phía Đông của Quốc lộ 15A bắt đầu từ Quốc lộ 8 tại Ngã ba Lạc Thiện (Đức Thọ), qua Ngã ba Đồng Lộc (Can Lộc) đến Khe Giao (Thach Hà) nối với Tỉnh lộ 3 (từ Ngã ba Khe Giao đến Thành phố Hà Tĩnh) lên Truông Bát đến Địa Lợi, cắt đường sắt ở xã Hương Châu, sau đó nối với đường Hồ Chí Minh ở xã Phúc Đồng.
Tuyến Tỉnh lộ 3 nối Hà Tĩnh với Quốc lộ 15A lên Hương Khê có chiều dài 92km là một trong những tuyến hết sức quan trọng. Đặc điểm địa hình của tuyến là từ km 335 (ở ngã ba Phúc Đồng) đến km 386 (ở ngã ba Khiêm Ích) dài 31km đường bằng phẳng - độ dốc không lớn, hai bên đường là đồng ruộng, dân cư tương đối đông đúc. Từ km 386 đến km 447 (ở La Khê) dài 61km đi qua thị trấn Hương Khê có địa hình trung du, nhiều dốc thoải, dân cư thưa thớt. Thời điểm hiện tại (năm 2017), năng lực thông qua toàn tuyến hơn 150 xe/ngày đêm. Trọng tải lớn nhất được phép qua tuyến 17 tấn/xe; 5 tấn/trục.
Tỉnh lộ 17: Tỉnh lộ 17 dài 55km, chạy từ xã Lộc Yên (giáp huyện Cẩm Xuyên) nối với Khu kinh tế Vũng Áng, vì vậy sẽ đi qua các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Tp Hà Tĩnh. Đến năm 2020, sau khi Chính phủ cho phép mở cửa khẩu quốc tế tại mốc N9 (đi qua xã Hương Liên), Tỉnh lộ 17 sẽ đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả tỉnh Hà Tĩnh nói chung và Hương Khê nói riêng. Ngoài ra nó còn có tác dụng tránh lũ, đảm bảo giao thông thông suốt khi đường 15A bị ngập lụt, đồng thời là tuyến đường nâng cao năng lực đường Hồ Chí Minh.
Ngoài các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, Hương Khê có hệ thống huyện lộ, đường liên xã khá hoàn chỉnh.
Tuyến giao thông trên biên giới Việt Lào đang từng bước được xây dựng theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng.
Hệ thống đường bộ của Hương Khê đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu đi lại, vận tải người và hàng hóa phục vụ sản xuất, quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Tuy nhiên, do địa hình nhiều đồi núi và sông suối nên việc phát triển hệ thống giao thông rất tốn kém. Điều này đã và đang hạn chế việc hoàn chỉnh hệ thống giao thông của huyện theo quy hoạch, nhất là các xã vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn.
Đường thủy: Do ảnh hưởng của địa hình nên sông suối trên địa bàn huyện là khá nhiều, ngắn, hầu hết đều bắt nguồn từ phía Tây, có ghềnh thác và đá ngầm ở đáy.
Sông Ngàn Sâu bắt nguồn từ dãy Giăng Màn biên giới Việt - Lào có điểm khởi đầu thuộc xã Hương Lâm, dài 101km và được coi là con sông tiêu biểu nhất của Hương Khê, có giá trị to lớn về mặt quân sự trong suốt chiều dài lịch sử. Hiện giá trị vận tải được ghi nhận:
- Đoạn 1: từ Ngã ba Linh Cảm đến xã Đức Đồng (Đức Thọ) dài 20km: các loại tàu thuyền có tải trọng dưới 50 tấn, các loại sà lan có tải trọng dưới 15 tấn vận chuyển được hai mùa.
- Đoạn 2: từ Đức Đồng đến La Khê dài 81m có nhiều thác ghềnh, thuyền bè đi lại khó khăn, chỗ hẹp nhất 18m nên tùy theo mùa, các thuyền vận chuyển chỉ cho phép chở từ 0,5 tấn - 1,5 tấn. Mùa khô, có nhiều đoạn sông bị cạn, thuyền bè không qua lại được.
Sông Tiêm dài 40km bắt nguồn từ dãy Trường Sơn phía Tây xã Hương Vĩnh, là một trong những nhánh thượng lưu của sông Ngàn Sâu có vị trí rất quan trọng đối với kinh tế nông nghiệp của Hương Khê, nhất là về phương diện thủy lợi.
Sông Rào Hào, Rào Nổ bắt nguồn từ sườn Đông dãy Trường Sơn ở phía Tây xã Hương Hải và xã Hương Hòa, là chi nhánh trung lưu của sông Ngàn Sâu, hợp điểm với sông Ngàn Sâu tại chợ Trúc (xã Hà Linh và Phương Điền). Đây là những con sông quan trọng của vùng hạ huyện, nhất là các xã Hòa Hải, Phúc Đồng, Phương Điền, Hà Linh.
Sông Ngàn Trươi là chi nhánh hạ lưu của sông Ngàn Sâu, bắt nguồn từ rừng Vũ Quang chảy qua các xã Hương Điền, Hương Đại, Hương Minh, Hương Thọ (huyện Vũ Quang) hợp điểm với sông Ngàn Sâu tại xã Hương Thọ.
So với các huyện trong tỉnh, hệ thống sông ngòi, khe suối Hương Khê khá nhiều, giữ vai trò quan trọng trong công tác vận tải, phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Trong lịch sử, đây là con đường vận tải người và phương tiện chiến tranh từ vùng xuôi lên Hương Khê để từ đó vận đến các nơi khác và ngược lại. Trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965 - 1972), sông Ngàn Sâu đã trở thành tuyến trung chuyển hàng hóa bằng sà lan và ca nô hết sức quan trọng chi viện cho chiến trường miền Nam và Lào.
 Do địa hình có độ dốc cao nên hàng năm vào mùa mưa, sông ngòi, khe suối ở Hương Khê thường gây lũ lụt, đặc biệt là lũ làm thiệt hại mùa màng và gây nhiều khó khăn cho đời sống nhân dân, đặc biệt ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quân sự, nhất là cho các lực lượng làm nhiệm vụ ở tuyến biên giới phía Tây.
Đường sắt: Tuyến đường sắt đầu tiên nối Sài Gòn với Mỹ Tho được người Pháp đầu tư xây dựng năm 1881 và đưa vào khai thác năm 1885, mở đầu cho việc xây dựng tuyến đường sắt xuyên Bắc Nam.
 Sau khi hoàn thành đoạn Hà Nội - Vinh - Bến Thủy dài 325km năm 1905, ngày 26/12/1912, Toàn quyền Đông Dương Xa-rô ra Sắc lệnh mở công trái 90 triệu Frăng để xây dựng đoạn Vinh - Đông Hà nhưng bị Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất (1914 - 1918) làm gián đoạn. Ngày 20/6/1921, Toàn quyền Đông Dương lại ban hành Sắc lệnh mở cuộc công trái 6 tiệu Frăng và nhờ đó, đoạn đường sắt Vinh - Đông Hà đi qua địa phận huyện Hương Khê được khởi công xây dựng từ hai đầu (Đông Hà và Vinh) vào năm 1922. Tháng 01/1927, đoạn từ Vinh đến Tân Ấp dài 89km đã được hoàn thành và dừng lại để xây dựng tuyến nhánh đi về Xóm Cục sang Lào. Tháng 10/1927, đoạn từ Đông Hà ra Tân Ấp dài 112km được hoàn thành. Km 410 trở thành nơi ráp nối của tuyến đường sắt miền Bắc với đường sắt Bắc miền Trung để thông tàu từ Hà Nội vào Đà Nẵng.
Đến năm 1933, đoạn Tân Ấp đi Xóm Cục dài 20km được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đoạn từ Xóm Cục đến Ba-na-phào dài 39km đã đặt được cáp treo (gọi là “không trung thiết lộ”) để vận chuyển linh kiện, xúc tiến việc kéo dài toàn tuyến đường ngang này sang Lào. Nhưng vì chi phí quá cao nên kế hoạch nối Ba-na-phào - Thà-khẹt bị phá sản. Từ đó, tuyến đường ngang từ Tân Ấp đi Thà-khẹt dài 187km không được đầu tư xây dựng nữa.
Tuyến đường sắt xuyên Bắc Nam được khánh thành ngày 02/10/1936. Sự kiện này có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động giao thông vận tải và phát triển kinh tế và quốc phòng, an ninh của Việt Nam.
Đoạn đường sắt qua huyện Hương Khê (tính từ Bắc vào) gồm các ga Phương Mộ, Thanh Luyện, Chu Lễ, Hương Phố, Phúc Trạch, La Khê và Tân Ấp. Tân Ấp là ga cuối, hiện nay thuộc huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình).
Đường sắt đã góp phần to lớn thúc đẩy kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh phát triển. Nhờ đó, các tuyến đường bộ, đường thủy cũng được khai thông, nâng cấp và làm mới để phục vụ nhu cầu vận tải của đường sắt thông qua việc hình thành các nhà ga - điểm dừng tàu, tạo sự giao lưu và thương mại Bắc - Nam. Từ đây, từng lớp công nhân hỏa xa ra đời, bổ sung vào lực lượng đấu tranh của khối công - nông - binh.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong 2 cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc, tuyến đường sắt đã góp phần quan trọng vận chuyển hàng hóa, vũ khí, trang bị, cơ động lực lượng phục vụ nhiệm vụ quốc phòng.
Tóm lại, cho đến nay, với hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh như đã nêu trên, Hương Khê có điều kiện kết nối kết nối với các địa phương trong cả nước và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, trở thành địa phương có vị trí địa chiến lược không chỉ đơn thuần về quân sự như trước đây mà còn có giá trị lớn trong phát triển kinh tế - xã hội.




Lực lượng vũ trang bao gồm lực lượng quân sự (quân đội, dân quân, tự vệ) và lực lượng công an (cảnh sát và an ninh). Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mỗi lực lượng có một nhiệm vụ riêng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự kết hợp giữa 2 lực lượng mang tính tất yếu, tạo nên sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân.
Vì thế, trong chương này, việc phân chia thành 2 bộ phận: quân sự và công an riêng rẽ chỉ là cách tương đối giúp tìm hiểu sâu hơn lực lượng vũ trang Hương Khê trong gần 72 năm (1945 - 2017) đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

I.     LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đứng trước nhiều thách thức to lớn, trong đó, sự chống phá chính quyền cách mạng non trẻ của các thế lực phản động được thực dân Pháp nuôi dưỡng và nhất là âm mưu trở lại xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp là một trong những thách thức cực kỳ nghiêm trọng.
Vì thế, từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ II tổ chức ngày 20.12.1945, thực hiện chủ trương của Chính phủ, huyện đã thành lập Tiểu đoàn Giải phóng quân, khoảng 300 người, đều là thanh niên tình nguyện trong huyện. Tiểu đoàn do ông Ngô Quốc Văn[1] chỉ huy cùng với lực lượng công an huyện và các xã làm nòng cốt đấu tranh, trấn áp các thế lực phản động, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, giữ gìn an ninh, trật tự thôn xóm. Công tác hậu cần cho tiểu đoàn đều do dân đóng góp; trang bị vũ khí đều phải dựa vào dân hoặc do một số cán bộ, chiến sỹ tự mua sắm mang theo. Công tác huấn luyện kỹ thuật quân sự do 2 hạ sỹ quan Nhật (tình nguyện ở lại giúp Việt Nam) trực tiếp đảm nhận.
Ngoài Tiểu đoàn này, lực lượng dân quân, du kích tập trung của huyện và tại chỗ ở các xã cũng tăng cường tập luyện quân sự, nêu cao cảnh giác với các hoạt động phá hoại của bọn phản động trong và ngoài huyện, kể cả bọn xâm lấn qua biên giới từ Lào sang.
Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược” và nêu rõ nhiệm vụ: “Tăng cường công tác vũ trang, tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở thôn quê, làm cho mặt trận kháng Pháp của Lào - Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê, đặng bao vây quân Pháp ở nơi sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào”2. Đặc biệt là khi chúng chiếm đóng Na-pê: theo yêu cầu của Đại diện chính quyền cách mạng Lào, thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban cách mạng lâm thời Hà Tĩnh, lực lượng Giải phóng quân Hà Tĩnh đã điều Tiểu đoàn Giải phóng quân Hương Khê phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào chặn đánh địch trên đường hành quân từ Nhom-ma-rat đến Na-pê, diệt 6 tên (trong đó có tên Quan hai Pháp). Cũng trong thời gian này, Tiểu đoàn giải phóng quân Hương Khê phối hợp với lực lượng Giải phóng quân của tỉnh và lực lượng vũ trang cách mạng Lào liên tục tấn công các vị trí quân Pháp trên dọc tuyến biên giới Việt - Lào thuộc địa phận Hà Tĩnh, chặn đứng âm mưu chiếm đóng Hà Tĩnh của quân Pháp từ phía Tây.
Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch tháng 12/1946, lực lượng vũ trang Hương Khê và toàn dân dựa vào vị trí địa lý, nơi được tỉnh và Liên khu IV chọn làm trọng điểm phòng thủ, triển khai các phương án bố phòng, tích cực củng cố, xây dựng lực lượng; chuẩn bị các phương án sơ tán cơ quan, kho tàng khỏi các vùng trọng điểm, xây dựng phương án tác chiến.
Khi thực dân Pháp triển khai chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh” từ phía Nam ra và từ Lào sang Quảng Trị, sau đó tiến nhanh ra Quảng Bình, Chính phủ đã kịp thời chủ trương sơ tán nhân dân và di chuyển các cơ quan Đảng và Nhà nước và một số đồng bào từ Bình - Trị - Thiên ra các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, trước hết là ra Hà Tĩnh. Ủy ban hành chính Trung Bộ đã chọn Hương Khê làm An toàn khu (ATK) để đặt các cơ quan, trường học, công xưởng và nơi sơ tán số cán bộ, nhân dân từ các vùng bị Pháp chiếm đóng ở Bình - Trị - Thiên. Nhân dân Hương Khê đã nhường cơm sẻ áo, cung cấp lương thực, thực phẩm, nhường nhà cửa, ruộng vườn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, công xưởng hoạt động và bà con tản cư làm ăn sinh sống. Lực lượng vũ trang Hương Khê vừa làm tốt vai trò nòng cốt để toàn dân xây dựng các phương án bố phòng, giúp đỡ cơ quan, công xưởng, đồng bào tản cư các tỉnh Bình - Trị - Thiên ra vừa phối hợp đánh địch.
Tháng 02/1947, nhận nhiệm vụ tỉnh giao, Tiểu đoàn Giải phóng quân Hương Khê phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh chặn đánh quân Pháp nóng sang vùng rừng Vụ Quang, buộc chúng phải chạy về tận Cà-đốc-na-thon, Na-pê (Lào), giữ vững biên giới phía Tây của huyện.
Để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài, trong chiến lược chiến tranh tranh nhân dân, Đảng ta chủ trương vũ trang toàn dân, trong đó xác định dân quân, du kích là lực lượng chủ yếu. Vì thế, tháng 3/1947, Chính phủ quyết định đổi tên “Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia” thành “Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân, tự vệ”, thành lập Ban Chỉ huy Tỉnh đội, Ban Chỉ huy Huyện đội, Ban Chỉ huy Xã đội trực thuộc Ủy ban kháng chiến các cấp (gọi tắt là Tỉnh đội, Huyện đội, Xã đội). Từ đây, lực lượng dân quân, du kính, tự vệ ngày càng phát triển mạnh mẽ; phần lớn người dân trong độ tuổi 18 đến 45 (nữ 35 tuổi) đều tham gia dân quân, du kích.
Huyện đội Hương Khê được thành lập tháng 3/1947, do một Ủy viên quân sự trong Ủy ban kháng chiến huyện phụ trách1. Khoảng giữa năm 1947, đồng chí Dương Đức Cơ được cử làm Huyện đội trưởng. Sau thành lập, Huyện đội từng bước được củng cố: ban đầu có 9 đồng chí, gồm: 2 đồng chí chỉ huy, 3 đồng chí thuộc tổ quân sự, 2 đồng chí thuộc tổ công tác chính trị và 2 đồng chí thuộc tổ văn thư, quản lý. Trong năm 1947, các xã, thôn trong huyện cũng thành lập được Xã đội, Thôn đội; mỗi tổ chức biên chế 3 người.
Sự ra đời của cơ quan quân sự từ huyện đến xã, thôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân. Từ đây Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến Hương Khê đã có cơ quan tham mưu đắc lực về công tác quân sự địa phương. Lực lượng dân quân, du kích, tự vệ Hương Khê có cơ quan chỉ đạo, chỉ huy thống nhất từ trên xuống. Ngoài Tiểu đoàn Giải phóng quân được thành lập trước đây, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ trong huyện phát triển mạnh mẽ, tạo thế trận quốc phòng có chiều sâu trong cuộc chiến tranh nhân dân vừa mang tính tập trung và tính cơ động cao.
Sau thành lập, Huyện đội đã tích cực mở các lớp huấn luyện quân sự ngắn ngày cho cán bộ, dân quân, du kích, tự vệ. Nội dung huấn luyện chủ yếu là chiến thuật cá nhân, chiến thuật tập kích, phục kích, bắn súng, ném lựu đạn, kỹ thuật làm hầm chông, đánh bom mìn… Trong huấn luyện, được sự giúp đỡ của Chi đội Giải phóng quân Phan Đình Phùng tỉnh, công tác huấn luyện đã sát với điều kiện địa hình và trang bị của lực lượng hiện có. Từ sau ngày 15/9/1947, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy và lời kêu gọi “Tiêu thổ để kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, lực lượng vũ trang huyện đã làm nòng cốt nhanh chóng sơ tán người già, trẻ em, kho tàng, cơ sở vật chất của cơ quan huyện cùng lương thực, thực phẩm vào những địa điểm an toàn; phá dỡ một số công sở và công trình kiến trúc kiên cố ở Chu Lễ, các nhà ga xe lửa, đánh sập cầu Cửa Rào, cầu Thanh Luyện, cầu Lộc Yên để quân Pháp không sử dụng được.
Chiểu Sắc lệnh số 91/SL ngày 01/10/1947 của Chính phủ, Hương Khê sáp nhập Ủy ban Kháng chiến và Ủy ban hành chính huyện thành Ủy ban Kháng chiến hành chính để thống nhất chỉ đạo sự nghiệp vừa kháng chiến vừa kiến quốc trong huyện.
Sau khi Tiểu đoàn Giải phóng quân của huyện được điều động trực thuộc Tỉnh đội, Đảng bộ Hương Khê chỉ đạo thành lập một Đại đội bộ đội địa phương độc lập, thoát ly sản xuất. Đến tháng 8.1948, huyện thành lập thêm 3 Đại đội bộ đội độc lập nữa. Đại đội 1 do đồng chí Nguyễn Nhuệ (quê Phương Mỹ) làm Đại đội trưởng, Đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Khắc Như (quê Hương Trung) làm Đại đội trưởng; Đại đội 3 do đồng chí Trần Triệu (quê Hương Long) làm Đại đội trưởng1. Các đại đội thoát ly sản xuất được trang bị vũ khí thô sơ và tự túc cấp dưỡng, có nhiệm vụ thường trực bảo vệ các cơ quan công sở, biên giới, làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh du kích. Đến thời điểm này, lực lượng dân quân, tự vệ Hương Khê chiếm gần 2,5% dân số trong huyện. Tất cả được huấn luyện cả quân sự và chính trị, đảm bảo đủ năng lực lực đáp ứng tác chiến bảo vệ địa bàn. Ngoài lực lượng chủ chốt là nam, nữ thanh niên tham gia, lực lượng dân quân, du kích ở các địa phương còn có các tổ phụ lão, thiếu niên và nhi đồng.
Ngày 01/10/1948, Đảng bộ Hương Khê tiến hành Đại hội lần thứ IV, chủ trương tiếp tục quán triệt sâu sắc và ra sức thực hiện chủ trương “Trường kỳ kháng chiến”, phát động phong trào thi đua ái quốc, phong trào luyện quân, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, tổ chức đại hội dân quân, đẩy mạnh phong trào thi đua tòng quân.
Từ cuối năm 1949, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, lực lượng vũ trang huyện triển khai Cuộc vận động “Rèn cán, chỉnh quân”, diệt nạn dốt, tự túc ăn mặc, đẩy mạnh cần - kiệm - liêm - chính theo lời Bác Hồ dạy thu nhiều kết quả. Cơ quan Huyện đội được tăng cường thêm cán bộ. Chi bộ Đảng của Huyện đội và các đại đội bộ đội địa phương đều trực thuộc Huyện ủy. Nhờ đó, đã tham mưu tích cực, hiệu quả cho cấp ủy và chính quyền địa phương về công tác quân sự; đồng thời trực tiếp chỉ đạo, tổ chức chỉ huy lực lượng vũ trang toàn huyện thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng và phát triển lực lượng; tăng gia sản xuất tự túc lương thực; làm tốt nhiệm vụ cùng toàn dân xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn.
Chiến tranh ngày càng ác liệt. Địch phát hiện sự lớn mạnh của hậu phương ở các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh nên đã tìm cách tăng cường đánh phá với nhiều thủ đoạn khác nhau. Chúng vừa bất ngờ cho quân tập kích từ biển vào (ở Quỳnh Lưu - Nghệ An) và từ Lào sang; đồng thời thường xuyên cho máy bay ném bom, bắn phá đường sá, cầu cống, kho tàng. Hương Khê là vùng ATK của Liên khu IV, lại có tuyến đường goòng nối vùng tự do với chiến trường Bình - Trị - Thiên, có đường chiến lược sang Trung Lào. Bởi vậy, trở thành trọng điểm ném bom và tập kích gây bạo loạn của địch (bỏ câu này). Tháng 10/1948, máy bay địch đã ném bom xuống khu vực Thủy Lâm, Chu Lễ làm hư hỏng nhiều đoạn đường. Đặc biệt ngày 06/01/1950, địch đã ném 50 quả bom xuống Thị trấn Chu Lễ làm chết và bị thương nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa. Tiếp đến ngày 17/01/1951, máy bay địch lại ném 40 quả bom loại 50kg xuống Thị trấn, gây cho ta nhiều thiệt hại. Trước âm mưu đánh phá hậu phương của địch, lực lượng vũ trang huyện đã tích cực giúp đỡ cứu chữa, sơ tán nhân dân; tăng cường cảnh giác, làm thêm hầm hào nhằm phòng chống, giảm thiểu tổn thất do máy bay địch gây ra.
Trước nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của cuộc kháng chiến, thực hiện lời kêu gọi “Tổng động viên nhân, tài, vật lực cho kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, ngày 29/4/1950, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính1 Hà Tĩnh tổ chức Hội nghị cán bộ các ngành, các cấp, các địa phương trong toàn tỉnh nhằm tìm biện pháp thực hiện Lệnh tổng động viên phục vụ chiến trường. Sau Hội nghị, Huyện đội Hương Khê cùng các ngành, các địa phương trong huyện triển khai ngay công tác đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, các loại phương tiện phục vụ kháng chiến và lập kế hoạch động viên nhân tài vật lực cho chiến trường trong từng giai đoạn.
Để củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, sau khi Trung đoàn 103 của tỉnh được Trung ương điều động ra Bắc, tỉnh thành lập Tiểu đoàn 290 và 8 Đại đội du kích thường trực ở 8 huyện. Như vậy, đến cuối năm 1950, lực lượng vũ trang Hương Khê có 3 đại đội, trong đó có 2 đại đội bộ đội địa phương tập trung và 1 đại đội du kích thường trực. Các đại đội thường xuyên tổ chức huấn luyện, đồng thời tranh thủ mọi thời gian hướng dẫn giúp đỡ dân quân, du kích các xã tổ chức luyện tập các phương án đánh địch, sơ tán, cứu thương, động viên tuyển quân. Đặc biệt ở những nơi trọng điểm, các bãi trống dự kiến địch có thể đổ bộ bằng đường không đều được cắm chông, đào hầm hào, xây dựng trận địa bố phòng, sẵn sàng chặn đánh khi có địch đổ bộ.
Chiến dịch Biên giới năm 1950 kết thúc thắng lợi. Thanh - Nghệ - Tĩnh trở thành hậu phương chiến lược của chiến trường Bắc Bộ và các chiến trường Bắc Đông Dương. Trong đó, quân và dân Hương Khê cùng quân dân Hà Tĩnh có nhiệm vụ chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, Trung và Thượng Lào và chiến trường chính Bắc Bộ. Tháng 6/1951, sau khi Liên khu IV bàn giao Trung đoàn 51 cho Đại đoàn pháo binh 351, chuyển Tiểu đoàn 198 và 11 đại đội bộ đội địa phương của Thanh Hóa cho Đại đoàn 320, Hương Khê cũng được Liên khu điều động một đại đội bộ đội địa phương phối hợp với các đại đội bộ đội địa phương Can Lộc, Đức Thọ bổ sung cho Trung đoàn 120 đang chiến đấu ở Trung Lào. Ngày 24/4/1951, Trung ương giao cho các liên khu vừa phải bảo đảm chi viện chiến trường vừa đẩy mạnh phối hợp với các lực lượng vũ trang trong “Chiến dịch Hòa Bình” nhằm đập tan âm mưu tiến công của địch ra tỉnh Hòa Bình. Phong trào xung phong tòng quân đi chiến đấu đã trở thành niềm mong ước của tuổi trẻ Hương Khê. Tính đến tháng 10.1952, Hương Khê cùng các địa phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã có 17.770 thanh niên lên đường nhập ngũ. Ngoài ra, các tỉnh còn chuyển hơn 5.000 du kích để xây dựng lực lượng bộ đội địa phương.
Tháng 4/1952, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công, nhiệm vụ chỉnh đảng, chỉnh quân được xác định là công tác trọng tâm. Nên từ giữa năm 1952 đến giữa năm 1953, bộ đội địa phương Hương Khê lần lượt tiến hành 3 đợt chỉnh quân về chính trị. Qua 3 đợt chỉnh quân này, bước đầu đã nâng cao giác ngộ giai cấp cho bộ đội, làm cho cán bộ, chiến sỹ thấy rõ mục tiêu của cuộc chiến đấu, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, hiểu rõ bản chất giai cấp và nhiệm vụ của quân đội. Từ đó tăng cường mối đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, xây dựng quyết tâm chiến đấu và chiến thắng. Lực lượng vũ trang Hương Khê cũng đã làm tốt nhiệm vụ hậu thuẫn cho nhân dân đấu tranh trấn áp bọn phản động, điển hình là vụ Tây Hồ (Lộc Yên). Các phần tử phản động ở Tây Hồ đã kích động gây rối và tuyên bố “đình công kháng chiến”, công khai sắm gậy gộc, rào nhà thờ, thay phiên nhau canh gác, tụ tập lực lượng trốn nghĩa vụ quân sự, trốn đi dân công hỏa tuyến gây rối trật tự trị an. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, bộ đội địa phương Hương Khê được Tiểu đoàn 290 bộ đội địa phương tỉnh hỗ trợ đã phối hợp với lực lượng công an nhanh chóng trấn áp các phần tử phản động, bắt bọn cầm đầu gây rối; đồng thời phối hợp các ban, ngành tuyên truyền sâu rộng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước, củng cố các tổ chức quần chúng, ổn định sản xuất và đời sống nhân dân.
Tháng 4/1953, bộ đội Pha-thét Lào và quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch Thượng Lào. Liên khu IV giao nhiệm vụ cho các tỉnh bảo đảm cung cấp hậu cần cho chiến trường. Hương Khê cùng các địa phương Hà Tĩnh đã huy động được 9.000 dân công hỏa tuyến làm Đường 28 (Truông Mèn ở Hương Sơn) và tu sửa tuyến đường Linh Cảm đi Na-pê và Ba-na-phào. Tham gia mở đường có hàng trăm dân công, bộ đội, cán bộ Hương Khê, góp phần đưa chiến dịch Thượng Lào kết thúc thắng lợi.
Sau thất bại của chiến dịch Hòa Bình (2/1952), Tây Bắc (12/1952), Thượng Lào (5/1953), thực dân Pháp đang đứng trước nguy cơ bại trận. Mỹ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam, vạch Kế hoạch Na-va: tập trung mở những cuộc hành quân lớn càn quét vùng tạm chiếm; tăng cường máy bay đánh phá hậu phương, trong đó có vùng chiến lược Thanh - Nghệ - Tĩnh. Ở Hương Khê, ngoài việc cho máy bay đánh phá đường giao thông, khu ATK, khu dân cư, ngày 02/8/1953, chúng còn thả hai toán biệt kích xuống xã Hương Quang và xã Hương Giang. Nhưng các toán biệt kích đã bị quân và dân Hương Khê tóm gọn.
Thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh, Hương Khê thành lập thêm một Đại đội bộ đội địa phương, triển khai kế hoạch rào làng chiến đấu, dựng chòi canh gác, củng cố hầm hào. Bộ đội và dân quân, du kích tích cực luyện tập các phương án chiến đấu sát với địa hình Hương Khê.
Từ tháng 9/1953, Trung ương mở Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Thực hiện chủ trương của Liên khu IV, lực lượng vũ trang Hương Khê triển khai nhiệm vụ phối hợp hoạt động với các chiến trường chính. Việc xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang huyện rất được chú trọng: các đại đội bộ đội địa phương được kiện toàn, phát triển thêm dân quân, du kích ở các xã, đặc biệt là các xã biên giới. Hầu hết thanh niên đều đăng kí tòng quân diệt giặc, con số được giao tăng gấp 3 lần so với các năm trước nhưng Hương Khê đã hoàn thành vượt chỉ tiêu.
Ngày 21/12/1953, tỉnh Hà Tĩnh mở Hội nghị bàn kế hoạch tác chiến bảo vệ địa phương. Sau hội nghị này, Ban Chỉ đạo thống nhất chỉ huy tác chiến Hương Khê được thành lập, gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Cung, Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Ủy ban làm Trưởng ban và Mộng Ân, Huyện Đội trưởng làm Phó ban. Bộ đội địa phương và lực lượng dân quân, du kích huyện được giao nhiệm vụ thường xuyên phối hợp nắm tình hình địch, bố trí lực lượng tác chiến, điều động lực lượng theo yêu cầu chiến đấu; đồng thời triển khai những công việc phục vụ chiến đấu và phòng tránh địch khi chiến sự xảy ra.
Trong Chiến dịch Trung Lào (được bắt đầu ngày 21/12/1953), Hương Khê được Trung ương giao nhiệm vụ huy động nhân - tài - vật lực và là hậu phương trực tiếp của Chiến dịch. Ngày 18/11/1953, một bộ phận của Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa vào hợp quân với Sư đoàn 325 ở Hương Khê để thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch. Trung đoàn 280 quân tình nguyện Liên khu IV và Tiểu đoàn 290 cùng Đại đội 55 bộ đội địa phương Hà Tĩnh cũng được lệnh tham gia chiến dịch. Trong Chiến dịch này, Hà Tĩnh đã xây dựng 37 trạm vận chuyển, huy động 56.000 thanh niên xung phong và dân công, trong đó có 28.300 người trực tiếp phục vụ chiến đấu và chiến đấu trên đất Lào1. Để góp phần phục vụ chiến dịch thắng lợi, Hương Khê đã huy động hàng ngàn dân công liên tục ngày đêm nạo vét sông Ngàn Sâu bảo đảm cho các đoàn thuyền vận tải từ Đức Thọ chuyển lương thực, vũ khí lên chợ Trúc, Chu Lễ, chợ Sòng; tu sửa đường sắt để lực lượng dân công chuyển hàng lên các ga để chuyển tiếp vào Quảng Bình, chuyển sang Mặt trận Trung Lào. Kết quả: ta đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn địch; giải phóng Thị xã Thà Khẹt, một phần tỉnh Xa-va-na-khẹt, Thị xã A-tô-pơ và toàn bộ cao nguyên Bô-lô-ven.
Sau chiến dịch Trung Lào, quân dân Hương Khê tiếp tục triển khai nhiệm vụ phục vụ cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Lực lượng thanh niên xung phong và dân công Hương Khê đã sát cánh cùng các đơn vị bạn vượt đèo cao, suối sâu và bom đạn địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định đình chiến Việt - Miên - Lào tại Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) tháng 7/1954.
Theo Hiệp định, Việt Nam tạm chia làm 2 miền (miền Nam do Chính phủ Quốc gia quản lý, miền Bắc do Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quản lý), lấy Vĩ tuyến 17 - ngang với sông Bến Hải (Quảng Trị) làm giới tuyến phi quân sự tạm thời và sau 2 năm, hai bên hiệp thương thống nhất Tổ quốc.
Đúng như dự đoán, trong lúc miền Bắc hòa bình, đi lên chủ nghĩa xã hội thì đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp và chiếm đóng miền Nam. Hiệp định Giơ-ne-vơ bị phá hoại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bắt đầu từ đó.
Trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến (1954 - 1964), lực lượng vũ trang Hương Khê đã cùng nhân dân bắt tay ngay vào việc củng cố tổ chức, khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện Cải cách ruộng đất, khôi phục và phát triển kinh tế, tích cực chi viện cho đồng bào miền Nam:
Đầu năm 1955, đồng chí Nguyễn Văn Tư được cử làm Huyện đội trưởng thay đồng chí Mộng Ân. Tổ chức dân quân, tự vệ được củng cố về mọi mặt: đến cuối năm 1957, tất cả các Ban Chỉ huy Xã đội và Thôn đội được kiện toàn. Ban Chỉ huy Xã đội được tổ chức học tập chính trị tập trung tại tỉnh thời gian 7 ngày (số tham gia hơn 90%). Hơn 100 cán bộ Thôn đội được học tập chính trị tập trung tại huyện 5 ngày. Dân quân, tự vệ trở thành lực lượng xung kích, làm nòng cốt trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh: khôi phục hệ thống thủy lợi, phục hóa số ruộng đất ở những vùng trọng điểm đánh phá bị bỏ hoang,... để sớm khôi phục sản xuất, ổn định tình hình kinh tế - xã hội...
Từ tháng 6/1956 đến tháng 6/19571, Hương Khê tiến hành Cải cách ruộng đất và sau đó sửa sai. Trong suốt quá trình này, lực lượng dân quân, du kích được huy động bảo vệ số cán bộ Đội Cải cách do Đoàn uỷ IV và Ủy ban Cải cách tỉnh cử về.
Ngày 03/6/1957, Quân khu IV được thành lập trên cơ sở Liên khu IV. Lực lượng vũ trang tỉnh được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu IV và sự lãnh đạo, điều hành của Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh. Tổ chức Cơ quan Huyện đội Hương Khê được củng cố: đồng chí Nguyễn Triêm được bổ nhiệm làm Huyện đội trưởng thay đồng chí Nguyễn Văn Tư. Chi bộ và Ban chỉ huy Huyện đội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang huyện vừa học tập chính trị, huấn luyện quân sự vừa tham gia phát triển sản xuất.
Tháng 02/1958, Quân Khu ủy ra nghị quyết về nhiệm vụ phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu. Hà Tĩnh được xác định là khu vực trung tâm trong Kế hoạch phòng thủ của Quân khu. Trên cơ sở Kế hoạch phòng thủ chung của tỉnh, đến tháng 8/1958, Hương Khê xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ của huyện. Lực lượng vũ trang huyện được củng cố và điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Theo đó, cấp xã thành lập Ban chỉ huy thống nhất gồm các đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, Xã đội trưởng, Trưởng Công an xã nhằm kiểm tra, đôn đốc lực lượng dân quân, du kích, công an xã huấn luyện, tuần tra canh gác và sẵn sàng chiến đấu. Cũng trong dịp này, Ban Chỉ huy Tỉnh đội phát động đợt huấn luyện quân sự tập trung. Huyện đội Hương Khê tổ chức đợt huấn luyện tập trung 15 ngày với nội dung chủ yếu là học các môn kỹ - chiến thuật về bắn súng, ném lựu đạn; chiến thuật phòng ngự, tấn công cá nhân, tiểu đội. Sau đợt huấn luyện này, phong trào xây dựng nếp sống chính quy, sẵn sàng chiến đấu trong lực lượng vũ trang huyện có bước chuyển biến tốt về chất lượng.
Sau hội nghị của Đảng ủy Tỉnh đội (ngày 01/1958), Chi bộ Huyện đội Hương Khê tổ chức Đại hội nhằm kiện toàn bộ máy và quyết nghị về công tác quân sự địa phương. Thực hiện cơ cấu mới của cấp trên, đồng chí Trần Đình Hậu, Bí thư Huyện ủy được giao nhiệm vụ Chính trị viên Huyện đội.
Cuối năm 1958, Hương Khê triển khai học tập và thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự đầu tiên. Sau học tập, Huyện đội phối hợp với chính quyền các cơ sở lập kế hoạch đăng ký, quản lý để nắm chắc thực lực quân số chuẩn bị cho việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự đợt đầu tiên. Tất cả thanh niên trong độ tuổi đã đăng ký khám tuyển quân sự. Đến cuối năm 1958, Hương Khê đã có 200 thanh niên lên đường nhập ngũ.
Đây cũng là thời gian Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường hoạt động do thám, khiêu khích bằng máy bay và chỉ đạo bọn phản động nội địa đẩy mạnh các hoạt động phá hoại miền Bắc. Đảng ủy chỉ đạo Tỉnh đội và Huyện ủy tập trung xây dựng Kế hoạch tác chiến phòng thủ trị an. Huyện đội cũng đã tham mưu và triển khai xây dựng Kế hoạch tác chiến phòng thủ đúng quy định của cấp trên. Đến cuối năm 1960, Hương Khê đã hoàn thành Kế hoạch tác chiến phòng thủ trị an ở 11 xã. Lực lượng vũ trang huyện triển khai đợt học tập chính trị về chiến tranh nhân dân, về nhiệm vụ của lực lượng hậu bị đối với công tác củng cố quốc phòng sâu rộng trong lực lượng dân quân, tự vệ. Sau đợt học tập chính trị, ở cơ sở các tổ trinh sát, liên lạc, quân báo nhân dân được củng cố, các xã tổ chức được từ 1 đến 2 tiểu đội trực thuộc xã đội. Đường dây liên lạc được củng cố từ xã lên huyện. Trong năm 1960, Hương Khê xây dựng thêm một số đại đội và trung đội tự vệ ở các cơ quan, nông trường, xí nghiệp. Lực lượng dân quân, tự vệ được chuyển hướng xây dựng theo yêu cầu mở rộng và vững chắc; quy mô tổ chức chủ yếu là tiểu đội, trung đội, nơi có điều kiện thì tổ chức thành đại đội. Đảng ủy xã và các chi ủy có nhiệm vụ trực tiếp lãnh đạo lực lượng dân quân, du kích; đồng thời phân công cấp ủy, đảng viên vào cương vị chỉ huy xã đội, thôn đội. Lực lượng dân quân, du kích luôn làm nòng cốt xung kích trong các chiến dịch phục vụ sản xuất, thủy lợi, chống lũ.
Tháng 01.1961, bộ đội Pha-thét Lào và lực lượng trung lập phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam tiến công giải phóng toàn bộ Cánh Đồng Chum và Xiêng-khoảng, thị xã Phông-xa-lỳ, Bản Ban. Lợi dụng sơ hở của địch ở chiến trường Trung - Hạ Lào, theo yêu cầu của Quân đội Pha-thét Lào, thực hiện mệnh lệnh của cấp trên, Tỉnh đội Hà Tĩnh điều Tiểu đoàn 44 bộ đội địa phương tỉnh cùng 2.000 dân công hỏa tuyến (chủ yếu là người Hương Khê, Hương Sơn và Đức Thọ) lên đường làm nhiệm vụ giải phóng Đường 12 và Đường 8. Ngoài việc điều động dân quân, du kích tham gia dân công hỏa tuyến, Hương Khê còn điều một số cán bộ, chiến sỹ lên Đường 8A, 8B làm nhiệm vụ. Các đơn vị bộ đội địa phương và dân công hỏa tuyến đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Pha-thét Lào và quân tình nguyện giải phóng Đường 12, Đường 8 từ Lạc-sao đến Nhom-ma-lát. Nhờ đó đã tạo điều kiện khống chế toàn bộ tuyến biên giới Việt - Lào đến Na-du - địa bàn chiến lược giữa hai nước Việt Nam - Lào.
Với đặc điểm là huyện miền núi, có đường biên giới hiểm trở nên kế hoạch chống biệt kích được xác định là nội dung quan trọng trong kế hoạch phòng thủ của huyện Hương Khê. Cuối tháng 7/1961, Hương Khê cơ bản hoàn thành kế hoạch phòng thủ chống biệt kích, bước vào huấn luyện, diễn tập thực binh theo các phương án. Kế hoạch chống biệt kích được đảng ủy, xã đội, thôn đội các cơ sở quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc.
Trước nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của cuộc kháng chiến, thực hiện Nghị định 217 của Hội đồng Chính phủ về Điều lệ đăng ký, thống kê, quản lý quân dự bị, các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho quốc phòng, đầu năm 1961, Hương Khê cùng các địa phương trong tỉnh đã thống kê được 65.277 người trong độ tuổi, hơn 2.000 tàu thuyền và 11.526 xe các loại. Tại Hội nghị sơ kết Cuộc vận động xây dựng lực lượng thường trực, hậu bị vững mạnh (tháng 11.1961), Hương Khê là một trong những đơn vị được Tỉnh đội biểu dương. Cuối năm 1961, cán bộ chỉ huy Huyện đội có sự thay đổi, đồng chí Hà Văn Kỷ được bổ nhiệm làm Huyện đội trưởng thay đồng chí Trần Xuân Niệm.
Đúng như dự đoán của ta, lúc 0 giờ 30 phút ngày 10/6/1963, địch đã cho máy bay thả bọn biệt kích xuống vùng núi sông Tiêm, cách Đội khai thác của Lâm trường Trại Trụ khoảng 4km. Đồng chí Bùi Đình Quang, Chính trị viên Huyện đội trực chỉ huy đã khẩn trương chỉ đạo và huy động lực lượng dân quân, tự vệ các xã Hương Phú, Hương Vĩnh, Hương Long, Hương Xuân và Lâm trường Trại Trụ tổ chức vây bắt, đồng thời điều động một lực lượng cơ động tiếp cận vị trí địch nhảy dù. Đồn Công an vũ trang và Đại đội cơ động ở Hương Tân cùng phối hợp chiến đấu. Cán bộ chỉ huy ngoài đồng chí Quang còn có đồng chí Nguyễn Tú, Bí thư Huyện ủy. Đến 4 giờ ngày 11/6, toán biệt kích nhảy dù có 6 tên do tên Trần Kim Phú (là tên phản động người Hương Vĩnh trước đây vượt biên theo giặc) cầm đầu đã bị bắt cùng toàn bộ vũ khí, điện đài và các trang bị. Đây là trận vây bắt biệt kích nhảy dù điển hình giành thắng lợi trọn vẹn của quân dân Hương Khê trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thắng lợi này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an toàn tuyến biên giới, bảo đảm an ninh, trật tự để nhân dân an tâm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày 20/7/1963, Huyện đội Hương Khê triển khai thực hiện “Phong trào thi đua quyết thắng” trong lực lượng vũ trang do Tỉnh đội phát động. Phong trào đã thu được kết quả hết sức thiết thực: lực lượng vũ trang huyện, đặc biệt là lực lượng dân quân ở các xã trọng điểm được củng cố và được tăng cường trang bị vũ khí. Cơ quan Quân sự huyện, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát đều được tăng cường cán bộ lãnh đạo. Các cơ quan, đơn vị: Lâm trường 20.4, Trại Trụ, Chúc A, Hương Lâm, Hương Liên, Công ty đường goòng, các đội thuyền vận tải đường sông… đều tổ chức các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tự vệ mạnh.
Trước việc máy bay Mỹ tăng cường hoạt động khiêu khích, trinh sát các mục tiêu, chuẩn bị leo thang đánh phá miền Bắc, từ tháng 4/1964, công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu chống địch tập kích, biệt kích và oanh tạc bằng không quân ở Hương Khê được triển khai tích cực.
Ngày 02/5/1964, Hương Khê thành lập Ban chỉ huy Phòng không huyện. Đồng chí Đặng Minh Lương, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện làm Trưởng ban; đồng chí Hà Văn Kỷ, Huyện đội trưởng làm Tham mưu trưởng1. Ban chỉ huy Phòng không có nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các địa phương, cơ quan, xí nghiệp và nhân dân thực hiện kế hoạch phòng tránh, đánh trả địch khi chiến tranh xảy ra trên địa bàn. Đến giữa tháng 8/1964, sau sự kiện ngày 05/8/1964, Mỹ cho máy bay đánh phá 4 tỉnh (Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Ninh), công tác chuẩn bị như đào hầm hào, xây dựng công sự chiến đấu, lập mạng lưới báo động phòng không ở Hương Khê được triển khai tích cực. Cuối năm 1964, toàn bộ hoạt động của địa phương được chuyển sang trạng thái thời chiến.
Từ tháng 02/1965, sau khi chính thức mở cuộc chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, Mỹ thường xuyên cho máy bay xâm phạm vùng trời Hương Khê nhằm trinh sát các tuyến vận tải đường sắt, đường bộ và đường sông, các mục tiêu quân sự... Lúc này, các cơ sở quân sự, dân sự; các công - nông - lâm trường được sơ tán để bảo đảm hoạt động bình thường. Công tác sẵn sàng chiến đấu của lực lượng quân sự huyện được đặt lên hàng đầu. Quân và dân Hương Khê đã ở trong tư thế sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của địch.
Ngày 31/3/1965, máy bay Mỹ ném bom, bắn phá doanh trại của đơn vị quân đội ở Hương Hà, Bệnh viện huyện, gây nhiều thiệt hại. Đến giữa năm 1965, mức độ đánh phá ác liệt và nhiều mục tiêu hơn: đánh vào Trường cấp 2 Hương Thanh, cầu Thanh Luyện, phà Địa Lợi, Lộc Yên, cầu 30 thước, cầu Cửa Rào, Thị trấn… Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này của lực lượng quân sự huyện là phải nhanh chóng tổ chức phối hợp bắn máy bay địch bảo vệ địa bàn. Lực lượng dân quân, tự vệ được tổ chức dưới 3 hình thức: trực thường xuyên; trực không thường xuyên và phối hợp “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng”. Toàn huyện đã có hàng chục trung đội dân quân trực chiến thường xuyên ở các trọng điểm.
Ngày 20/9/1965 quân dân Hương Khê phối hợp Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 230 pháo cao xạ bắn rơi một chiếc F4. Tên giặc lái nhảy dù xuống cánh rừng sâu xã Hương Vĩnh. Sau đó, địch đã huy động một lúc 18 máy bay các loại để cứu tên giặc lái. Với lòng căm thù giặc Mỹ cao độ và quyết tâm bắt sống giặc lái, Huyện đội trực tiếp chỉ huy dân quân các xã Hương Vĩnh, Hương Xuân và tự vệ Nông trường 20/4 phối hợp bộ đội cao xạ, công an vũ trang vừa tổ chức bắn máy bay vừa nhanh chóng tiếp cận tên giặc lái. Tiểu đội tự vệ Nông trường 20/4 gồm 10 đồng chí do đồng chí Trần Văn Thái chỉ huy nhận nhiệm vụ cơ động áp sát vị trí tên giặc lái ẩn náu. Khi tiếp cận được mục tiêu cũng là lúc máy bay trực thăng địch hạ cánh cứu giặc lái. Một tổ đã nhanh chóng leo lên cây cao với súng trường quân dụng nhằm thẳng máy bay trực thăng nổ súng. Cánh quạt bị trúng đạn, gãy; máy bay trực thăng rơi tại chỗ. Lập tức, cả tiểu đội xông lên bắt gọn tốp giặc lái đến cứu và tên phi công. Trận đánh ngày 20/9/1965 là trận đánh bắt gọn giặc lái thắng lợi điển hình với hiệu suất chiến đấu cao nhất, mang nhiều ý nghĩa và bài học kinh nghiệm quý giá: vừa phối hợp bắn rơi máy bay phản lực F4 vừa độc lập bắn rơi chiếc trực thăng H43 đầu tiên trên miền Bắc vừa bắt sống được nhiều giặc lái nhất. Hình ảnh “O du kích nhỏ giương cao súng1 áp giải tên giặc lái Mỹ cao lớn cúi đầu do nhà nhiếp ảnh Phan Thoan ghi lại trong sự kiện này đã thể hiện rõ nhất tinh thần, ý chí chiến đấu, sự mưu trí sáng tạo và hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa 3 thứ quân, quyết tâm bắt sống giặc lái Mỹ.
Phát huy thắng lợi của trận đánh này, ngày 18/10/1965, tự vệ Xí nghiệp đá Phú Lễ đã bắn rơi tại chỗ 1 máy bay phản lực Mỹ khi chúng đang đánh phá Xí nghiệp. Chiến công này đã mở đầu cho một phong trào dùng súng bộ binh bắn máy bay phản lực Mỹ. Sau đợt lập công xuất sắc này, quân và dân Hương Khê, tự vệ Nông trường 20/4 và dân quân Lộc Yên được Nhà nước tặng Huân chương Quân công hạng Ba. Đội 6 Lâm trường Chúc A, dân quân Hương Phong được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất; dân quân Hương Xuân, tự vệ Phòng Giao thông, bộ đội địa phương huyện được tặng Huân chương Chiến công hạng Hai; xã Hương Đô và xã Hương Lạc được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba; xã Hương Lĩnh và lực lượng tự vệ cơ quan huyện được tặng Bằng khen của Ủy ban hành chính tỉnh.
Từ năm 1966, hầu hết thanh niên Hương Khê đều tham gia dân quân, tự vệ. Lực lượng này được biên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội và được trang bị thêm vũ khí bao gồm súng trường quân dụng (mỗi người một khẩu và một cơ số đạn). Các đơn vị trực chiến được trang bị thêm đại liên, trung liên (là chủ yếu) và súng 12,7 ly và 20,7 ly. Đây là lực lượng nòng cốt trực chiến bắn máy bay và ứng cứu lúc địch đánh phá giao thông, làng mạc. Đến tháng 12/1967, huyện còn thành lập được 7 Đội Công binh dân quân, tự vệ chuyên trách và hơn 20 Tổ Công binh dân quân các xã để rà phá bom và thủy lôi của địch.
Trước những hành động tội ác ngày càng gia tăng của Mỹ, đặc biệt là sau vụ ném bom vào Trường cấp 2 Hương Phúc ngày 02/9/1966, Huyện ủy chỉ đạo lực lượng vũ trang và nhân dân tìm mọi biện pháp sơ tán người và tài sản triệt để ra khỏi vùng trọng điểm; đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, phát động phong trào nhà nhà đào hầm hào, người người thực hiện phòng không.
Sau Hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm phong trào dùng súng bộ binh bắn máy bay tầm thấp do Tỉnh đội Hà Tĩnh tổ chức, vào hội 11 giờ 30 phút, ngày 02/8/1967, Đội trực chiến tại khu vực trận địa Dăm Chài của 10 cô gái dân quân Hương Thủy phát hiện một máy bay từ hướng Đông Nam đang hạ dần độ cao và bay thẳng vào hướng ga Chu Lễ. Toàn đội trực chiến đã tập trung quan sát, điều chỉnh tầm ngắm chính xác. Khi máy bay đã hạ hết độ cao, hướng về phía trận địa, chớp thời cơ, chị Phan Thị Bá - Tổ trưởng hạ lệnh cho toàn tổ nổ súng. Sau 2 loạt đạn đầu, chiếc máy bay địch trúng đạn bốc cháy và rơi xuống xã Sơn Giang (Hương Sơn). Tên giặc lái chết trên máy bay1. Chiếc máy bay được xác định là loại trinh sát điện tử có ký hiệu FR47C.
Lúc này, đảm bảo giao thông vận tải luôn thông suốt là nhiệm vụ sống còn. Bởi vậy, thực hiện chủ trương của Bộ Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân Hà Tĩnh, huyện Hương Khê đã thành lập Đại đội chủ lực đảm bảo giao thông gồm 400 cán bộ, chiến sĩ chốt giữ ở các trọng điểm như phà Đại Lợi, ngầm Lộc Yên, La Khê, cầu Chợ Vạn làm nòng cốt cho dân quân huyện nhà đảm bảo thường xuyên giao thông thông suốt. Huyện  còn giao cho Phòng Giao thông phối hợp tốt với các ban ngành chỉ đạo toàn dân làm giao thông vận tải. Trong số hàng ngàn người tham gia có tới 70% là dân quân, tự vệ và bộ đội địa phương huyện. Tất cả lực lượng được tổ chức theo hình thức quân sự hóa để tiện chỉ huy hợp đồng. Mỗi xã tổ chức 1 đại đội, mỗi xóm 1 trung đội, mỗi cụm dân cư 1 tiểu đội, dưới sự chỉ huy thống nhất của Ban chỉ huy Xã đội. Lực lượng này luôn sẵn sàng làm nhiệm vụ vận chuyển đất đá, cọc tre, gỗ, lá cây chống lầy ở các trọng điểm; sửa chữa đường xế, đường tránh khi có lệnh. Việc tổ chức sắp xếp lại lực lượng bảo đảm giao thông đã nâng cao ý thức trách nhiệm, hiệu suất công việc ngày một tăng lên. Các trọng điểm giao thông như phà Địa Lợi, bến sông chợ Trúc, cầu Lộc Yên… đều được giải quyết thông suốt, không bị ùn tắc như trước đây. Tính từ 1965 - 1968, quân dân Hương Khê đã đóng góp hàng vạn ngày công làm đường và bốc dỡ hàng hóa và đã làm được 222km đường liên huyện, liên xã; 276km đường liên xã, liên hợp tác xã; 248km đường vùng, đường khoảnh, đã huy động được 2.929 xe các loại để vận chuyển hàng. Với những thành tích xuất sắc trong công tác đảm bảo giao thông vận tải, huyện đã được Nhà nước tặng Huân chương Chiến công trong thời gian này.
Ngày 31/3/1968, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của quân và dân miền Nam, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ Vĩ tuyến 19 trở ra (tức chỉ ném bom từ Vĩ tuyến 19 trở vào) và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari bàn về kết thúc chiến tranh Việt Nam với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là âm mưu cực kỳ xảo quyệt: chúng tập trung sức mạnh của lực lượng máy bay và tàu chiến đánh phá vào vùng “cán soong, eo cổ bù” của các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Vĩnh Linh (Quảng Trị) để gây sức ép trên bàn đàm phán tại Hội nghị Pari. Địa bàn Hà Tĩnh đã trở thành trọng điểm đánh phá tàn khốc của không quân Mỹ. Quân dân Hương Khê phối hợp với lực lượng tăng cường của trên ngày đêm bám tuyến đường sắt, sửa chữa các cầu Cửa Rào, Thanh Luyện, Lộc Yên. Lực lượng công binh sửa chữa các cầu đường bộ, duy trì hoạt động tốt bến phà Địa Lợi. Hàng ngàn thanh niên xung phong địa phương ngày đêm sửa đường, bốc dỡ hàng hóa ở bến sông, ga tàu. Sông Ngàn Sâu trở thành tuyến vận tải quan trọng đưa bộ đội và hàng hóa từ Đức Thọ lên Hương Khê. Lực lượng dân quân tự vệ phối hợp tốt với các lực lượng phòng không liên tục đánh máy bay địch, bảo vệ an toàn, thông suốt cho các trọng điểm giao thông trong huyện. Ngày 28/8/1968, tự vệ Lâm trường Trại Trụ phối hợp bộ đội cao xạ chủ lực bắn rơi chiếc máy bay F111A của Mỹ. Đây là chiếc máy bay “cánh cụp cánh xòe” hiện đại nhất của Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc. Chiến thắng này được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi điện khen ngợi.
Bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam - Bắc, trước sức ép của dư luận tiến bộ Mỹ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, ngày 01/11/1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam.
Tranh thủ thời gian có hòa bình, quân và dân trong huyện khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố lực lượng vũ trang và tiếp tục chi viện mọi mặt cho tiền tuyến. Ban Chỉ huy Huyện đội được kiện toàn gồm các đồng chí: Phan Văn Toản - Huyện đội trưởng thay đồng chí Lê Văn Vỵ (hy sinh ngày 03/7/1968 trong lúc làm nhiệm vụ); Đặng Đình Lai - Chính trị viên; Nguyễn Văn Cân - Huyện đội phó - Tham mưu trưởng. Sau khi được kiện toàn, Ban Chỉ huy Huyện đội tập trung chỉ đạo huấn luyện cho lực lượng vũ trang huyện theo phương án tác chiến mới; chỉ đạo các xã biên giới củng cố Ban chỉ huy tác chiến chống biệt kích. Trước những âm mưu mớ icủa Mỹ, mặc dù đã ngừng ném bom nhưng lực lượng vũ trang chính trong huyện vẫn duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức phòng không nhân dân các cấp tiếp tục được duy trì nhưng bố trí sắp xếp lại: lực lượng phòng không của dân quân, tự vệ tạm nghỉ trực chiến nhưng vẫn giữ nguyên đội hình, chuyển thành các đội chuyên làm thủy lợi, khai hoang phục hóa, khi có lệnh chiến đấu thì sẵn sàng huy động lực lượng nhanh chóng chiến đấu được ngay. Các đài quan sát máy bay ở Chu Lễ và La Khê được củng cố lại. Chế độ bảo đảm sẵn sàng chiến đấu đã đi vào nền nếp. Mạng lưới thông tin liên lạc vẫn đảm bảo thông suốt; công tác huấn luyện lực lượng cơ động được duy trì thường xuyên, bảo đảm quân số và trang bị vũ khí đầy đủ, sẵn sàng làm nhiệm vụ. Các đơn vị phòng không tích cực kiểm tra, đăng ký, tu sửa trận địa, soát xét lại các phương án bắn máy bay tầm thấp, cơ động phục kích đánh máy bay địch trong các trường hợp có thể xảy ra.
Ngày 13/5/1970, Quân ủy Trung ương họp ra nghị quyết tăng cường công tác quân sự địa phương trong tình hình mới, quyết định đổi tên Ban Chỉ huy Tỉnh đội, Ban Chỉ huy Huyện đội thành Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và Ban Chỉ huy Quân sự huyện. Việc đổi tên này đã xác định rõ vai trò, vị trí chỉ huy các lực lượng thống nhất của cơ quan quân sự cấp tỉnh, cấp huyện trong chiến tranh tại địa phương. Từ đây, Huyện đội Hương Khê được đổi tên thành Ban chỉ huy Quân sự Hương Khê. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng chí Chính trị viên của Ban được bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy. Đến cuối năm 1970, Ban chỉ huy Quân sự Hương Khê được chấn chỉnh và được tăng cường thêm cán bộ và chuyển vào hoạt động theo cơ chế mới.
Nhằm đối phó với âm mưu và thủ đoạn mới của địch, sau khi được củng cố theo cơ cấu tổ chức mới, Ban Chỉ huy Quân sự huyện nhanh chóng xây dựng phương án tác chiến. Theo đó, các làng, xã được liên kết theo cụm chiến đấu liên hoàn. Các đơn vị phòng không 12,7 ly của bộ đội địa phương và dân +quân, tự vệ duy trì trực chiến 24/24 giờ. Các công việc chuẩn bị cho chiến đấu như tu sửa các trục đường giao thông, xây dựng thêm vọng gác, củng cố lực lượng cơ động cũng gấp rút được triển khai.
Trước những thất bại nặng nề trên khắp chiến trường miền Nam và Lào, đế quốc Mỹ tiếp tục những bước leo thang quân sự mới, ném bom trở lại miền Bắc lần thứ hai. Ngày 09/4/1972, chúng tập trung 180 lần chiếc máy bay đánh vào các chân hàng, kho trạm dọc Đường 1A, 15A và Đường 8 trên địa bàn Hà Tĩnh. Ở Hương Khê, máy bay Mỹ đã đánh sập các cầu trên tuyến đường sắt và đường bộ; phong tỏa sông Ngàn Sâu, các bến phà bằng thủy lôi… gây ách tắc giao thông ở nhiều nơi. Thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh, Hương Khê nhanh chóng chuyển mọi hoạt động trở lại thời chiến. Hàng trăm trận địa chiến đấu, các tổ công binh, cứu sập, cứu thương khẩn trương đi vào hoạt động. Với tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao và kinh nghiệm chiến đấu trước đây, ngày 26/3/1972, dân quân xã Lộc Yên đã độc lập bắn rơi 1 máy bay F4H của Mỹ. Ngày 20/7/1972, tự vệ Nông trường 20/4 bằng một loạt đạn trung liên cũng bắn rơi 1 chiếc RF4C của địch1. Vừa trực tiếp chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, Đảng bộ và nhân dân Hương Khê tiếp tục làm tốt nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho các chiến trường. Năm 1972, Hương Khê có gần 1.000 thanh niên nhập ngũ, là huyện có tỷ lệ tuyển quân cao nhất tỉnh Hà Tĩnh.
Sau thất bại 12 ngày đêm ném bom hủy diệt Hà Nội, ngày 27/01/1973, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Với thắng lợi này, quân và dân Hương Khê bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, ra sức phát triển kinh tế, xây dựng tiềm lực quốc phòng, tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam với quyết tâm cùng cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ban Chỉ huy Quân sự huyện chỉ đạo các lực lượng công binh nhanh chóng ra quân rà phá bom mìn. Trong đó, để rút kinh nghiệm cho toàn huyện, lực lượng công binh dân quân xã Hương Thủy được giao nhiệm vụ nghiên cứu rà phá số bom mìn ở tại Đập Làng. Sau gần 2 tháng, 8 quả bom nổ chậm ở độ sâu hơn 11m đã được phá hủy thành công, bảo đảm an toàn cho đập. Từ những kinh nghiệm ở Đập Làng, Ban tiếp tục chỉ đạo lực lượng công binh dân quân tiến hành rà phá hàng trăm quả bom trên địa bàn huyện, giải phóng phần lớn ruộng đồng, đưa vào sản xuất; tích cực tham gia sửa chữa đường sá, cầu cống, bốc dỡ hàng hóa, lao động sản xuất phát triển kinh tế. Đến cuối năm 1973, lực lượng dân quân, tự vệ Hương Khê chiếm tới 11% dân số, đã phát huy được vai trò xung kích trên mọi lĩnh vực công tác, góp phần ổn định tình hình, phát triển kinh tế - xã hội huyện nhà.
Đầu Xuân năm 1975, thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Hương Khê huy động tổng lực sức người, sức của chi viện cho chiến trường miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên - Huế. Toàn huyện đã tổ chức khám và tiễn đưa 1.327 thanh niên lên đường nhập ngũ. Sau khi giao lực lượng tổng dự bị của địa phương cho các đơn vị bộ đội chủ lực, Hương Khê cùng các địa phương tiếp tục huy động lực lượng trong một thời gian ngắn để bổ sung cho Quân khu tổ chức 4 trung đoàn bộ binh (117, 238, 15, 375) để bổ sung cho các chiến trường khi có yêu cầu.
Ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giành toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hương Khê phấn khởi và tự hào vì đã có những đóng góp xứng đáng vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Trong cuộc kháng chiến này, Hương Khê đã huy động 6.550 thanh niên lên đường nhập ngũ; 9.786 người tham gia thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến dài ngày; huy động gần 3 triệu ngày công dân công trung tuyến. Điều động công nghĩa vụ đào đắp được gần 200.000m3 đất đá, 31.200 cây tre, gỗ chống lầy,… Hương Khê có 1.965 thương binh, 1.809 liệt sĩ - những người con của quê hương anh dũng chiến đấu và hy sinh trên các mặt trận. Quân và dân Hương Khê phối hợp với các lực lượng phòng không bắn rơi 46 máy bay Mỹ, trong đó lực lượng dân quân, tự vệ độc lập bắn rơi 9 chiếc1; giữ cho các tuyến giao thông luôn thông suốt, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
(1975 - 2016)
Sau ngày đất nước thống nhất, lực lượng vũ trang huyện bước vào giai đoạn mới: cùng toàn dân nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế. Ban Chỉ huy Quân sự huyện được kiện toàn, gồm các đồng chí: Lương Đình Ước - Chỉ huy trưởng; Lê Đăng Trang - Chính trị viên; Nguyễn Hữu Nghĩa - Chỉ huy phó - Tham mưu trưởng. Ban đã tập trung cho công tác chuyển mọi hoạt động của lực lượng vũ trang từ thời chiến sang thời bình; triển khai thu hồi, quản lý sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị để chuẩn bị phục vụ nhiệm vụ mới. Mặt khác khẩn trương tập trung cho công tác giải quyết chính sách đối với thương binh, liệt sỹ; công tác khen thưởng và kỷ luật; tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm các mặt công tác trong chiến đấu.
Từ cuối năm 1977, quán triệt quy định của Bộ Quốc phòng về sẵn sàng chiến đấu, lực lượng dân quân, tự vệ được tổ chức 3 cấp: thường xuyên, tăng cường và lên cao và 3 cấp báo động, báo động cấp 3 là cấp thấp nhất, có thời gian để hành động sau khi nhận lệnh nhưng chưa triển khai; cấp 2 là sẵn sàng chiến đấu cao hơn cấp 3, các cơ sở sẵn sàng nổ súng khi có lệnh; cấp 1 là triển khai lực lượng tại vị trí chiến đấu đợi lệnh nổ súng. Đối với lực lượng thường trực có 3 trạng thái: thường xuyên, tăng cường và cao nhất.
Đầu năm 1978, tình hình biên giới Tây Nam trở nên căng thẳng do tập đoàn Pôn Pốt - Yêng Xa-ri phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Việc củng cố lực lượng dân quân, tự vệ được triển khai toàn diện: tất cả các xã, cơ quan, xí nghiệp, nông - lâm trường vừa gắn việc xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ với tổ chức lực lượng cơ động chiến đấu. Số lượng dân quân, tự vệ toàn huyện được tăng lên 40% so với năm 1977. Lâm trường Chúc A thành lập được một Trung đoàn bộ binh cơ động bảo vệ biên giới và đường 15. Hương Khê cùng các đơn vị Hương Sơn, Đức Thọ, Thành phố Vinh (Nghệ An) tổ chức Trung đoàn tự vệ chiến đấu.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, ngày 19.8.1978, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Tổ chức Đảng và tổ chức công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Cuối năm 1978, Thường vụ Huyện ủy Hương Khê quyết định giải thể Chi bộ Ban chỉ huy Quân sự huyện, thành lập Đảng bộ Quân sự huyện. Đồng chí Lương Đình Ước, Thường vụ Huyện ủy, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy Quân sự1. Ngày 03/10/1978, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành Chỉ thị về kiện toàn Cơ quan Quân sự cấp tỉnh, cấp huyện. Lực lượng dân quân, tự vệ cũng được củng cố và nâng cao chất lượng lên một bước, nhất là vùng xung yếu trong nội địa và biên giới. Thực hiện chủ trương xây dựng “pháo đài quân sự huyện” của Trung ương, Hương Khê tập trung xây dựng Kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản; xây dựng làng, xã, xí nghiệp, công - nông - lâm trường chiến đấu; cụm chiến đấu liên hoàn; hệ thống điểm tựa; đồng thời quân sự hóa toàn dân. Năm 1978, Hương Khê tuyển và giao quân đạt 100,1% kế hoạch.
Ngày 17/02/1979, bọn phản động trong giới cầm quyền Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân khu, toàn bộ lực lượng dân quân, tự vệ và quân dự bị động viên được đặt trong tình trạng thời chiến, khẩn trương làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất cấp huyện, cấp xã được thành lập, do đồng chí Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện và Xã đội trưởng các xã làm Trưởng ban. Các Ban này có nhiệm vụ lãnh đạo chỉ huy thống nhất, chặt chẽ các lực lượng vũ trang địa phương (bộ đội, công an và dân quân, tự vệ), động viên toàn dân sẵn sàng tham gia chiến đấu, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, huy động lực lượng phía sau lên phía trước, phát hiện và đập tan các cuộc bạo loạn trong nội địa.
Sau thành lập, Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất huyện triển khai một số nhiệm vụ cấp bách, gồm: tổ chức xây dựng lực lượng, xây dựng công trình phòng thủ kiên cố (các công sự); triển khai nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng bổ sung quân cho bộ đội thường trực; tổ chức lực lượng phòng không nhân dân các cấp. Trước mắt, tập trung huấn luyện theo yêu cầu “sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chiến đấu được ngay”. Với sự nỗ lực của Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất huyện, xã và các ban, ngành các cấp, trong một thời gian ngắn, các địa phương trong tỉnh đã huy động được 76.000 thanh niên nhập ngũ và làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, góp phần tổ chức Sư đoàn Bộ binh 348 (tháng 4/1979), 2 đại đội đặc công, khôi phục nhanh được 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương… Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất của Hương Khê được củng cố gồm các đồng chí: Lương Đình Ước - Chỉ huy trưởng; Lê Đăng Trung - Chính trị viên; Nguyễn Thế Nghĩa - Chỉ huy phó - Tham mưu trưởng.
Để làm tốt nhiệm vụ chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, ngày 31/5/1982, Quân khu IV hoàn chỉnh Đề án “Kiên quyết đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch trên địa bàn Quân khu IV”. Căn cứ Đề án này, Ban Chỉ huy Quân sự Hương Khê xây dựng Kế hoạch, triển khai lực lượng gồm bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ, công an và toàn dân nhằm ngăn chặn và dập tắt ngay những vụ gây rối làm mất an ninh, các vụ cháy nổ kho tàng, nhà máy, trạm trại, các vụ vượt biên trên địa bàn, bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và tài sản.
Thực hiện Kế hoạch của Bộ Quốc phòng và Quân khu IV, từ ngày 23/9 - 04/10/1985, Hương Khê cùng một số địa phương trong tỉnh tham gia đợt “Diễn tập động viên quân dự bị” (mật danh M85). Trong đó, Hương Khê đã giao 966/997 hạ sỹ quan, đạt tỷ lệ 96,9% cho lực lượng diễn tập. Đảng bộ huyện chỉ đạo chính quyền các cấp, các hợp tác xã huy động được 3 tấn gạo, 2 tấn thực phẩm và 40.000 đồng tiền mặt phục vụ đợt diễn tập1. Tham gia cuộc diễn tập, quân và dân Hương Khê thu kết quả tốt trên cả 4 mặt: bảo đảm đủ số lượng theo yêu cầu, nâng cao được nhận thức cho lực lượng dự bị, Ban Chỉ huy Quân sự rút được nhiều kinh nghiệm trong động viên quân dự bị; củng cố được niềm tin cho quần chúng nhân dân. Sau đợt diễn tập, Ban Chỉ huy Quân sự Hương Khê tổ chức tổng kết 10 năm đầu thực hiên nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc sau ngày đất nước thống nhất, cùng quân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vẫn còn những hạn chế, thậm chí khó khăn gay gắt, song quân dân Hương Khê đã vươn lên, tích cực góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng pháo đài quân sự huyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương, chi viện cho cuộc chiến tranh biên giới…
Giai đoạn 1986 - 1990: đất nước vẫn trong tình thế “vừa có hòa bình, vừa có thể xảy ra chiến tranh”. Đây là giai đoạn thử thách quyết liệt, phức tạp ở mức độ cao.
Thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị, đầu năm 1989, Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Khê quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng Quân sự gồm: đồng chí Nguyễn Xuân Hương - Bí thư Huyện ủy làm Bí thư; đồng chí Phạm Thế Khang - Phó Chỉ huy trưởng về chính trị làm Phó Bí thư; các đồng chí Trần Văn Yên - Chỉ huy trưởng, Trần Khoa - Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, Phạm Minh Trí - Trưởng Công an huyện là các ủy viên.
 Từ đây, công tác quân sự địa phương được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Cán sự Đảng Quân sự huyện. Ban Cán sự, Ban chỉ huy Quân sự huyện đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự địa phương. Về xây dựng lực lượng, đến cuối năm 1991, tổng số dân quân, tự vệ Hương Khê có 4.028 người (chiếm 3,5% dân số), trong đó lực lượng cơ động 712 người, lực lượng tại chỗ 3.068 người, lực lượng kỹ thuật các binh chủng 248 người.
Năm 1992, toàn huyện có 4.152 dân quân, tự vệ (chiếm 3,8% dân số). Quy mô biênchế: mỗi xã, thị trấn tổ chức 1 trung đội cơ động (từ 23 - 30 chiến sĩ); mỗi cơ quan, xí nghiệp tổ chức 1 tiểu đội tự vệ (từ 7 - 10 chiến sĩ); lực lượng dân quân chiến đấu tại chỗ mỗi xã, thị trấn tổ chức 3 - 5 trung đội; mỗi cơ quan, xí nghiệp 1 trung đội; riêng lực lượng thường trực chiến đấu toàn huyện tổ chức 7 trung đội 12,7 ly; các binh chủng bảo đảm khác không tổ chức riêng mà nằm trong lực lượng dân quân ở cơ sở1.
Trong những năm 1992 - 1994, một số tiêu cực đã gây ảnh hưởng xấu đến phong trào xây dựng lực lượng: huyện không hoàn thành nhiệm vụ giao quân (thiếu 12 người). Doanh trại Ban Chỉ huy Quân sự huyện xuống cấp nghiêm trọng; cán bộ chủ trì Ban phần lớn đến tuổi nghỉ hưu. Để ổn định tổ chức, cấp trên bổ nhiệm đồng chí Lê Hồng Mão làm Chỉ huy trưởng thay đồng chí Trần Văn Yên; đồng chí Nguyễn Huy Chương làm Chỉ huy phó về chính trị thay đồng chí Nguyễn Thanh Chắt.
Sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quy định số 72-QĐ/TW tháng 01/1994 về tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Thường vụ Huyện ủy ra quyết định giải thể Ban Cán sự Đảng quân sự huyện, thành lập Đảng ủy Quân sự huyện; đồng thời chỉ định 5 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ Quân sự huyện. Đồng chí Trần Khoa - Bí thư Huyện ủy làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Huy Chương - Phó Chỉ huy trưởng về chính trị làm Phó Bí thư. Về củng cố và xây dựng lực lượng: đến cuối năm 1994, tổng số dân quân, tự vệ toàn huyện có 5.566 người (chiếm 3,2% dân số), trong đó lực lượng nòng cốt 825 người; lực lượng chiến đấu tại chỗ 2.325 người; lực lượng các binh chủng khác 401 người.
Những năm 1996 - 2000, công tác quân sự địa phương được Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân sự huyện (lần thứ 2) xác định: Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng toàn dân, kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, quốc phòng với an ninh, xây dựng Hương Khê thành khu vực phòng thủ vững chắc của tỉnh; bổ sung và hoàn chỉnh các phương án kế hoạch sẵn sàng chiến đấu sát nhiệm vụ trên giao. Xây dựng Cơ quan Quân sự huyện vững mạnh toàn diện. Về củng cố và xây dựng lực lượng, chú trọng xây dựng đủ số lượng, bảo đảm chất lượng: thường xuyên bảo đảm được 525 người nòng cốt so với tổng số 26.369 người. Đến cuối năm 1997, Hương Khê có 38 đơn vị dân quân, tự vệ gồm: cấp xã 25 đơn vị, cấp thị trấn 2 đơn vị; cơ quan, xí nghiệp 11 đơn vị. Toàn huyện có 1.651 dân quân xã (riêng các xã biên giới có 480 người) 196 dân quân thị trấn, 135 tự vệ. Tất cả được biên chế thành 29 trung đội, 84 tiểu đội. Đội ngũ cán bộ quân sự xã, thị trấn 146 người, gồm 25 Xã đội trưởng, 38 Chính trị viên, 95 cán bộ trung đội, 2 Thị đội trưởng, 290 cán bộ Tiểu đội, 11 Tự vệ trưởng. Đội ngũ cán bộ chủ trì Cơ quan Quân sự huyện cũng có một số thay đổi. Năm 1996, đồng chí Trần Đình Lượng được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng thay đồng chí Lê Hồng Mão; năm 1998, đồng chí Trần Tiến Dũng được bổ nhiệm làm Phó Chỉ huy trưởng về chính trị thay đồng chí Nguyễn Huy Chương. Tháng 7/2002, đồng chí Chỉ huy trưởng Trần Đình Lượng từ trần, cấp trên chỉ định đồng chí Trần Tiến Dũng kiêm Chỉ huy trưởng.
Trong 10 năm (1990 - 2000), thực hiện nhiệm vụ A2: phòng chống “diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ”, Hương Khê tổ chức thành 8 cụm an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu. Các đồng chí Ủy viên Thường vụ, Ủy viên Ban chấp hành trực tiếp chỉ đạo cụm và từng đơn vị cơ sở. Huyện đã tổ chức diễn tập cấp huyện 4 lần vào các năm 1993, 1996, 1998, 2013; tổ chức diễn tập phòng chống gây rối, bạo loạn lật đổ cho 24 lượt đơn vị ; diễn tập tác chiến trị an cho 31 lượt đơn vị cơ sở. Huyện cũng từng bước phát huy tốt việc vận hành Cơ chế 02 của Bộ Chính trị, tăng cường phối hợp giữa Công an, Quân sự, Biên phòng, tạo sự thống nhất cho việc xây dựng và bảo vệ an ninh cơ sở trên địa bàn.
Việc xây dựng và bổ sung kế hoạch A, A2, A3 kết hợp phòng chống bão lụt, cháy nổ, bảo vệ cơ quan, đơn vị hàng năm được triển khai tích cực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng địa phương.
Trong các năm 2001 - 2005, huyện đều tổ chức báo động kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu cho các đơn vị cơ sở; đồng thời tổ chức diễn tập chiến đấu trị an, diễn tập phòng chống bão lụt cho các đơn vị. Phối hợp với bộ đội hai đồn biên phòng nắm chắc tình hình biên giới, các vùng trọng điểm. Huy động kịp thời lực lượng thường trực dân quân, tự vệ chống lụt, cứu hộ, cứu nạn ở những vùng bị thiên tai. Năm 2001, Ban chỉ huy Quân sự huyện được củng cố: tổng số có 37 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 21 sỹ quan, 14 quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng, 2 hạ sỹ quan. Lực lượng dân quân, tự vệ giảm chỉ còn 11.020 người1, trong đó quân dự bị hạng I: 2.512 người, hạng II: 8.508 người. Công tác hậu phương quân đội đã có nhiều chuyển biến: đã tổ chức góp “Quỹ tình nghĩa” được hơn 100 triệu đồng, làm mới 3 nhà bia tưởng niệm liệt sĩ, xây nhà tĩnh nghĩa và giúp đỡ các gia đình chính sách xóa nhà tranh tre dột nát; phối hợp các ngành làm thủ tục cho 1.000 hồ sơ cho những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam. Từ năm 2002, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Cơ quan quân sự huyện tiếp tục được điều chỉnh: đồng chí Hồ Thế Thu được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng, năm 2003 đồng chí Thái Bá Đức được bổ nhiệm làm Chính trị viên thay đồng chí Trần Tiến Dũng.
Từ năm 2005 - 2010, triển khai thực hiện nghị quyết Đảng bộ các cấp, đặc biệt là Nghị quyết Đảng bộ Quân sự huyện, lực lượng vũ trang huyện đẩy mạnh công tác hoàn chỉnh Kế hoạch A, A2, A3, Kế hoạch sơ tán, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai từ huyện đến xã; tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện, diễn tập chiến đấu trị an kết hợp phòng chống bão lụt, cháy rừng cho 22 xã, thị trấn. Qua các đợt kiểm tra của Quân khu và tỉnh, lực lượng vũ trang Hương Khê luôn được đánh giá là đơn vị bảo đảm quân số, thời gian, nội dung huấn luyện, hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra. Công tác khám tuyển, giao quân được tổ chức chặt chẽ, đủ chỉ tiêu, chất lượng ngày càng cao: đã tổ chức cho 650 thanh niên nhập ngũ, được Bộ Tư lệnh Quân khu IV tặng Bằng khen. Năm 2006, đồng chí Mai Văn Tuấn được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng thay đồng chí Hồ Thế Thu. Năm 2010, đồng chí Chỉ huy trưởng Mai Văn Tuấn và đồng chí Chính trị viên Thái Bá Đức nghỉ hưu, đồng chí Thái Công Anh được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Hồ Sỹ Hà làm Chính trị viên. Tháng 4/2014, đồng chí Thái Công Anh được bổ nhiệm giữ chức Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Hương Sơn, đồng chí Nguyễn Huy Hoàng – Phó Chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện được bổ nhiệm giữ chức Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện. 
Công tác xây dựng cơ sở và cụm tuyến an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu đi vào chiều sâu, có chất lượng. An ninh biên giới, an ninh nội địa được giữ vững. Công tác đấu tranh, truy quét các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội được tăng cường, kiềm chế tốc độ gia tăng tội phạm và tai nạn giao thông. Điều tra, khám phá nhanh các vụ trọng án, bắt đúng người, đúng tội, đảm bảo đúng pháp luật. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, xây dựng dòng họ, giáo họ an ninh văn hóa, làm tốt công tác cảm hóa, giáo dục người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư được đẩy mạnh. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được tổ chức tốt. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và chấp hành pháp luật có nhiều tiến bộ. Sự phối hợp giữa các ngành bảo vệ pháp luật ngày càng tốt hơn, trang thiết bị kỹ thuật, điều kiện làm việc được tăng cường.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng giai đoạn 2011 - 2015, hàng năm, lực lượng vũ trang nhân dân huyện luôn duy trì nghiêm các chế độ trực chỉ huy, trực ban, trực sẵn sàng chiến đấu; xây dựng, bổ sung và điều chính văn kiện hệ thống Kế hoạch sẵn sàng chiến đấu A, A2, A3, A4. Về xây dựng lực lượng: bộ đội thường trực được điều chỉnh đủ biên chế theo quy định; lực lượng dân quân, tự vệ đến năm 2016 có 39 đơn vị (21 xã, 1 thị trấn, 17 đơn vị tự vệ); đăng ký quản lý trong độ tuổi là 22.380 người, trong đó, lực lượng nòng cốt là 2.329 người, chiếm 2,3% dân số huyện, tỷ lệ đảng viên đạt 5%; tuyển và giao quân 435 người, đạt 100% chỉ tiêu. Duy trì nghiêm chế độ huấn luyện tại chức cho cơ quan. Tổ chức huấn luyện lực lượng dân quân, tự vệ cho 22 xã, thị trấn và 17 đơn vị cơ quan. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ huyện: quân số tham gia 1.700 người, hoàn thành kế hoạch đề ra. Tổ chức diễn tập phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ cho các xã vùng hạ du, Nhà máy thủy điện Hố Hô: quân số tham gia 1.200 người, bảo đảm an toàn tuyệt đối.
Sau gần 70 năm ra đời (1947 - 2017), xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Huyện ủy, lực lượng vũ trang Hương Khê đã lập được nhiều thành tích, giành nhiều phần thưởng cao quý. Cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang huyện cùng 17 xã (Gia Phố, Hà Linh, Hòa Hải, Hương Bình, Hương Đô, Hương Long, Hương Thủy, Hường Trà, Hương Trạch, Hương Vĩnh, Hương Xuân, Lộc Yên, Phúc Đồng, Phúc Trạch, Phú Gia, Hương Vĩnh, Phú Phong) được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”, trong đó xã Gia Phố được phong tặng hai lần (“Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” và “Anh hùng Lao động” thời kỳ đổi mới). Toàn huyện có 4 cá nhân được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” gồm: Võ Hồng Tuyên (quê xã Hương Mai); Hán Duy Long (quê xã Hương Trạch); Hồ Đức Tự (quê xã Hương Mỹ); Phan Châu Mỹ (quê xã Phúc Đồng) và 108 “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”1.

Tháng 12/1945, Đảng bộ Hương Khê tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ II. Một số nội dung quan trọng được Đại hội hết sức quan tâm là việc thành lập Huyện ủy chính thức, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Tại Đại hội này, đồng chí Mai Minh (quê xã Hương Long), Ủy viên Thường vụ được giao phụ trách Công an. Tổ chức Công an huyện lúc này chỉ được biên chế một số ít cán bộ.
Ngoài lực lượng công an huyện được biên chế, ở các xã đều có 1 đồng chí Ủy viên Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phụ trách quân sự và an ninh.
Cùng với việc ra đời của ngành Công an, Tòa án Hương Khê cũng được thành lập. Đồng chí Nguyễn Nho Trân, Huyện ủy viên, Chủ tịch Ủy ban hành chính2 xã Hương Đô được cử làm Chánh án; đồng chí Phan Thị Thuận là Thư ký. Tuy còn ít nhưng lực lượng nòng cốt làm công tác gữ gìn an ninh, trật tự xã hội đã phối hợp tốt với lực lượng dân quân, du kích khẩn trương triển khai nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo vệ nhân dân, bảo đảm an ninh, trật tự xã hội trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng.
Thực hiện chủ trương “toàn quốc kháng chiến” của Trung ương, cuối tháng 02/1947, Hương Khê chuyển toàn bộ mọi hoạt động sang thời chiến. Ngành Công an cũng được tổ chức lại: Công an Hương Khê được gọi là Công an Quận II, do đồng chí Mai Minh làm Quận trưởng, đồng chí Trần Tùng Hương làm Quận phó, đồng chí Dương Duyên phụ trách Văn phòng; có 5 đồng chí cán bộ, được chia làm hai bộ phận là điều tra và trật tự.
Đến tháng 10/1947, Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Tĩnh ra Nghị quyết số 10 về xây dựng lực lượng công an xã: Tổ chức công an xã có Trưởng ban và Phó ban, gồm hai bộ phận: điều tra và trật tự. Bộ phận điều tra có nhiệm vụ theo dõi, phát hiện tình hình địch, cung cấp tin tức đầu mối cho công an đồn, quận. Bộ phận trật tự chuyên lo giữ gìn trật tự trị an.
Tháng 8/1948, thực hiện Nghị quyết số 219 của Chính phủ, Bộ Nội vụ ra Chỉ thị 113 về tăng cường củng cố lực lượng công an trong cả nước. Công an Quận II và công an các xã trong huyện được củng cố thêm một bước cả về hệ thống tổ chức và chất lượng. Ban Công an xã do 1 đồng chí trong cấp ủy phụ trách, ở xóm có công an viên.
Những năm 1948 - 1950, ngoài lực lượng Công an Quận II, ở Hương Khê còn có lực lượng Công an đặc biệt gọi là Công an Quận B, thuộc Công an Liên Khu IV, có nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự cho hai An toàn khu: An toàn khu 1 (ATK1) ở Hòa Hải và An toàn khu 2 (ATK2) gồm 5 xã phía Bắc huyện (năm 2000 cắt về huyện Vũ Quang). Đến cuối năm 1950, Công an Quận B sáp nhập vào Công an Hà Tĩnh.
Trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến (1946 - 1950), cùng với nhiệm vụ củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng, Công an Quận II đã làm tốt nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự xã hội, đấu tranh có hiệu quả đối với bọn phản cách mạng và các loại tội phạm, đặc biệt là bọn phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa; phối hợp với các lực lượng khác bảo vệ vững chắc hậu phương, tích cực chi viện tiền tuyến.
Cuối năm 1952, đồng chí Mai Minh, Quận trưởng Quận II được bổ nhiệm làm Phó Ty Công an Hà Tĩnh, đồng chí Hoàng Mỹ (người xã Hương Thủy) được bổ nhiệm làm Quận trưởng Quận II. Thực hiện Quyết định số 09/QĐ ngày 03/01/1952 của Bộ Nội vụ về việc giải thể quận công an để thành lập huyện công an, Công an Quận II được đổi tên thành Huyện Công an Hương Khê. Đồng chí Hoàng Mỹ được cử làm Huyện trưởng Công an, đồng chí Trần Tùng Hương làm Huyện phó. Khi đồng chí Trần Tùng Hương được điều động làm Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh, đồng chí Lê Công Ba được bổ nhiệm làm Huyện phó. Ngoài ra, Huyện Công an còn có 3 cán bộ khác là Lê Hữu Mưu, Bùi Đình Trúc, Trần Ước. Đến cuối năm 1952, Huyện Công an vẫn chưa có trụ sở làm việc, còn ở nhờ nhà dân. Tuy nhiên, lực lượng công an huyện đã vượt lên mọi khó khăn, phối hợp tốt với lực lượng công an xã và các lực lượng khác, chủ yếu là lực lượng quân sự trong huyện hoàn thành nhiệm vụ: vừa củng cố tổ chức vừa hậu thuẫn vững vàng cho quần chúng nhân dân đấu tranh trấn áp bọn phản động, điển hình là vụ Tây Hồ (Lộc Yên).
Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, lực lượng công an của huyện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Chính quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ vững chắc địa bàn, các lực lượng quân sự, công an, tòa án, viện kiểm sát còn góp phần quan trọng xây dựng Hương Khê trở thành hậu phương chiến lược vững chắc, căn cứ địa trực tiếp cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, các cơ quan của Ủy ban hành chính Trung Bộ và cho cuộc kháng chiến của quân và dân Lào.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Hương Khê gặp nhiều khó khăn: Nền kinh tế còn hết sức nghèo nàn và lạc hậu; hậu quả của cuộc chiến tranh chống Pháp để lại khá nặng nề; bọn phản động ra sức chống phá... Lúc này, công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội để nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, củng cố và ổn định xã hội, phát triển kinh tế là hết sức quan trọng.
Đầu 1955, đồng chí Hoàng Mỹ được điều chuyển nhận nhiệm vụ khác, Thường vụ Huyện ủy bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Kim Diệm (xã Phú Phong) làm Trưởng huyện Công an. Đến năm 1957, đồng chí Nguyễn Kim Diệm nhận nhiệm vụ mới, tỉnh điều động đồng chí Hoàng Mỹ về lại làm Trưởng huyện Công an. Tháng 12/1958, Thường vụ Huyện ủy phân công đồng chí Hoàng Mỹ làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, đồng chí Lê Hữu Kính (xã Hương Xuân) được bổ nhiệm làm Trưởng huyện Công an; các đồng chí Lê Công Ba - Phó huyện Công an; cán bộ có các đồng chí Bùi Đình Trúc, Trần Hữu Mưu, Trần Ước… Trụ sở làm việc có 3 gian nhà gỗ và một số bàn ghế. Cơ quan Công an và Tòa án làm việc gần nhau tại Thị trấn Chu Lễ.
Trong Cải cách ruộng đất (được tổ chức từ tháng 6/1956 - 6/1957)1: các lực lượng quân sự, công an đã góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn để Cải cách ruộng đất tiến hành thuận lợi. Từ tháng 6/1957 đến năm 1960, thực hiện Kế hoạch 3 năm cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân theo chủ nghĩa xã hội, lực lượng công an huyện và xã cũng đã tích cực tham gia vận động mọi tầng lớp nông dân (lương và giáo) vào tổ đổi công, rồi hợp tác xã nông nghiệp, góp phần ổn định xã hội và phát triển kinh tế.
Tháng 12/1960, sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV, Huyện ủy Hương Khê phân công đồng chí Lê Hữu Kính, Trưởng huyện Công an làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện; đồng chí Lê Công Ba (quê Can Lộc) - Phó huyện Công an được bổ nhiệm làm Trưởng huyện Công an; đồng chí Võ Lan được bổ nhiệm làm Phó huyện Công an. Đến giai đoạn này, về tổ chức, Huyện Công an vẫn chưa có nhiều thay đổi.
Từ giữa năm 1961, địch tăng cường tung lực lượng thám báo, biệt kích xâm nhập, gia tăng các hoạt động chống phá miền Bắc. Ngày 05/6/1961, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ thị cho các địa phương đề phòng và chuẩn bị đối phó với âm mưu tung gian điệp, biệt kích phá hoại của địch. Thực hiện chỉ thị này, các lực lượng quân sự, công an, công an nhân dân vũ trang1 đã phối hợp bàn kế hoạch đối phó cụ thể, phân công cán bộ về giúp các xã xây dựng kế hoạch chống gián điệp, biệt kích. Đến tháng 7/1961, Hương Khê cơ bản hoàn thành Kế hoạch phòng thủ chống biệt kích và bắt đầu đi vào huấn luyện và diễn tập thực binh theo các phương án.
Đầu năm 1962, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 39-NQ/TW về “Tăng cường đấu tranh chống bọn phản cách mạng để phục vụ tốt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ, yêu cầu, nguyên tắc, phương châm cơ bản đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng. Về nhiệm vụ, Nghị quyết nêu: Động viên toàn Đảng, toàn dân tiến hành trấn áp bọn phản cách mạng một cách kiên quyết, chủ động; kịp thời đập tan mọi âm mưu phá hoại, gây bạo loạn, giữ vững an ninh, trật tự ở miền Bắc, bảo vệ nội bộ thật chặt chẽ. Trong quá trình đấu tranh, nắm vững nguyên tắc cơ bản là: tích cực bảo vệ mình, chủ động tiêu diệt địch, dựa hẳn vào quần chúng, kết hợp tốt tính tích cực của quần chúng với các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn.
Thực hiện Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị, các lực lượng giữ gìn an ninh, trật tự của Hương Khê được củng cố thêm một bước, tích cực nắm tình hình địa bàn, cảnh giác và kịp thời đối phó với mọi tình huống xẩy ra.
Đúng như Trung ương dự đoán, Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã tung nhiều toán gián điệp, biệt kích vào Hà Tĩnh. Lực lượng công an Hương Khê đã làm tốt công tác chống gián điệp, biệt kích trên địa bàn. Điển hình là vụ vây bắt toán gián điệp biệt kích gồm 6 tên nhảy dù xuống vùng rừng Lâm trường Trại Trụ ngày 10/6/1963. Hai là toán biệt kích do Trần Kim Phú làm Toán trưởng từ Lào xâm nhập địa bàn Hương Khê. Với tinh thần cảnh giác cao độ, lực lượng an ninh Hương Khê phối hợp chặt chẽ với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh đã bắt gọn toàn bộ toán biệt kích này1. Qua khai thác, lực lượng an ninh nắm rõ hơn âm mưu phá hoại miền Bắc của địch: Tên toán trưởng Trần Kim Phú (quê xã Hương Vĩnh) được Mỹ - Diệm giao chỉ đạo đường dây giao liên Thà-khẹt (Lào) - Hương Khê.
Nhìn chung, sau 10 năm củng cố và xây dựng (1954 - 1964), lực lượng vũ trang (bao gồm sĩ quan, chiến sĩ thuộc Huyện đội, Công an, dân quân các xã, thôn, tự vệ các cơ quan, nông - lâm trường) được tăng cường về số lượng, củng cố và nâng cao chất lượng và có sự phối hợp tốt với Tòa án, Viện kiểm sát. Các hoạt động bảo mật, phòng gian, truy bắt gián điệp, biệt kích được chú trọng; tập trung triệt phá đường dây tìm cách vượt biên qua Lào vào Nam của những các phần tử nghi vấn từ các tỉnh thuộc Bắc Bộ vào. Bởi vậy, công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội luôn được giữ vững, góp phần quan trọng cùng toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong giai đoạn tiếp theo.
Tháng 02/1965, Mỹ tiếp tục cho máy bay ném bom đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), Thị xã Đồng Hới (Quảng Bình), chính thức phát động cuộc chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Mục tiêu chính những năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại là hệ thống giao thông của miền Bắc.
Hương Khê là huyện vừa có tuyến đường sắt chạy dọc huyện với 5 ga, tuyến đường 15 (lúc này còn được gọi là đường giao liên) đi qua, vừa có sông Ngàn Sâu - là tuyến đường thủy huyết mạch, nơi tập kết hàng hóa trung chuyển vào Nam vừa là nơi trung chuyển lực lượng bộ đội và thương binh vào - ra chiến trường; nơi có nhiều kho, trạm quan trọng. Bởi vậy, công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đặt ra hết sức cấp bách. Các lực lượng quân đội, công an vừa chủ động sẵn sàng chiến đấu, vừa giúp đỡ các cơ quan, xí nghiệp và nhân dân sơ tán để phòng tránh máy bay địch; đồng thời tập trung đẩy mạnh nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự. Trước hết, lực lượng Công an huyện và các xã phối hợp chỉ đạo thực hiện Phong trào bảo vệ trật tự trị an, thực hiện tốt “3 không, 3 phòng” trong toàn dân. Lập kế hoạch di chuyển (hoặc cưỡng bức cư trú) những đối tượng có nghi vấn ra xa các mục tiêu quan trọng; lập hồ sơ bắt tập trung cải tạo 12 tên thuộc loại nguy hiểm nhằm loại trừ khả năng gây bạo loạn. Xây dựng phương án cụ thể, triển khai thực hiện kế hoạch bảo vệ các lực lượng (nhân - tài - vật lực) tăng cường cho cách mạng miền Nam. Giao nhiệm vụ cho công an xã có kế hoạch kiểm tra, vận động quần chúng bảo vệ tốt tài sản, hàng hóa cho miền Nam đang gửi ở các kho và trong nhà dân.
Năm 1966, mức độ đánh phá của máy bay Mỹ vào Hương Khê tăng gấp nhiều lần so với năm 1965. Công an Hương Khê được tăng cường thêm 10 biên chế, nâng tổng số cán bộ lên 20 đồng chí. Đồng chí Võ Lan được cử làm Huyện trưởng Công an, đồng chí Nguyễn Văn Thông làm Huyện phó. Tổ chức gồm 6 bộ phận: An ninh chính trị; Điều tra hình sự; Xây dựng lực lượng; Quản lý hành chính; Giao thông, trật tự; Tham mưu tổng hợp, hậu cần. Thực hiện sự chỉ đạo của Công an tỉnh, Công an Hương Khê triển khai nhiệm vụ tiếp tục điều tra, bắt, xét xử, tập trung cải tạo những phần tử gây nguy hại đến an ninh, trật tự xã hội. Đối với những nơi xung yếu như ở Trại Trụ, Vũ Quang, Hương Lâm, Hương Liên, Chúc A: tiếp tục củng cố lực lượng cơ sở, tiến hành làm trong sạch địa bàn; sử dụng các biện pháp trinh sát nắm tình hình, chủ động đối phó khi địch tập kích hoặc đổ bộ.
Từ năm 1966 - 1968, phong trào bảo vệ trị an, bảo mật phòng gian trên địa bàn luôn được giữ vững; ý thức cách mạng của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhờ đó mà ngay cả những tháng ném bom hạn chế hết sức ác liệt (từ tháng 4 - 10.1968), hàng hóa, tài sản của Nhà nước gửi trên địa bàn đều được bảo vệ an toàn tuyệt đối. Những kẻ lạ mặt, phần tử xấu xuất hiện trên địa bàn đều được phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời. Điển hình là vụ án năm 1967: lợi dụng lúc các lực lượng đang bốc hàng ban đêm tại bến đò Trúc, kẻ gian đã bốc trộm một số mì chính, lương khô, quần áo, tăng bạt của bộ đội lên thuyền chạy trốn. Bị quần chúng phát hiện, Công an huyện đã điều tra làm rõ vụ án. Tòa án nhân dân huyện đã xử phạt tên cầm đầu 12 năm tù về tội ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Vụ án năm 1968: Thủ kho Cửa hàng bách hóa huyện đóng tại xã Lộc Yên đã trộm hàng hóa trong kho, sau đó lợi dụng ban đêm khi máy bay địch đến đánh phá đốt kho, làm cháy gần hết số hàng hóa còn lại và cho rằng máy bay địch ném bom cháy kho. Lực lượng Công an huyện và xã phối hợp điều tra khám phá làm rõ vụ việc. Đối tượng gây án bị Tòa án nhân dân huyện xử phạt 12 năm tù.
Sau Đại hội Đảng bộ huyện, tháng 12/1969, đồng chí Võ Lan được điều động về Công an tỉnh, đồng chí Trần Đường được bổ nhiệm làm Trưởng Công an huyện; đồng chí Bùi Đình Trúc (quê Hương Bình) làm Phó Công an huyện (trước đó, năm 1968 đồng chí Nguyễn Văn Thông - Phó Công an huyện được điều động tăng cường cho chiến trường miền Nam). Biên chế tổ chức Công an huyện năm 1969 có 22 đồng chí, được chia làm 7 tổ công tác, gồm 6 bộ phận cũ và thêm bộ phận Cơ yếu, bảo vệ. Đến năm 1973, đồng chí Bùi Đình Trúc, Phó Công an huyện được điều về Công an tỉnh, đồng chí Nguyễn Trọng Ái (quê Đức Thọ) được bổ nhiệm làm Phó Công an huyện. Đầu năm 1974, đồng chí Ái nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Bùi Bốn (quê Thạch Hà) được bổ nhiệm làm Phó Công an huyện. Cuối năm 1974, các đồng chí Bùi Bốn cùng các đồng chí Nguyễn Quốc Lập, Nguyễn Khắc Hán và Dương Chung được điều động cho chiến trường miền Nam.
Trong cuộc kháng chiến chông Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), các lực lượng quân đội, công an, tòa án, viện kiểm sát đã vượt qua mọi khó khăn, đặc biệt là sự khốc liệt của cuộc chiến tranh phá hoại, vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương, góp phần xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, giữ vững và phát triển kinh tế, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Sau ngày đất nước thống nhất, các lực lượng chức năng đã phối hợp với các cấp, các ngành đấu tranh chống gián điệp, phản động thời hậu chiến và trấn áp các loại tội phạm hình sự như các ổ nhóm cướp giật, trộm cắp, ... củng cố tổ chức lực lượng.
Cuối năm 1975, tỉnh điều đồng chí Đinh Thích (quê Đức Thọ) về làm Phó Công an huyện. Năm 1977, Công an Hương Khê thành lập thêm một Trạm Công an đường sắt tại ga Hương Phố, gồm 4 đồng chí. Cũng trong năm 1977, đồng chí Đinh Thích được điều chuyển làm nhiệm vụ mới, tỉnh điều đồng chí Đoàn Ngọc Quyến (quê Đức Thọ) làm Phó Công an huyện. Trong hai năm 1978 - 1979, khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc xẩy ra, tỉnh điều đồng chí Hồ Bá Thành - Phó Công an huyện vào chiến trường Căm-pu-chia, đồng chí Đậu Quang Chín (quê Nam Đàn) được đề bạt làm Phó Công an huyện và sau đó chuyển tăng cường cho Công an tỉnh Lai Châu. Đầu năm 1980, đồng chí Đoàn Ngọc Quyến - Phó Công an huyện nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Tôn Tích Việt (quê Thanh Chương) và đồng chí Nguyễn Văn Mậu (quê Lộc Yên) được bổ nhiệm làm Phó Công an huyện. Cuối năm 1981, đồng chí Mậu - Phó Công an huyện đi học nghiệp vụ, tỉnh điều động đồng chí Phạm Minh Trí (quê Phương Mỹ) làm Phó Công an huyện. Đầu năm 1985, tỉnh tiếp tục điều đồng chí Nguyễn Văn Thìn (quê Đức Thọ) về làm Phó Công an huyện. Cuối năm 1985, đồng chí Phạm Minh Trí được bổ nhiệm làm Trưởng Công an huyện thay đồng chí Trần Đường nghỉ hưu; đồng chí Tôn Tích Việt chuyển về Công an tỉnh, các đồng chí Trần Bình Xuân (quê Hà Linh), Nguyễn Văn Thông (quê Lộc Yên), Lê Xuân Trình (quê Hương Minh) được đề bạt làm Phó Công an huyện.
Đi đôi với việc củng cố tổ chức, các lực lượng công an, quân đội, tòa án, viện kiểm sát Hương Khê tích cực phối hợp các ngành, các cấp điều tra, khám phá và xét xử nhiều vụ án. Điển hình là vụ án năm 1979 ở Gia Phố: kẻ gây án giết 4 người con của ông Lai Văn Tiến ở Gia Phố rồi vứt xác xuống giếng, sau đó đốt nhà để phi tang. Với tinh thần kiên quyết tấn công tội phạm, Công an huyện đã phối hợp với các phòng nghiệp vụ Công an tỉnh làm rõ đối tượng, đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật, được nhân dân khen ngợi.
Từ năm 1981, thực hiện các Thông tư liên Bộ Quốc phòng - Nội vụ về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để toàn quân, toàn dân thực hiện thành công các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng quân đội, công an kết hợp chặt chẽ với nhau xây dựng phương án tác chiến: xác định các khu vực trọng điểm trên địa bàn; thường xuyên duy trì tốt chế độ trực ban, trực chỉ huy; thực hành báo động kiểm tra cả đột xuất và thường xuyên; bảo vệ tốt tài sản của Nhà nước và nhân dân trên địa bàn.
Trong giai đoạn 1975 - 1986, Công an huyện phối hợp bộ đội địa phương, các đồn biên phòng và công an các xã biên giới vừa tuyên truyền phổ biến cho nhân dân hiểu rõ Hiệp định biên giới Việt - Lào và Luật biên giới Quốc gia, vừa có các hình thức xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp cố tình vượt biên, nhằm từng bước chấm dứt tình trạng vượt biên trái phép, giữ vững ổn định địa bàn.
Hương Khê là địa bàn thuộc vùng giáo trọng điểm. Trong thời gian này, các hoạt động như lấn lướt chính quyền, thành lập các hội, đoàn trái với Chính sách Tôn giáo của Đảng tiếp tục xảy ra. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, các lực lượng chức năng đã chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu cho cấp ủy và chính quyền các cấp, phối hợp với Mặt trận, Ban Tôn giáo xử lý và giải quyết kịp thời các hoạt động sai trái, ổn định tình hình vùng giáo. Từ đó, giữ vững được mối đoàn kết lương - giáo, được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ.
Từ sau chiến tranh biên giới năm 197 - 1979, kinh tế có nhiều sa sút, lạm phát ngày càng tăng, đời sống của cán bộ, nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là sau đổi tiền (1978, 1985). Những tác động xấu của vấn đề điều chỉnh cơ chế về giá - lương - tiền… đã làm cho công tác an ninh, trật tự xã hội ngày càng gay gắt: nhiều vấn đề tồn tại chưa thể giải quyết được. Trong đó, công tác an ninh vẫn trong tình trạng chưa quản lý và nắm chắc tình hình, nhiều vụ trộm cắp trên các phương tiện giao thông, hiện tượng tham ô trong các cửa hàng lương thực, thực phẩm; một số người ở các địa phương khác đến khai thách lâm, thổ sản vô tổ chức... vẫn xẩy ra. Tệ nạn mê tín dị đoan, lừa đảo, cờ bạc nảy nở…
Cuối năm 1985 đầu 1986, mặc dầu tình hình kinh tế - xã hội đã được cải thiện một bước sau Chỉ thị 100-CT/TW (tháng 01/1981) của Ban Bí thư Trung ương về Cải tiến công tác khoán: mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vì thế ở nhiều nơi còn phức tạp.
Từ năm 1987 - 2016: Sau Đại hội Đảng toàn quốc thứ VI (được tổ chức vào tháng 12/1986), sự nghiệp đổi mới được bắt đầu bằng đổi mới trong lĩnh vực kinh tế. Đảng và Nhà nước thừa nhận nền kinh tế nước ta đa thành phần, trong đó kinh tế tư nhân và kinh tế có yếu tố nước ngoài (liên doanh, hoặc 100% vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài - FDI) lần đầu tiên được thừa nhận; lấy cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay cho cơ chế Kế hoạch hóa tập trung tồn tại từ năm 1960 đến năm 1986 - cơ chế bao cấp.
Điều này đã làm cho một số cán bộ, đảng viên lo lắng về hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, mặt trái của cơ chế thị trường từng bước tác động xấu lên nhận thức và hành động của cán bộ và nhân dân, làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Đây cũng chính là cơ hội để các thế lực phản động tuyên truyền, nói xấu chế độ, kích động các phần tử phản động chống đối, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Để làm tốt công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, Huyện ủy chỉ đạo lực lượng công an phối hợp với lực lượng quân sự thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật và các âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm cho toàn dân, làm tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh trấn áp tội phạm. Từ đó làm chuyển biến về nhận thức của quần chúng nhân dân, đặc biệt là ý thức trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành.
Kết quả từ năm 1987 - 2006: đã điều tra làm rõ, xử lý nghiêm hàng trăm vụ án hình sự, kinh tế, ma túy; triệt phá hàng chục băng nhóm trộm cướp, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích, bắt hàng trăm đối tượng, thu hồi tài sản cho Nhà nước ước tính gần 2 tỷ đồng; vận động 150 đối tượng có lệnh truy nã ra đầu thú, trong đó có nhiều đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm; lập hồ sơ đưa đi cơ sở giáo dục, giáo dưỡng 115 đối tượng; đưa vào quản lý giáo dục tại xã, thị trấn 767 đối tượng. Ngoài ra, công an các xã, thị trấn còn phát hiện điều tra làm rõ, xử lý mỗi năm trên 300 vụ việc hình sự nhỏ theo thẩm quyền của mình[2].
Trong công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy (được tiến hành từ năm 1998), các lực lượng chức năng đã làm tốt công tác tuyên truyền kết hợp với đấu tranh. Năm 2001: phá chuyên án C901, bắt 4 đối tượng buôn bán ma túy, thu 56 gói hêrôin. Nhìn chung, tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn chưa phức tạp. Có 4/22 xã, thị trấn có đối tượng sử dụng chất ma túy. Không có ổ nhóm, tụ điểm buôn bán, tiêm chích ma túy. Toàn huyện có 12 đối tượng có hồ sơ quản lý. Năm 2016, Hương Khê tập trung xây dựng huyện sạch về ma túy. Công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông cũng được triển khai tích cực. Ban An toàn giao thông huyện do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trực tiếp làm Trưởng ban. Tình hình an ninh trật tự giao thông ở Hương Khê được kiểm soát, không phức tạp như các địa bàn khác.
Lực lượng công an tiếp tục được củng cố và tăng cường. Lãnh đạo Công an huyện có 3 đồng chí: đồng chí Phạm Minh Trí - Trưởng Công an; đồng chí Nguyễn Văn Thông và Lê Xuân Trình là Phó Công an. Tổng quân số có 50 cán bộ, chiến sỹ, được phân thành 7 đội, 1 trạm công tác. Cuối năm 1992, đồng chí Nguyễn Văn Thông được điều động bổ nhiệm làm Trưởng Công an huyện Cẩm Xuyên.
Năm 1994, đồng chí Trần Bình Xuân nhận nhiệm vụ mới, tỉnh bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Trí Phúc làm Phó Công an huyện. Năm 1994, Trạm Công an Vũ Quang được thành lập do đồng chí Đặng Quốc Vượng làm Trạm trưởng.
Năm 1996, đồng chí Phạm Minh Trí nghỉ hưu, đồng chí Lê Xuân Trình được bổ nhiệm làm Trưởng Công an huyện, đồng chí Đặng Quốc Vượng (quê Cẩm Xuyên) làm Phó Công an huyện. Tổng số công an huyện năm 1996 có 52 cán bộ, chiến sỹ.
Đầu năm 1999, tỉnh điều động đồng chí  Trần Bình Xuân - Phó phòng PV28 về làm Phó Công an huyện trực tiếp phụ trách Trạm Công an Vũ Quang. Cũng trong năm 1999, tỉnh quyết định thành lập Đội cảnh sát phòng chống ma túy Hương Khê gồm 2 đồng chí. Đơn vị lúc này có 9 đội công tác và 1 trạm. Tổng số cán bộ, chiến sĩ có 60 đồng chí.
Cuối năm 2002, theo yêu cầu nhiệm vụ, tỉnh đề bạt đồng chí Trần Đình Nhị (quê Hương Long) làm Phó Công an huyện. Năm 2004, thực hiện Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự mới, Công an Hương Khê sáp nhập 3 đội: Cảnh sát phòng chống ma túy, Cảnh sát hình sự, Cảnh sát điều tra thành Đội cảnh sát điều tra tội phạm và trật tự xã hội. Tổ chức Công an huyện thời điểm này có 7 đội công tác, 7 chi bộ, 52 đảng viên.
Từ tháng 8.2000, tuy cắt 5 xã về huyện mới Vũ Quang, song Hương Khê vẫn là một huyện lớn, dân cư phân tán, dân số ngày càng đông. Tính đến năm 2004, dân số toàn huyện có 106.235 người, phân bố trên 22 xã, thị trấn; đồng bào theo đạo Thiên Chúa chiếm 25%.
Trong thời gian từ năm 1990 - 2004, trên tuyến biên giới vẫn còn tình trạng vượt biên trái phép để khai thác lâm sản, săn bắt chim thú, trao đổi hàng hóa. Năm 1998 - 2000 xảy ra một số vụ trấn cướp trên tuyến biên giới. Hoạt động tôn giáo vẫn diễn biến khá phức tạp như xây dựng cơi nới nhà thờ, lôi kéo quần chúng; một số linh mục hoạt động trái với quy định của pháp luật như tự thành lập hội, đoàn. Trong các xã vẫn còn xảy ra tranh chấp đất đai, khiếu kiện vượt cấp làm phức tạp tình hình. Hoạt động của bọn tội phạm có chiều hướng gia tăng: hàng năm xảy ra 35 đến 40 vụ phạm pháp hình sự với nhiều tội danh khác nhau. Ma túy đã xâm nhập vào địa bàn; tai nạn giao thông có chiều hướng gia tăng.
Trước tình hình trên, Huyện ủy tập trung chỉ đạo lực lượng quân đội, công an, các ngành, các cấp cùng toàn dân đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tập trung truy quét các loại tội phạm; ngăn chặn và giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, không để xảy ra điểm nóng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở vững mạnh, an toàn, làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Xây dựng tốt khu vực phòng thủ, đặc biệt là kế hoạch phòng thủ dân sự. Trong xây dựng Kế hoạch phòng thủ, lực lượng quân sự, công an là cơ quan trung tâm hiệp đồng, chủ động tham mưu và xây dựng kế hoạch A, A2, A3. Hàng năm tổ chức diễn tập kiểm tra, bổ sung các nội dung sát với yêu cầu nhiệm vụ, sát với diễn biến tình hình các đơn vị trên địa bàn. Từ năm 1989 - 2014, đã tổ chức 7 lần kiểm tra phương án tác chiến trong khu vực phòng thủ huyện; tổ chức diễn tập phòng thủ cấp huyện 4 lần; các xã, thị trấn đều tổ chức ít nhất 2 lần diễn tập chiến đấu trị an.
Về củng cố và xây dựng lực lượng: năm 2008, đồng chí Trần Đình Nhị nhận nhiệm vụ mới ở huyện Vũ Quang, cấp trên bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Công Mạnh, Đội trưởng Phòng PA61 Công an tỉnh về làm Phó Công an huyện. Năm 2009, đồng chí Lê Xuân Trình - Trưởng Công an huyện về nhận nhiệm vụ mới ở Công an tỉnh, cấp trên bổ nhiệm đồng chí Đặng Quốc Vượng - Phó Công an huyện làm Trưởng Công an huyện; đồng chí Phan Xuân Công và đồng chí Phạm Thanh Hải được bổ nhiệm làm Phó Công an huyện. Năm 2011, đồng chí Nguyễn Trí Phúc - Phó Công an huyện nghỉ hưu, cấp trên bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Quốc Ân giữ chức Phó Công an huyện. Đến năm 2012, Công an huyện có 9 đội công tác với 84 cán bộ, chiến sỹ. Năm 2015, đồng chí Phan Xuân Công - Phó Công an huyện được bổ nhiệm làm Trưởng Công an huyện thay đồng chí Đặng Quốc Vượng nghỉ hưu. Hai đồng chí Dương Văn Thành và Hà Hải Long được bổ nhiệm làm Phó Công an huyện. Tháng 3/2016, đồng chí Lê Xuân Dũng được bổ nhiệm làm Phó Công an huyện.
Đến cuối năm 2016, lực lượng bộ đội thường trực và công an huyện được biên chế đúng, đủ theo quy định. Lực lượng dân quân, tự vệ toàn huyện có 39 đơn vị. Số dân quân, tự vệ nòng cốt 2.329 người, chiếm tỷ lệ 2,3% dân số toàn huyện. Đăng ký quản lý độ tuổi dân quân rộng rãi có 22.380 người. Đăng ký, quản lý quân nhân dự bị hạng nhất có 1.415 người, hạng hai có 6.800 người1. Đi đôi với nhiệm vụ xây dựng và củng cố lực lượng, các lực lượng quân đội (chủ lực, biên phòng), công an phối hợp với các ngành, các cấp triển khai có hiệu quả công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuyên truyền sâu rộng và đẩy mạnh thực hiện phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc và phương án chống địch, giữ vững an ninh vùng biên, đường không; giữ vững an ninh vùng giáo, an ninh nông thôn, an ninh nội bộ, an ninh văn hóa. Tiếp tục đẩy mạnh tấn công truy quét tội phạm, giải quyết ổn định 6 điểm tranh chấp địa giới, 3 điểm khiếu kiện tập thể, ổn định tình hình trị an trên địa bàn.
Kế thừa và phát huy những thành tích đạt được trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của  Đảng bộ và chính quyền các cấp, trong giai đoạn 1975 - 2017, các lực lượng chức năng mà nòng cốt là quân đội, công an, tòa án, viện kiểm sát đã làm tốt chức năng nhiệm vụ của mình, luôn bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, góp phần vào những thắng lợi to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong công cuộc đổi mới, từng bước đưa Hương Khê trở thành một huyện giàu mạnh của tỉnh Hà Tĩnh.







Các đồn biên phòng: Trước năm 2000, khi chưa thành lập huyện Vũ Quang, trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào của Hương Khê có 3 đồn biên phòng là:
Đồn Trại Trụ (hay Đồn Phú Gia): phiên hiệu là Đồn 16, Đồn 97 và nay là Đồn 5711;
Đồn Bản Giàng: phiên hiệu là Đồn 15, Đồn 99 và nay là Đồn 575;
Đồn Vũ Quang, phiên hiệu là Đồn 95 và nay là Đồn 567.
Từ năm 2000 đến nay, sau thành lập huyện Vũ Quang, trên biên giới Việt Nam - Lào của Hương Khê có 3 đồn biên phòng:
Đồn Phú Gia (xã Phú Gia): phiên hiệu 571;
Đồn Bản Giàng (xã Hương Vĩnh): phiên hiệu 575;
Đồn Hòa Hải (xã Hòa Hải): phiên hiệu 569.
Cả 3 đồn quản lý địa bàn 5 xã là Hòa Hải, Phú Gia, Hương Vĩnh, Hương Lâm và Hương Liên (là xã không thuộc xã biên giới) với 5 bản: Cuồi Trả (xã Hòa Hải), Phú Lâm (xã Phú Gia), Giàng 1 (Hương Lâm), Giàng 2 (Hương Vĩnh) và bản Rào Tre (Hương Liên) là bản chủ yếu là đồng bào Chứt và Lào sinh sống1.
Một số vấn đề cơ bản của các đồn:
Đồn Phú Gia (Đồn 571)
 Ngày thành lập: Ngày 24.3.1959, sau thành lập Công an nhân dân vũ trang (CANDVT), Ban Chỉ huy CANDVT Trung ương quyết định thành lập Đồn Biên phòng Trại Trụ (Phiên hiệu: Đồn 16), thuộc CANDVT Hà Tĩnh, lấy Trạm Trại Trụ của Công an Hương Khê làm cơ sở.
Phiên hiệu: từ 3/1959 - 8/1963: Đồn 16; tháng 8/1963 - 10/1979: Đồn 97; từ tháng 10/1979  - nay: Đồn 5712:
Ban Chỉ huy đầu tiên: Thiếu uý Võ Công Thịnh - Đồn trưởng. Chuẩn uý Nguyễn Văn Thảo - Chính trị viên. Chuẩn úy Lê Đình Giáp – Đồn phó trinh sát.
Địa bàn quản lý: Trước khi chia tách, Đồn 16 quản lý 8 xã nội biên: Hương Lâm, Hương Liên, Hương Vĩnh, Hương Long, Hương Bình, Hương Phú, Hương Hoà, Hương Hải, với  trên 50km đường biên giới. Từ tháng 7/1959: sau chia tách, Đồn quản lý địa bàn 5 xã là: Hương Long, Hương Bình, Hương Phú, Hương Hoà, Hương Hải với 7 mốc quốc giới: 503, 504, 505, 506, 507, 508, 509.
Vị trí đóng quân: lúc đầu là ở chợ Gia (Đập Làng); sau chia tách (7/1959) chuyển vào khu vực Cổng Nanh (Đền Cũ), xã Hương Phú (Lâm trường Trại Trụ ngày nay). Hiện đóng tại xã Phú Gia.
Những phần thưởng cao quý:
-  Năm 1996: Được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân";
-   Năm 1996: Được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba;
Ngoài những phần thưởng cao quý này, đơn vị còn được Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ban Chỉ huy CANDVT Trung ương, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Ủy ban nhân dân tỉnh tặng các danh hiệu "Đơn vị Quyết thắng" và nhiều Bằng khen, Giấy khen.
Cá nhân: Đồng chí Nguyễn Hữu Định được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen. Đồng chí Phan Xuân Thảo: 2 lần được Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tặng danh hiệu "Chiến sĩ Quyết thắng". Đồng chí Nguyễn Hữu Đình: được tặng danh hiệu "Chiến sĩ Quyết thắng".
Đồn Bản Giàng (Đồn 575)
Ngày thành lập: Sau thành lập Đồn Trại Trụ (Đồn Phú Gia, phiên hiệu Đồn 16) tháng 4/1959, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới, phù hợp với điều kiện thực tế, đầu tháng 7/1959, Ban Chỉ huy CANDVT Trung ương đã ra quyết định chia tách Đồn 16 thành 2 đồn là Đồn 16 (Đồn Trại Trụ) và Đồn 15 (Đồn Bản Giàng). Nên có thể lấy tháng 7/1959 là thời gian thành lập đồn.
Phiên hiệu: từ 7/1959 - 8/1963: Đồn 15; từ tháng 8/1963 - 10/1979: Đồn 99; từ tháng 10/1979 - nay là Đồn 575:
Địa bàn quản lý: là 3 xã: Hương Lâm, Hương Liên, Hương Vĩnh với 6 mốc quốc giới: 510, 511, 512, 513, 514, 515.
Ban Chỉ huy đầu tiên: Thiếu uý Trần Hồng Sâm - Đồn trưởng. Thiếu úy Nguyễn Xuân Hường - Chính trị viên.
Quân số lúc mới thành lập có 32 cán bộ, chiến sỹ, có 1 chi bộ với 12 đảng viên. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cán bộ, chiến sĩ của đồn đã kết hợp đồng bộ các biện pháp công tác, vừa làm nhiệm vụ tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng phòng tuyến bảo vệ biên giới, vừa trực tiếp chiến đấu, tham gia bắt các toán gián điệp, biệt kích, đấu tranh chống các loại tội phạm khác và làm nghĩa vụ quốc tế.
Những phần thưởng cao quý: Năm 2009, được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.
Ngoài ra còn được các cơ quan quản lý Nhà nước tặng Huân chương Chiến công Nhất, Nhì, Ba và 40 Bằng khen, 29 Giấy khen.
Về cá nhân: Đồng chí Võ Hồng Tuyên (Đồn trưởng) được tuyên dương danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.
Đồn Hòa Hải (Đồn 569)
Ngày thành lập: Đồn được thành lập theo Quyết định số 22/2006/QĐ-BQP, ngày 20/10/2006 của Bộ Quốc phòng và Quyết định số 2239/QĐ-BTL, ngày 10/02/2007 của Bộ Tư lệnh - Bộ đội Biên phòng.
Phiên hiệu: Đồn 569
Địa điểm đóng quân: tại Thôn 4, xã Hòa Hải.
Ban Chỉ huy đầu tiên: có 04 đồng chí: Trung tá Phạm Văn Hùng - Đồn trưởng; Thiếu tá Phan Văn Nhân - Chính trị viên; Trung tá Nguyễn Văn Lâm - Phó Đồn trưởng nghiệp vụ; Thiếu tá Nguyễn Văn Sâm - Phó đồn trưởng.
Khi mới thành lập, Đồn có 27 cán bộ, chiến sĩ được Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh điều động ở các đồn, trạm biên phòng trong Bộ đội Biên phòng tỉnh về (trong đó có 07 sĩ quan, 17 quân nhân chuyên nghiệp và 03 Hạ sĩ quan - chiến sĩ).
Địa bàn quản lý: Đồn được giao quản lý bảo vệ đoạn biên giới dài 6,7km, với 5 mốc quốc giới: 498, 499, 500, 501 và 502 và phụ trách địa bàn một xã biên giới là Hòa Hải.
Phần thưởng cao quý: Năm 2009, Đồn đã được Nhà nước phong tặng danh hiêu "Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".
Nhiệm vụ của các đồn biên phòng: Các đồn biên phòng có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đường biên giới Quốc gia, hệ thống dấu hiệu mốc giới thuộc huyện Hương Khê với tỉnh Khăm-muộn (Lào); đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm lãnh thổ biên giới, vượt biên, nhập cư, cư trú trái phép, khai thác trộm tài nguyên và những hành vi khác xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia, an ninh, trật tự, gây hại đến môi trường ở khu vực biên giới huyện Hương Khê; chủ trì phối hợp với các ngành, các địa phương trong huyện trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới Quốc gia và duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới huyện Hương Khê; chủ động quan hệ với chính quyền và nhân dân các địa phương giáp biên của nước Lào, xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc hai bên biên giới. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là quản lý, bảo vệ tuyến biên giới thuộc huyện Hương Khê với tỉnh Khăm-muộn (Lào) với các nghiệp vụ: kiểm tra, kiểm soát đường bộ, đấu tranh với các loại hoạt động phá hoại, gián điệp, biệt kích, thám báo, phỉ Lào xâm nhập biên giới, bọn vượt biên và các loại tội phạm khác; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội khu vực vùng biên. Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương giáp biên của nước Lào xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc hai bên biên giới.
Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là trong hơn 30 năm đổi mới, lực lượng Bộ đội biên phòng ở Hương Khê tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, vươn lên giành nhiều thắng lợi to lớn trên các lĩnh vực: xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; nâng cao hiệu quả tham gia củng cố cơ sở gắn với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; làm tốt công tác đối ngoại biên phòng; tăng cường quản lý nhà nước về biên giới; đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; phối hợp vận động, giúp đỡ nhân dân vùng biên thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân khu vực biên giới…

Sau năm 1975, nước ta và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào chủ trương phân định lại đường biên giới giữa hai nước do trước đó chưa được xác định bằng các văn bản pháp lý và chưa cắm mốc trên thực địa giữa hai quốc gia.
Ngày 10/02/1976, hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào tổ chức cuộc Hội đàm tại Hà Nội, nhất trí dựa vào đường biên giới trên bản đồ do Pháp vẽ năm 1954, tỷ lệ 1/100.000 làm căn cứ chính. Cuộc hội đàm còn đề cập đến việc điều chính các vùng dân cư ở khu vực biên giới, thỏa thuận một số quy định về quy chế biên giới. Từ những quan điểm, nguyên tắc chung, Chính phủ hai nước đã cử các đoàn đại biểu đàm phán về phân định cắm mốc biên giới, nhất là các giải pháp giải quyết phân định biên giới những khu vực còn tranh chấp. Tháng 3.1976, các cuộc đàm phán đã đi đến thống nhất.
Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, tháng 5/1976, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh quyết định thành lập 16 đội khảo sát biên giới, trong đó huyện Hương Khê có 3 đội, do đồng chí Nguyễn Văn Tùng phụ trách, bắt đầu khảo sát thực địa toàn tuyến biên giới thuộc huyện Hương Khê.
Ngày 18/9/1977, tại Thủ đô Viêng Chăn, đồng chí Phạm Hùng thay mặt Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đồng chí Phun-xi-pha-xớt thay mặt nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã ký toàn văn Hiệp ước hoạch định về đường biên giới Quốc gia giữa hai nước.
Ngày 13/7/1978, Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh ra Thông tri số 29 về việc thành lập Ban Biên giới của tỉnh. Ngày 05.8.1978, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh ban hành quyết định thành lập Ban Biên giới của tỉnh để trực tiếp chỉ đạo tiến trình công việc phân định biên giới thuộc tỉnh.
Từ ngày 14/6/1980 - 21/5/1981, sau thời gian cùng với các tỉnh chung biên giới của Lào, Ban đã tiến hành phân giới xong 560km đường biên và cắm 47 mốc chủ quyền biên giới bằng bê tông cốt thép (mỗi cột mốc nặng khoảng 8 tấn).
Như vậy, sau hơn 5 năm thực hiện nhiệm vụ, lực lượng công an nhân dân vũ trang tỉnh Nghệ Tĩnh đã góp phần hoàn thành nhiệm vụ điều tra, khảo sát, phân giới cắm mốc chủ quyền biên giới Việt Nam - Lào.
Sau đợt điều tra, khảo sát và cắm mốc đầu tiên hoàn thành, hai nước tiếp tục thực hiện kế hoạch tôn tạo, tăng dày mốc Quốc giới. Cuối năm 2008, hai nước thực hiện công tác chuẩn bị; đến đầu năm 2009, các mốc tăng dày lần lượt được cắm.
Sau gần 5 năm thực hiện tăng dày mốc Quốc giới, 2 nước đã khảo sát xong thực địa 53/54 mốc, bắt đầu từ mốc 463 đến mốc 515 với tổng chiều dài 145km từ Nghệ An đến Quảng Bình - giáp với tỉnh Khăm-muộn và Bô-ly-khăm-xay (Lào). Trong số 54 mốc có 53 mốc chính (thân các cột mốc được làm bằng đá hoa cương, móng và đế làm bằng bê tông cốt thép) và 1 mốc phụ (mốc phụ đã hoàn thành trước Tết Nguyên đán 2016). Trong số 53 mốc chính, địa bàn Hương Khê và Vũ Quang có 30 mốc được xây dựng và hoàn thành vào tháng 7/2013. Trong đó, Hương Khê có 18 mốc. Các đồn biên phòng được giao đảm nhiệm gồm Đồn 569 (xã Hòa Hải) có 5 mốc (từ 498 - 502), Đồn 571 (xã Phú Gia) có 7 mốc (từ 503 - 509), Đồn 575 (Bản Giàng, xã Hương Vĩnh) có 6 mốc (từ 510 - 515).
Việc xây dựng, hoàn thành, sau đó tôn tạo và tăng dày mốc quốc giới trên địa bàn Hương Khê mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Từ đây, đường biên giới Việt Nam - Lào trên đất Hương Khê đã được hoạch định, phân giới và cắm mốc theo đúng các Hiệp ước hoạch định, Nghị định thư phân giới cắm mốc và các văn bản pháp lý liên quan ký kết giữa Việt Nam và Lào và được thể hiện rõ trên bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào tỷ lệ 1/50.000 xuất bản năm 2003.

III. CÁC HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI                
Trong quá trình phát triển lịch sử, lực lượng vũ trang bảo vệ biên giới đã có nhiều lần thay đổi tên gọi, cơ quan trực thuộc cho phù hợp với tính chất công việc, quy định về trang bị thiết bị kỹ thuật, vũ khí. Vì thế, để có một cách nhìn tổng quát về lực lượng này, phần này giới thiệu một số văn bản chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền.
Ngày 16/2/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141/SL thành lập Công an Biên phòng thuộc Bộ Công an; được tổ chức biên chế theo hình thức các đồn công an biên phòng dọc biên giới, trực thuộc ty công an các tỉnh có biên giới. Trên địa bàn Hương Khê có lực lượng Công an Biên phòng trực thuộc Ty Công an Hà Tĩnh.
Ngày 28/7/1956, Chính phủ ra Nghị định số 982/TTg, thành lập lực lượng Cảnh sát vũ trang thuộc Bộ Công an, làm nhiệm vụ bảo vệ các trại giam, tham gia tiễu phỉ, trừ gian.
Ngày 19/11/1958, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 58-NQ/TW “Về việc thành lập lực lượng Cảnh vệ nội địa và biên phòng”.
Ngày 03/3/1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 100/TTg nhằm “Thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang thành một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang (CANDVT), đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an”. Đây là mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của Công an nhân dân vũ trang (thường gọi là Công an vũ trang). Đây cũng là giai đoạn bọn phỉ Trường Sơn hoạt động mạnh, gây nhiều tổn thất cho lực lượng Công an vũ trang.
Ngày 10/10/1979, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, về việc “Chuyển giao nhiệm vụ và lực lượng Công an nhân dân vũ trang sang Bộ Quốc phòng”.
Ngày 30/11/1987, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW, về “Chuyển giao Bộ đội Biên phòng cho Bộ Nội vụ trực tiếp phụ trách” (nay là Bộ Công an). Như vậy là trong giai đoạn này có sự bất cập trong quan điểm để lực lượng bảo vệ biên giới trực thuộc bộ nào cho thích hợp.
Ngày 08.8.1995, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW đã quyết định “chuyển Bộ đội Biên phòng từ Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng”.
Từ đó đến nay (2017), Bộ đội Biên phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng.
1. Từ 1959 - 1965: Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là bảo vệ biên giới, xây dựng phòng tuyến nhân dân, tiễu phỉ, chống gián điệp, biệt kích. Đây cũng là giai đoạn cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng) trên địa bàn Hương Khê đã tập trung triển khai các hoạt động bảo vệ biên giới sau đây:
Đảm bảo an ninh biên giới: Công an nhân dân vũ trang đẩy mạnh tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan đảm bảo an ninh, trật tự biên giới; tuyên truyền vận động nhân dân vùng biên thực hiện đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước; kiểm soát hành chính bao gồm kiểm soát người, phương tiện qua lại và cư trú trong khu vực biên giới nhằm nắm chắc, phân loại các đối tượng, trong đó chú trọng số đối tượng có ý định di cư vào Nam hoặc sang Lào từ Bắc Bộ vào.
Chống gián điệp, biệt kích xâm nhập biên giới: Công an nhân dân vũ trang ở Hương Khê đã phối hợp với các lực lượng bộ đội, công an nắm chắc tình hình nội - ngoại biên, tuần tra, kiểm soát chặt chẽ người ra vào khu vực biên giới, quản lý tốt địa bàn và đối tượng; thường xuyên tổ chức huấn luyện theo các phương án cơ động truy lùng gián điệp, biệt kích; đồng thời thực tập phương án chiến đấu chống gián điệp, biệt kích. Điển hình là vụ tháng 9.1959 khi ta mở chuyên án PT26 bắt gọn toán gián điệp do Trần Kim Phú làm Toán trưởng thâm nhập vào Hương Khê từ Lào. Trong thời gian quản thúc, hắn đã trốn trại và vượt biên về Lào. Vào khoảng 11 giờ 30 ngày 10.6.1963, địch cho máy bay tung hai toán biệt kích: một toán xuống tỉnh Nghệ An, một toán xuống Hương Khê, Hà Tĩnh. Nhận được tin báo, Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Hà Tĩnh chỉ đạo đồn Trại Trụ và Bản Giàng phối hợp với các đơn vị đứng chân trên địa bàn tổ chức bao vây, truy kích địch. Đến 4 giờ sáng ngày 11.6.1963, các lực lượng tham gia bao vây, truy kích đã bắt gọn toàn bộ toán biệt kích 6 tên, do tên Trần Kim Phú làm Toán trưởng, Hoàng Văn Thái làm Toán phó. Tòa án Quân sự Quân khu IV đã mở phiên tòa xét xử những tội danh của chúng. Tòa tuyên án tử hình tên Trần Kim Phú, những tên khác bị tù từ 10 năm đến chung thân.
2.                      Từ 1965 - 1975: Đây là giai đoạn vừa bảo vệ biên giới, các mục tiêu trọng điểm vừa tham gia cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chi viện cho lực lượng An ninh vũ trang miền Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ngày càng gay go quyết liệt. Mỹ tăng cường phá hoại miền Bắc, trong đó hoạt động gián điệp, biệt kích là một phương thức được Cục tình báo Trung ương Mỹ CIA đặc biệt coi trọng. Chúng thường sử dụng thủ đoạn xâm nhập bằng đường bộ, đường không và đường biển, trong đó ở vùng biên giới chủ yếu bằng đường không. Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên về nhiệm vụ bảo vệ biên giới, các lực lượng vũ trang, nhất là Công an nhân dân vũ trang luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Từ ngày 30/10/1967 - 16/11/1967, các lực lượng vũ trang Hương Khê phối hợp với Huyện đội Tuyên Hóa và Đồn Biên phòng 109 (Quảng Bình) bắt sống và tiêu diệt gọn toán gián điệp, biệt kích ở vùng Quạt - vùng giáp ranh địa giới 2 tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đây là địa bàn địch chọn làm nơi đổ bộ các toán gián điệp, biệt kích.
Sau trận ở vùng Quạt, từ ngày 23.7 - 01.8.1968, máy bay OV10 và trực thăng của Mỹ hoạt động mạnh ở vùng Rào Tre, Rào Giàng, Ông Giao, Cù Lân thuộc địa bàn Hương Khê. Lực lượng biên phòng ở Hương Khê nhận định: máy bay địch có thể thả biệt kích, gián điệp xuống khu vực tiếp giáp Hà Tĩnh và Quảng Bình hoặc chúng đang tiếp tế cho số gián điệp và biệt kích ở mặt đất vượt biên bằng đường bộ vào khu vực giáp ranh hai tỉnh. Từ những nhận định này và thực hiện chỉ thị của trên, các lực lượng nhanh chóng tổ chức truy lùng địch. Vào lúc 14 giờ ngày 02.8.1968, ta và địch phát hiện được nhau. Chúng nổ súng trước rồi tháo chạy để lại toàn bộ phương tiện, đồ đạc. Do thiếu cảnh giác, 3 đồng chí của ta bị thương, 1 đồng chí hy sinh do vướng mìn của địch. Ta tiếp tục bao vây và gọi hàng 3 tên đang ẩn nấp trong hang đá. Qua khai thác nóng, địch khai còn 4 tên chạy trốn sang đất Lào.
Ngày 25/5/1971, máy bay địch lại thả một toán gián điệp biệt kích (toán Bun Heng) xuống khu vực Chân Chìm rồi đột nhập vào Cao điểm 486. Lực lượng biên phòng tổ chức truy lùng, tiêu diệt và bắt sống toán gián điệp biệt kích này. Đây là toán gián điệp hỗn hợp Lào - Việt: chúng dùng người Lào quen thuộc địa hình rừng núi, xuất phát từ nội địa Lào xâm nhập thẳng vào biên giới hòng lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của ta để tiến sâu vào nội địa. Nhưng trước sự cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, toán biệt kích Bun Heng đã bị xóa sổ. Chiến công này đã góp phần đập tan kiểu chiến tranh gián điệp, biệt kích của Mỹ, bảo vệ vững chắc địa bàn biên giới.
3. Từ 1975 - 1986: Nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn này là quản lý, bảo vệ biên giới trên phạm vi toàn quốc, đấu tranh chống kế hoạch “hậu chiến” của địch, tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và Cam-pu-chia.
Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang chủ trương: “Tăng cường xây dựng củng cố lực lượng, sẵn sàng đối phó với các âm mưu thủ đoạn mới của kẻ thù”. Thực hiện chủ trương này, lực lượng biên phòng ở Hương Khê đẩy mạnh các hoạt động sau đây:
-  Tăng cường công tác tuần tra bảo vệ biên giới, quản lý địa bàn, đối tượng; đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ để mọi người thấy được âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù.
-  Nêu cao tình thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc diễn biến tình hình, kịp thời đối phó các tình huống xấu xảy ra, kiện toàn tổ chức đảng, đoàn thanh niên. 
-  Củng cố, xây dựng hệ thống hầm hào, công sự, xây dựng các phương án chiến đấu bảo vệ các đồn, trạm, chống địch xâm nhập tập kích, vượt biên.
-  Tổ chức tuyên truyền quán triệt Quy chế biên giới và trách nhiệm của công dân trong quản lý bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia. Đăng ký quản lý người, phương tiện của các tổ chức, cá nhân và tập thể thường xuyên đi lại hoạt động, cư trú trong khu vực biên giới toàn huyện. Tăng cường phối hợp giữa công an huyện và chính quyền các xã nắm chắc hộ tịch, hộ khẩu, trục xuất, đẩy đuổi những đối tượng không đủ điều kiện cư trú, đi lại trong khu vực biên giới.
Trong những năm 1984 - 1986, đất nước ta phải đương đầu với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn hết sức khó khăn. Trên toàn tuyến biên giới ở Hương Khê, công tác quản lý hết sức phức tạp, nổi lên là các hoạt động vượt biên sang Lào khai thác trầm hương, song, mây, treo đòi, rùa vàng… trái phép, vi phạm nghiêm trọng Hiệp định về Quy chế biên giới giữa hai nước. Trên địa bàn xuất hiện nhiều đối tượng lái buôn hàng lâm sản và đã xảy ra các vụ cướp của giết người trên khu vực biên giới.
Trước tình hình này, thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới ở Hương Khê tăng cường công tác nắm bắt tình hình để có kế hoạch giải quyết dứt điểm. Lực lượng biên phòng phối hợp với chính quyền địa phương các xã biên giới sử dụng lực lượng tại chỗ (dân quân, du kích) mở đợt truy quét tội phạm với phương châm “Tích cực tấn công và tấn công liên tục”. Kết quả, chỉ trong một thời gian ngắn đã phát hiện bắt và xử lý hơn 300 vụ vi phạm Quy chế biên giới, đẩy đuổi 934 người cư trú trái phép ở khu vực biên phòng; tịch thu nhiều trầm hương và các loại hàng hóa có giá trị xung công quỹ. Trong các vụ truy quét này điển hình là việc khám phá, bắt giữ đối tượng sử dụng vũ khí quân dụng trái phép cướp hàng hóa ở địa bàn xã Hương Lâm. Chúng là một tổ chức buôn lậu trầm hương do tên Ngô Sơn (quê ở Hải Phòng) cầm đầu. Tang vật bắt giữ gồm 1 xe Zép, 3 biển kiểm soát giả, 1 khẩu súng K54 và 4 bộ quân phục giả. Sau khi bị lực lượng biên phòng bắt, chúng khai sử dụng giấy tờ giả, mua quân phục, vũ khí, giả danh bộ đội để buôn bán, vận chuyển trầm hương.
4. Từ 1986 - 2017: Đây là giai đoạn đổi mới đồng bộ, toàn diện công tác biên phòng, xây dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh toàn diện.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có những diễn biến phức tạp mới. Phía ngoại biên đối diện với huyện Hương Sơn và Hương Khê, địch sử dụng bọn phản động và người Việt lưu vong cấu kết bọn phản động người Lào, tình báo lục quân Thái Lan tung nhiều toán biệt kích xâm nhập từ Thái Lan qua Lào vào biên giới Việt Nam hoạt động với ý đồ phá hoại công cuộc đổi mới, phát triển đất nước của Việt Nam. Trên đất Lào, các hoạt động phỉ, phản động chống phá cách mạng Lào có chiều hướng gia tăng, liên tiếp xảy ra các vụ tập kích trên đường giao thông vào các đoàn xe, vào các cơ sở chính trị, kinh tế của bạn.
Ở Hương Khê, tình hình hoạt động của các loại tội phạm cũng có chiều hướng gia tăng, nổi bật là các vụ vượt biên trái phép, trấn cướp vũ trang, buôn lậu trầm hương, rùa… đã làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và sự ổn định của khu vực biên giới. Trước tình hình này, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về tăng cường quản lý biên giới trong thời kỳ đổi mới với phương châm vừa đảm bảo độc lập, chủ quyền an ninh biên giới Quốc gia vừa phải bảo đảm phục vụ đường lối đối ngoại mở cửa của Đảng, Nhà nước, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với nước bạn Lào.
Từ năm 1995, Phòng Trinh sát Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh phối hợp với các đồn biên phòng trên địa bàn tiến hành điều tra cơ bản các địa bàn xã, cơ quan, xí nghiệp, các mục tiêu và lĩnh vực có liên quan đến an ninh Quốc gia và trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới; đồng thời sưu tập, xây dựng hồ sơ một số bản ngoại biên quan trọng như: Tha Phai - bản đối diện địa bàn Đồn 571, xã Tơơng đối diện địa bàn Đồn 575 và tên Sưu Tra - đối tượng buôn lậu, các đường dây tổ chức đưa người ra nước ngoài, buôn bán, vận chuyển các chất ma túy qua biên giới, tàng trữ chất nổ trái phép. Trên cơ sở kết quả điều tra cơ bản địa bàn cả nội và ngoại biên, các đồn biên phòng đã chủ động nắm tình hình, củng cố và phát triển mạng lưới bí mật đủ số lượng và bảo đảm chất lượng để phục vụ cho việc nắm địch cả trước mắt và lâu dài; phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân trong địa bàn ý thức chấp hành pháp luật, các hiệp định, hiệp nghị về Quy chế biên giới; tăng cường tuần tra kiểm soát, sử dụng đồng bộ, linh hoạt các biện pháp nghiệp vụ biên phòng, đấu tranh với các hoạt động vượt biên, xâm nhập, buôn lậu, trấn cướp trên biên giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, lực lượng Bộ đội Biên phòng Hương Khê đã tiến hành phá nhiều chuyên án, bắt giữ nhiều đối tượng phạm tội.
Điển hình là chuyên án bắt toán cướp có vũ trang gồm 8 tên, được trang bị vũ khí nóng hoạt động trên địa bàn biên giới Hương Khê: đầu tháng 7.2000, có nhiều tin đồn về một toán cướp có vũ trang trấn cướp tiền, hàng của những người qua lại làm ăn hai bên biên giới ở khu vực mốc N6 - N10, bắn chết anh Trần Đình Thành Thành quê ở xã Hương Long (ngày 26/8/2000) đi làm ăn ở Lào về. Được sự chỉ đạo của Bộ đội biên phòng tỉnh và Công an tỉnh, lực lượng trinh sát Đồn 571 và Đồn 575 cùng cảnh sát hình sự điều tra tiến hành lập Ban Chuyên án để điều tra vụ án. Ban Chuyên án do Trung tá Lê Xuân Trình, Trưởng Công an huyện Hương Khê làm Trưởng ban. Sau khi thu thập đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh các hành vi phạm tội của chúng, ngày 07/9/2000, lực lượng điều tra thi hành lệnh bắt đồng loạt các đối tượng nằm trong Chuyên án gồm 8 tên: Trần Văn Hương, Nguyễn Văn Đông, Trần Văn Thảo, Phạm Xuân Quý, Trương Quang Tuấn, Phạm Thanh Hòa, Phan Đình Thu, Lê Khắc Thân do tên Trần Văn Hương (quê xã Hương Lâm) thường trú tại Thị trấn Hương Khê cầm đầu, thu 5 khẩu súng quân dụng và 28 viên đạn. Vụ án kết thúc nhanh gọn, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới Hương Khê.
Tại Hội nghị tổng kết 10 năm (1990 - 2000) ngày 10.5.2001 về thực hiện nhiệm vụ A2: phòng chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” của huyện, công tác bảo vệ biên giới được đánh giá là luôn bảo đảm được thế ổn định. Khi có vụ việc xảy ra, các lực lượng quân đội, công an, biên phòng kịp thời giải quyết nhanh gọn, không để diễn biến phức tạp kéo dài.
Năm 2001, Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện Dự án bảo tồn, phát triển đồng bào dân tộc tại bản Rào Tre thuộc Hương Khê. Lúc này, bản Rào Tre có 31 hộ, 117 nhân khẩu, là bản đồng bào dân tộc người Mã Liềng (Chứt). Thực hiện nhiệm vụ được giao, đồn Bản Giàng đã thành lập Tổ công tác cắm bản Rào Tre: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc. Tổ cắm bản do đồng chí Kiều Minh Đệ làm Tổ trưởng. Sau 2 năm thực hiện Dự án, năm 2002, người dân ở bản đã trở về xây dựng làng bản, định canh, định cư, hòa nhập với cộng đồng, ổn định cuộc sống, góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới Quốc gia. Bản đã có 2 lớp học, xóa mù chữ cho 31 người, gửi được 14 em vào học Trường Nội trú của huyện. Tháng 10.2003, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh phối hợp Sở Tư pháp, Ủy ban Dân số tỉnh, Công an tỉnh giao cho Đồn 575 phối hợp với xã Hương Liên làm Giấy khai sinh và Chứng minh nhân dân cho đồng bào dân tộc bản Rào Tre. Từ đây, đồng bào dân tộc bản Rào Tre có đầy đủ tên, tuổi, quyền lợi của người công dân Việt Nam. Ngày 26/6/2005, chi bộ đầu tiên của dân tộc Chứt ra đời.
Từ năm 2001 trở đi, các ngành quân sự, công an, biên phòng và các xã biên giới ra sức thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp, xây dựng và thực hiện nghiêm Kế hoạch bảo vệ an toàn tuyến biên giới; Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng; Nắm bắt tình hình, phối hợp quản lý, ngăn ngừa, đấu tranh với các hoạt động xuất nhập cảnh trái phép của các tổ chức phản động lưu vong và các loại tội phạm khác ở khu vực biên giới; Phối hợp thực hiện tốt công tác tuần tra biên giới, mốc giới, kiểm tra, kiểm soát người và phương tiện ra vào hoạt động trong khu vực biên giới, khu vực vành đai.
Hương Khê đã phát hiện và xử lý 38 vụ 75 đối tượng vi phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; xử lý vi phạm hành chính gần 20 triệu đồng, thu giữ một số tài sản xung công quỹ; trục xuất khỏi địa bàn biên giới 8 vụ 14 đối tượng; thu thập và xử lý 75 nguồn tin có giá trị. Năm 2012, tổ chức tuần tra đường biên 42 đợt với 358 cán bộ, chiến sỹ tham gia; phát hiện và xử lý 57 vụ 110 đối tượng vi phạm Quy chế biên giới; trục xuất hàng chục đối tượng ra, vào khu vực biên giới trái phép. Các đồn biên phòng chủ động xây dựng kế hoạch, phối hợp cấp ủy và chính quyền địa phương đẩy mạnh các hoạt động phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới, đấu tranh xử lý 102 vụ, 154 đối tượng vi phạm trật tự an toàn xã hội. Năm 2014, tổ chức tuần tra bảo vệ đường biên giới, khu vực biên giới 52 đợt với 344 cán bộ chiến sỹ tham gia; phát hiện xử lý và trục xuất 367 đối tượng ra vào khu vực biên giới trái phép. Ngoài ra, các đồn biên phòng còn phát hiện, đấu tranh, xử lý 94 vụ 150 đối tượng vi phạm trật tự an toàn xã hội.                                        

***
Trong lịch sử đấu tranh giữ nước trước đây, do có vị trí địa chiến lược, huyện Hương Khê đã nhiều lần được các bậc quân - vương chọn làm căn cứ địa. Nổi bật là việc Vua Hàm Nghi chọn làm Đại bản doanh để chống Pháp lâu dài; Phan Đình Phùng chọn làm căn cứ chống Pháp trong suốt 11 năm liền.
Từ 1945 - 1975, Hương Khê đã 2 lần được chọn làm căn cứ: An toàn khu của Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và nơi đặt Bộ Tư lệnh 559, Bộ Tư lệnh 500 của Tổng cục Hậu cần của Bộ Quốc phòng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Điều đó không phải là ngẫu nhiên mà xuất phát từ vị trí địa chiến lược của địa bàn này.
Trong suốt 72 năm qua, xác định rõ vị trí địa chiến lược của mình, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các lực lượng vũ trang Hương Khê đã ra sức xây dựng và phát triển về mọi mặt, đóng góp phần to lớn trong các cuộc kháng chiến bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; giữ gìn và phát huy tình hữu nghị đoàn kết các dân tộc trên tuyến biên giới, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà Nhà nước phong tặng: "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân".



1 Từ 1960, miền Bắc thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất, các lâm trường được hình thành và bắt đầu khai thác tài nguyên rừng. 
2 Các biểu thuộc Niên giám thống kê của huyện có sự điều chỉnh về các loại diện tích hàng năm nên chúng tôi chỉ nhận xét chung về các loại diện tích mà không đưa ra số liệu cụ thể được.
1 Có một số tài liệu xếp hệ thống giao thông vào phần Địa lý tự nhiên. Nhưng bản chất của sự hình thành và phát triển của hệ thống giao thông là hoạt động xã hội, nên xếp vào mục Điều kiện xã hội phù hợp hơn.

2 Bùi Thiết: Thượng Đạo và Kẻ Vôi - con đường và địa danh lịch sử. Tạp chí Khoa học xã hội số 3 (88), 2015
3 Là con trai Lý Thái Tổ, được Lý Thái Tông cử vào trị nhậm Châu Nghệ An (1041) đã lấy vùng Bạch Ngọc (Ngọc Sơn, Bồi Sơn, Lam Sơn huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An ngày nay) làm trị sở và trong quá trình trị nhậm đã cho mở rộng và phát triển Thượng Đạo.
1 Tiến sĩ Dương Thúc Hạp (1835 -1920), Nghệ Tĩnh sơn thủy vịnh, sđd.
3 Tại Ngã ba Lạc Thiện, xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, đầu Quốc lộ 15A đoạn phía Đông còn tấm bia dẫn tích ghi rõ: Đây là Km số 0 Đường Hồ Chí Minh năm 1970.
[1] Ông Ngô Quốc Văn, đảng viên từ năm 1930, người xã Trúc Lâm (Hương Thanh), nguyên là Đồn trưởng Đồn Chu Lễ, Huyện ủy viên, nguyên là Ủy viên phụ trách Công an của Ủy ban Khởi nghĩa huyện.
2 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (1945-1947), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.26.
1 Hiện chưa sưu tầm được tên.
1 Số liệu do đồng chí Phan Văn Đệ, nguyên Bí thư Huyện ủy Hương Khê cung cấp.
1 Theo Sắc lệnh số 91 ngày 17.10.1947 của Hồ Chủ tịch, Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính các cấp sáp nhập thành Ủy ban kháng chiến hành chính (UBKCHC).
1 Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Quân sự Hà Tĩnh  (1945 - 2010). NXB Quân đội nhân dân, 2010.
1 Ngày 18/12/1953, Hồ Chủ tịch ký ban hành Sắc lệnh số 97/SL về Cải cách ruộng đất. Nhưng đây là thời điểm đang chiến tranh nên Cải cách ruộng đất phải đi từ thí điểm đến đại trà và vì thế phải chia làm 5 đợt. Hà Tĩnh và Nghệ An chủ yếu tiến hành vào đợt 4 và 5: từ tháng 12/1955 đến tháng 12/1956. Nhưng do có sai lầm nên sau Cải cách, phải tiến hành sửa sai. Hương Khê tiến hành Cải cách ruộng đất vào đợt 5, từ thứng 6.1956 đến 12.1956 và sửa sai đến 6.1957.
1 Hồ sơ 37TM, phông BTM, Kho lưu trữ Quân khu 4.
1 Tố Hữu: đề tựa bức ảnh nữ dân quân Nguyễn Thị Kim Lai áp giải tên giặc lái Wiliam Andrey Robinxon bị bắt ở Hương Khê ngày 20/9/1965: O du kích nhỏ giương cao súng/Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu/Ra thế! To gan hơn béo bụng/Anh hùng đâu cứ phải mày râu!
1 Bộ Chỉ huy Quân sự Hà Tĩnh: Những trận đánh tiêu biểu của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh, tập II, NXB Quan đội nhân dân, 2000.
1 Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh: Hà Tĩnh - 30 năm kháng chiến (1945 - 1975), Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh, 1998, tr.243.
1 Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Hương Khê: Lịch sử Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Khê (1945 - 2012), NXB Quân đội nhân dân, 2012, tr 257, 258.
1 Tài liệu lưu trữ ở Quân khu IV: Đảng bộ Quân sự huyện Hương Khê được thành lập năm 1978 nhưng không ghi ngày, tháng.
1 Báo cáo tổng kết công tác diễn tập, huấn luyện động viên năm 1985 của  BCHQS Hà Tĩnh, ngày 15/11/1985.
1 Hồ sơ: 568, phông BCHQS Hà Tĩnh, kho lưu trữ QKIV.
1 Do năm 2000 đã cắt 5 xã phía Bắc để thành lập huyện Vũ Quang.
1 Xem danh sách cụ thể ở Phần Phụ lục.
2 Sau bầu cử Quốc hội lần thứ Nhất ngày 6.01.1946, Ủy ban cách mạng lâm thời các cấp được đổi thành Ủy ban hành chính. Từ tháng 12.1946, sau “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, bên cạnh Ủy ban hành chính, Ủy ban kháng chiến các cấp được thành lập trong cả nước. Đến 17.10.1947, căn cứ Sắc lệnh 91/SL của Hồ Chủ tịch, Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến được sáp nhập thành Ủy ban kháng chiến hành chính. Sau hòa bình lập lại (1954), lại đổi thành Ủy ban hành chính và sau bầu cử Quốc hội lần thứ VI - 4.1976, Ủy ban hành chính các cấp đổi thành Ủy ban nhân dân.
1 Ngày 18/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 97/SL về Cải cách ruộng đất. Nhưng do cuộc kháng chiến chống Pháp còn đang tiếp diễn nên Cải cách ruộng đất phải chia thành nhiều đợt (tổng cộng 5 đợt). Nghệ An và Hà Tĩnh tiến hành từ đợt 4 đến đợt 5. Hương Khê vì thế được tiến hành vào đợt 5: từ tháng 6.1956 - 12/1956 và sau đó sửa sai đến tháng 6/1957.
1  Ngày 19/11/1958, Bộ Chính trị (khóa II) ra Nghị quyết số 58-NQ/TW “Về việc thành lập lực lượng Cảnh vệ nội địa và biên phòng”. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 03/3/1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 100/CP thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang, nêu rõ: “Thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang thành một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an”.
1 Đại tá Bùi Đình Quang: Cơ quan Cảnh sát Điều tra - 60 năm một chặng đường phát triển: Chuyên án có bí danh NIKE. Cổng thông tin điện tử Công an Hà Tĩnh.
[2] Số liệu lưu tại văn phòng Công an huyện Hương Khê.
1 Trích: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng 2011 - 2015, lưu tại BCHQS huyện Hương Khê.
1 Sở dĩ các đồn biên phòng có nhiều Phiên hiệu là do phải chuyển từ bộ này sang bộ khác tùy vào tình hình quốc phòng, an ninh trong từng giai đoạn: phiên hiệu khi thành lập (năm 1959), thay đổi lần thứ nhất vào tháng 8/1963 và đến tháng 10/1979 lại tiếp tục thay đổi khi chuyển từ Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng.
2 Công an huyện Hương Khê: Lịch sử Công an Hương Khê: Biên niên sử các đồn biên phòng Hương Khê và Nghị quyết 22-NQ/TW tháng 10.1979 của Bộ Chính trị về chuyển CANDVT từ Bộ Nội vụ (Bộ Công an) thành Bộ đội Biên phòng thuộc Bộ Quốc phòng.




Không có nhận xét nào: