PHẦN 1: NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA NGHỊ QUYẾT
Hội
nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết
số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 về
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Trung ương
về công tác cán bộ, nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất trong nhiệm kỳ
mà Đại hội XII của Đảng đề ra.
I. Vì sao Ban Chấp hành
Trung ương phải ban hành Nghị quyết mới về công tác cán bộ?
Có 06 lý do chủ yếu sau:
Thứ
nhất, cán bộ và công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan
trọng, quyết định sự thành bại của cách mạng và sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, Sự nghiệp
cách mạng của Đảng và Nhân dân ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới
với trình độ cao hơn, nhiệm vụ khó khăn hơn và tính chất ngày càng phức tạp
hơn. Bên cạnh đó, bốn nguy cơ Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay
gắt hơn.
Thứ ba, qua 20 năm
thực hiện Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp đã trưởng thành, phát triển
về nhiều mặt, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay Chiến lược cán bộ có một số nội dung
không còn phù hợp, cần được điều chỉnh, bổ sung và phát triển để đáp ứng với
yêu cầu của thời kỳ mới.
Thứ tư, sau hơn 40 năm giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta đang đứng trước sự chuyển giao thế hệ
lãnh đạo, từ lớp cán bộ được rèn luyện, thử thách trong chiến tranh, chủ yếu
được đào tạo ở trong nước và các nước xã hội chủ nghĩa; sang lớp cán bộ sinh
ra, lớn lên trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, ở nhiều nước có các thể
chế chính trị khác nhau.
Thứ năm, chúng ta luôn luôn phải động
viên, khích lệ, lan tỏa những thành tựu đã đạt được sau 30 năm đổi mới nhưng
không chủ quan, thỏa mãn, lơ là, mất cảnh giác, nhất là trước sự chống phá của
các thế lực thù địch, phản động đối với Đảng, Nhà nước ta bằng Chiến lược “diễn
biến hòa bình” với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn; chúng lợi
dụng triệt để những hạn chế, khuyết điểm của Đảng, Nhà nước ta nói chung và về
công tác cán bộ nói riêng để xuyên tạc, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước ta
gây hoang mang, hoài nghi, phân tâm nhằm chia rẽ nội bộ, tác động xấu đến
nhận thức, tư tưởng, tình cảm của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ các
cấp.
Thứ sáu, phải góp phần cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII đối với những điểm mới về công tác cán bộ, xây dựng đội
ngũ cán bộ và là nhiệm vụ đã được xác định trong Chương trình làm việc toàn khóa của Ban
Chấp hành Trung ương.
Như vậy, trong tình
hình, bối cảnh nêu trên và để cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng, tạo sự thống nhất, đồng bộ với thực hiện các nghị quyết 4, 5, 6 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, việc ban hành Nghị quyết
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” là rất cần thiết, vừa đáp ứng yêu
cầu trước mắt, vừa đáp ứng nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài của công tác
xây dựng Đảng trong những năm tới.
II. Về thực trạng đội ngũ
cán bộ và công tác cán bộ
1. Về đội ngũ cán bộ
- Đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về
nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân
tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn. Số cán bộ có trình độ
đại học, sau đại học tăng nhanh. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể
ở các cấp có phẩm chất, năng lực và uy tín. Cán bộ cấp chiến lược luôn kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, dân tộc và CNXH; có
tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược, có khả năng hoạch định đường lối, đồng
thời lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.....
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ
đông nhưng chưa mạnh, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu xảy ra ở nhiều nơi. Cơ cấu
cán bộ giữa các ngành nghề, lĩnh vực chưa thật hợp lý. Còn thiếu sự liên thông giữa các cấp, các ngành. Tỷ lệ cán bộ trẻ,
cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.Còn
thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành
trên nhiều lĩnh vực; tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học trên tổng dân số còn
thấp. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, năng suất
lao động, hiệu quả làm việc thấp.Nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, làm
việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế còn hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại
khó, ngại khổ. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến
lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp; còn quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực; có không ít cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật Đảng và xử lý theo
pháp luật. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tính Đảng, lợi
dụng sơ hở, cố ý làm trái để trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà
nước, gây hậu quả nghiêm trọng.
2. Về công tác cán bộ: Công tác cán bộ đã bám
sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp. Đã ban hành
nhiều nghị quyết, kết luận, luật, nghị định và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định,
quy chế để thực hiện. Các quy trình trong công tác cán bộ đã có nhiều đổi mới,
ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức
mới được quan tâm hơn, từng bước gắn với chức danh quy hoạch và sử dụng cán bộ.Chủ
trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người
địa phương có từ khóa IX đạt được kết quả bước đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ đã được coi
trọng hơn; kỷ cương, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước được tăng cường.
Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm, cả cán bộ
đương chức hoặc đã nghỉ hưu và không có “vùng
cấm”, không có “ngoại lệ” đã góp
phần đấu tranh ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm trong sạch một
bước đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước.
Tuy nhiên, một số nội dung trong
nghị quyết, kết luận của Trung ương chậm được cụ thể hóa, có nội dung chưa sát
thực tế, thiếu tính đồng bộ, liên thông. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, nhìn
chung chưa phản ánh đúng thực chất. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên
thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; chưa bảo đảm phương châm “động”
và “mở”, còn dàn trải, khép kín, dựa nhiều vào tuổi. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chậm đổi mới về nội dung và phương pháp; chưa kết hợp chặt chẽ
giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Chủ
trương bố trí một số chức danh (9 chức danh) lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không
là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ
không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình còn xảy ra ở một số nơi, trong đó có
cả người nhà, người thân của một số cán bộ lãnh đạo gây bức xúc trong dư luận
xã hội....
Sau 30 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Đội ngũ cán bộ đã có sự trưởng thành, lớn mạnh, có đóng góp to lớn vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ
phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng
với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước.
III. Về quan điểm chỉ đạo
và mục tiêu của Nghị quyết
1.
Về quan
điểm chỉ đạo
Nghị quyết Trung ương lần này xác định 05 quan điểm sau:
Một là, cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt”
của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng
của Đảng, phải được tiến hành một cách khoa học, thận trọng, thường xuyên, chặt
chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.
Hai là, thực
hiện nghiêm, nhất quán Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn
hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường,
điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng
buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai
phạm.
Ba là,
tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù
hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải
xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn
và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thu hút, trọng dụng nhân tài.
Thứ tư, quán triệt nguyên tắc về
quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và
chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý
mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa xây và chống; giữa đức và tài; giữa
tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa
thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là
người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ
là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán
bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân; phải thực sự dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và xây dựng đội ngũ
cán bộ.
2. Về mục tiêu của
Nghị quyết
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển
tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm
nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập Nước),
trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
Nghị quyết xác định mục tiêu cụ thể,
với 3 mốc thời gian: đến năm
2020, năm 2025 và năm 2030. Cụ thể là:
- Đến năm 2020, Nghị quyết đề ra 04 mục tiêu sau:
(1) Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị
quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công
tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ
(2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát
quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi
tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên;
(3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố
trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương;
(4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí
việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ
chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Đến năm 2025, Nghị quyết đề ra 03 mục tiêu lớn:
(1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hóa,
đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ.
(2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp
tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện, khuyến khích thực
hiện đối với các chức danh khác.
(3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các
cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy
định.
- Đến năm 2030, Nghị quyết đề ra 02 mục tiêu lớn rất quan
trọng và thực hiện được sẽ có sức lan tỏa nhanh:
(1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các
cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự
chuyển giao thế hệ một cách vững vàng.
(2) Cơ bản
xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm
nhiệm vụ.
III. Về nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu
Căn cứ vào các quan điểm, mục tiêu nêu trên và tình hình thực tế, Nghị quyết đề ra 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn chủ yếu; đồng thời xác định 02 trọng tâm và 05 đột phá để thực hiện.
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ nhất, nâng cao nhận thức; đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên (với 4 nội dung cơ bản).
Nhóm nhiệm
vụ, giải pháp thứ hai, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác cán bộ (với 16 nội dung cơ bản) .
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm
chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới (với 6 nội dung chủ yếu).
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ tư, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ
(với 9 nội dung chủ yếu)
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ sáu,
phát huy vai trò của nhân dân tham gia
xây dựng đội ngũ cán bộ (với 5 nội dung cơ bản)
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp
thứ bảy, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ (với 5 nội dung chủ yếu)
Nhóm nhiệm
vụ, giải pháp thứ tám, một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự
đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc (có 4 nội dung cơ bản)
Để thực hiện tốt 08 nhóm
nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, Nghị quyết xác định hai trọng tâm và năm đột phá
sau:
- Hai trọng tâm là: (1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả
công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương
đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. (2) Tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy
tính chủ động, sáng tạo của cán bộ và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát
chặt chẽ quyền lực.
- Năm đột phá là: (1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: xuyên suốt,
liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai
kết quả và so sánh với chức danh tương đương. (2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực,
sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không bảo đảm sức
khỏe, có sai phạm; chấm dứt tình trạng chạy
chức, chạy quyền. (3) Thực hiện nhất quán chủ trương
bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa
phương ở những nơi đủ điều kiện. (4) Cải cách chính sách tiền
lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công
việc; có cơ chế, chính sách để cạnh tranh lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân
tài có trọng tâm, trọng điểm. (5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó
mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội
ngũ cán bộ.
PHẦN THỨ 2: LIÊN HỆ ĐỊA
PHƯƠNG, ĐƠN VỊ: (Trên cơ sở nghiên cứu các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong
nghị quyết, đối chiếu với thực tiễn địa phương đơn vị, phát hiện những bất cập
cần điều chỉnh, đề ra các kiện nghị xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ)
Thứ nhất: - Thực hiện các giải pháp đồng bộ nâng cao nhận thức; đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ đang công tác tại các cơ
quan Đảng, chính quyền, MTTQ từ huyện đến cơ sở
+ Có các hình thức, thời gian phù hợp để quán triệt sâu sắc
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ và Nhân dân thông
qua tập huấn, diễn đàn, hội thi, hệ thống truyền thanh – truyền hình..
+ Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai
trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những
điển hình tiên tiến, những cách làm mới sáng tạo, có hiệu quả.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng
nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc. Cần hiểu rằng nhận
thức sâu sắc về truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc cũng là một nguồn lực
Thứ 2: tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác cán bộ
Đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ theo hướng: xuyên suốt, liên
tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, so sánh với
chức danh tương đương và công khai kết quả; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và
kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng
nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ
cho phát triển nhanh, bền vững.
Hoàn thiện các quy
định, quy chế để cấp ủy các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượng và nâng
cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào cũng phải có
cấp ủy viên.
Thực hiện nghiêm
việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày
chương trình hành động và cam kết thực hiện. Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới, trường hợp đặc biệt do
cấp có thẩm quyền quyết định. Nhân sự không trúng cử cấp ủy cấp dưới thì không
giới thiệu để bầu cấp ủy cấp trên.
Thứ ba xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời
kỳ mới
Coi trọng, đẩy mạnh trang bị kiến thức
về công tác cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp ủy,
người đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Thực tế hiện nay, một số nơi cán bộ lãnh đạo
còn xem nhẹ, hoặc chưa đủ kiến thức về công tác cán bộ, do vậy phải coi trọng công
tác bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ lãnh đạo về công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ nắm chắc những nguyên tắc, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà
nước
Đẩy mạnh thu hút,
tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ và đặc
biệt quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Khẩn trương cơ cấu, sắp
xếp lại đội
ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm đúng
người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
Kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ càng những cán bộ năng lực hạn chế,
uy tín thấp, không bảo đảm sức khỏe, có sai phạm, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, đến tuổi nghỉ hưu.
thứ tư, kiểm soát
chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền Vấn đề kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền
đang là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong dư luận. Vì thế, các cấp ủy, tổ
chức đảng phải kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả vấn nạn
này.
Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân
sự theo quy định; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu.
Xác minh, xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ảnh từ các tổ chức,
cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng.
Đẩy mạnh công tác
kiểm tra, giám sát, thanh tra theo định kỳ, đột xuất và theo chuyên đề, chuyên
ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả
cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm.
Xử lý kịp thời,
nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành
vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền.
thứ năm , phát huy
vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ
Thực hiện việc
phân công cán bộ, đảng viên phụ trách hộ gia đình nơi cư trú với các hình thức
phù hợp để: Đảng viên nơi cư trú gắn bó mật thiết với nhân dân; truyền đạt chủ trương, đường lối của Đảng đến
với nhân dân và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; nắm chắc
tình hình cơ sở và qua đó, nhân dân giám sát cán bộ,
đảng viên, nhất là giám sát về đạo đức, lối sống.. Như vậy, đảng viên sẽ có điều kiện bám sát và nắm chắc cơ sở hơn
Cụ thể hóa để thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm,
dân giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của
người dân với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
một cách phù hợp.
thứ sáu, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi
trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ
Thường xuyên chăm
lo, xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ thật sự
trong sạch, vững mạnh; đặc biệt coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu
cơ quan tổ chức cán bộ. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt
chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
thứ bày, Rà soát kỹ, bổ
sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc cán bộ và vấn đề chính trị
của cán bộ; Tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn trong quy hoạch để chuẩn
bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025.
Đối với cơ quan, đơn vị..............
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét